Close

Trần Nhân Tông Library

Nghiên cứu thực tế

TRÍ SIÊU LÊ MẠNH THÁT: MỘT SỐ VẤN ĐỀ TƯ TƯỞNG TRẦN NHÂN TÔNG

Vua Trần Nhân Tông đã sống cuộc đời oanh liệt và hoành tráng, có những đóng góp to lớn và thiết thực cho dân tộc và Phật giáo. Thế thì, vua đã sống và hành động theo hướng nào, dưới sự tác động của những suy nghĩ tư tưởng gì?

Ngày nay, toàn bộ những tác phẩm của vua Trần Nhân Tông do Thánh đăng ngữ lục ghi lại như Thiền lâm thiết chủy ngữ lục, Thiền lâm thiết chủy hậu lục, Đại hương hải ấn thi tập, Tăng già toái sự và Thạch thất mị ngữ hoàn toàn đã tán thất. Những gì còn lại chỉ gồm một số bài thơ, văn và ngữ lục được chép rải rác đó đây trong các tác phẩm Việt Nam về sau như Thánh đăng ngữ lục, Việt âm thi tập, Thiền tông bản hạnh, Tam tổ thực lục v.v. và một số các tác phẩm Trung Quốc như Thiên nam hành ký, Trần Cương Trung thi tập v.v. Cho nên, việc nghiên cứu tư tưởng vua Trần Nhân Tông không phải dễ dàng gì. Tuy nhiên, căn cứ vào những gì hiện còn được lưu lại, ta có thể phác họa sơ qua một số vấn đề mà vua Trần Nhân Tông đã từng quan tâm suy nghĩ.

Thứ nhất, từ nhỏ vua Trần Nhân Tông đã quan tâm đến Phật giáo, nhưng khi lên nắm chính quyền, vấn đề đầu tiên là phải bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ và nền độc lập của tổ quốc. Vì thế, có thể dễ dàng thấy rằng vua Trần Nhân Tông phải tập trung suy nghĩ những vấn đề chính trị, kinh tế, ngoại giao và quân sự của đất nước. Phải đưa ra được một sách lược tổng quát để có thể chiến thắng trong cuộc chiến đấu với kẻ thù. Việc chiến đấu với kẻ thù trong hai cuộc chiến tranh giữ nước năm 1285 và 1288 đã hoàn toàn thắng lợi, như đã trình bày ở trên. Thế thì, phương lược tổng quát chỉ đạo cho hai cuộc chiến tranh đó là gì? Câu trả lời tất nhiên là phải huy động mọi tiềm lực dân tộc cho cuộc chiến đấu. Nhưng tiềm lực dân tộc là gì và huy động làm sao?

Tư tưởng đoàn kết

Tiềm lực dân tộc trước hết nằm ở lòng yêu nước của mọi người dân không phân biệt thành phần xã hội, tuổi tác, tôn giáo, nguồn gốc dân tộc. Chính xuyên qua chủ trương này, mà ta thấy trong các đội quân tiến đánh quân Nguyên của vua Trần Nhân Tông có những người thuộc dòng dõi thân vương như Trần Quang Khải, Trần Hưng Đạo, Trần Quốc Tung…; có những người xuất phát từ dân thường như Phạm Ngũ Lão, Nguyễn Khoái…; nhưng cũng có những người là nô tỳ như Yết Kiêu, Dã Tượng; có những người còn rất trẻ như Trần Quốc Toản, nhưng cũng có những người rất già như các vị bô lão tham gia hội nghị Diên Hồng với tiếng hô “quyết chiến”; có những người thuộc các dân tộc thiểu số, như Hà Đặc, Hà Chương, có những đạo sĩ ngoại quốc như Hứa Tông Đạo, thậm chí có những người là tướng tá của kẻ thù như Trương Hiển… Có được một sự tập hợp rộng rãi các thành phần dân tộc khác nhau như thế phải xuất phát từ một chính sách đoàn kết rộng lớn.

Nhưng chính sách đoàn kết này chỉ có thể thực hiện được, khi người dân và người lãnh đạo đất nước có cùng chung một quyền lợi để bảo vệ và một đối tượng để chiến đấu. Trong lời Hịch gửi tướng lĩnh, sĩ quan và binh sĩ, Trần Hưng Đạo đã thay lời Trần Nhân Tông nói rõ điểm này: “Các ngươi ở lâu dưới trướng, nắm giữ binh quyền, không có áo mặc thì ta cho áo, không có ăn thì ta cho cơm, quan thấp thì ta thăng tước, lộc ít thì ta cấp lương, đi thủy thì ta cho thuyền, đi bộ thì ta cho ngựa, lúc ra quân thì cùng nhau sống chết, lúc ở nhà thì cùng nhau vui cười. So với Công Kiên đãi đám tỳ tướng, Ngột Lang đãi kẻ phụ tá, nào có kém gì? Nay các ngươi ngồi nhìn chúa nhục mà không biết lo, thân chịu quốc sỉ mà không biết thẹn, làm tướng triều đình đứng hầu quân mọi mà không biết tức, nghe nhạc thái thường đãi yến sứ ngụy mà không biết giận.

Có kẻ lấy việc chọi gà làm vui. Có kẻ lấy việc đánh bạc làm thú. Có kẻ chăm lo vườn ruộng cung phụng gia đình. Có kẻ quyến luyến vợ con để thỏa lòng vị kỷ. Có kẻ tính đường sản nghiệp mà quên việc nước việc quân. Có kẻ ham trò săn bắn mà nhác tập công tập thủ. Có kẻ thích rượu ngon. Có kẻ mê hát nhảm. Nếu bất chợt giặc Mông thát tràn sang, thì cựa gà trống không đủ đâm thủng giáp giặc, mẹo cờ bạc không đủ làm mưu nhà binh, vườn ruộng giàu không đủ chuộc tấm thân ngàn vàng, vợ con lắm không đủ sung dụng việc nước, của cải nhiều không đủ mua được đầu giặc, chó săn khỏe không đủ đuổi được bọn thù. Rượu ngon không đủ để làm giặc say chết, hát hay không đủ để giặc điếc tai.

Lúc bấy giờ, chúa tôi nhà ta đều cùng bị bắt, đau xót biết chừng nào. Không chỉ thái ấp của ta bị mất, mà bổng lộc các ngươi cũng thuộc về kẻ khác; không chỉ gia quyến ta bị đuổi, mà vợ con các ngươi cũng bị kẻ khác bắt đi; không chỉ xã tắc tổ tông ta bị kẻ khác dày xéo, mà phần mộ cha mẹ các ngươi bị kẻ khác bới đào; không chỉ thân ta kiếp này bị nhục dù đến trăm năm sau tiếng nhơ không rửa tên xấu còn lưu, mà gia thanh các ngươi cũng không khỏi mang danh là tướng bại trận. Lúc bấy giờ, dẫu các ngươi muốn vui chơi thỏa thích, phỏng có được chăng”.

Trần Hưng Đạo đã vạch ra sự thống nhất quyền lợi giữa những người lãnh đạo đất nước và những người dân bình thường. Đây chính là cơ sở của sự đoàn kết toàn dân. Mọi người đều thấy mình có cùng chung một quyền lợi để chia sẻ và do thế phải được cùng nhau bảo vệ. Sự tồn tại của quyền lợi người này là điều kiện và tiền đề để cho quyền lợi người khác tồn tại. Quan hệ biện chứng với quyền lợi này đã xây dựng nên ý thức về sự cùng chung một đất nước, một cộng đồng để mến yêu. Và thực tế, yêu nước chính là yêu gia đình, cha mẹ, vợ con mình, là yêu phần mộ tổ tiên mình, là yêu không gian sông núi đất trời nơi mình đang sống. Có thể nói, Trần Hưng Đạo, lần đầu tiên bằng minh văn, đã chỉ ra rõ ràng những yếu tố tạo nên lòng yêu nước một cách khách quan và có thể hiểu được.

Chính xuất phát từ một nhận thức như thế, trong việc chuẩn bị cho hai cuộc chiến tranh cũng như sau khi hòa bình lập lại, vua Trần Nhân Tông, thông qua chính sách hành chính cũng như qua bản thân cuộc sống của mình, đã thực hiện hàng loạt các biện pháp chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa nhằm xây dựng khối đoàn kết toàn dân ấy. Ta đã thấy vua có biện pháp phát triển đồng bộ nông nghiệp, thương nghiệp và thủ công nghiệp nhằm tạo cái ăn, cái mặc cho người dân. Vua Trần Nhân Tông giải quyết những vấn đề xã hội về tội phạm, về những mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân, để tạo nên một cuộc sống quan hệ xã hội thoải mái. Dưới thời vua Trần Nhân Tông, lần đầu tiên sử sách ta ghi lại việc đọc những chiếu chỉ triều đình không chỉ bằng tiếng Hán mà cả bằng tiếng Việt, tiếng nói hàng ngày của người Đại Việt thời bấy giờ, nhằm cho mọi tầng lớp người dân thuộc nhiều thành phần xã hội khác nhau có thể hiểu được nội dung những chính sách liên hệ đến số phận của họ.

Thực hiện tất cả những chính sách ấy, thực tế vua Trần Nhân Tông mới chỉ thể hiện vai trò một người lãnh đạo chính trị lý tưởng, mà nền Phật giáo thời Lý đã đúc kết nên thông qua bài viết của đại sư Giác Tính Hải Chiếu về danh tướng Phật tử Lý Thường Kiệt: “Ông bên trong thì sáng suốt khoan hòa, bên ngoài thì nhân từ giản dị. Cải tiến phong tục không sợ khó nhọc. Làm việc thì tiết kiệm, sai bảo dân thì ôn hòa, cho nên dân được nhờ cậy. Ông khoan hòa giúp đỡ dân chúng, cho nên được nhân dân kính trọng. Ông dùng oai vũ để diệt quân giặc. Ông đem lòng minh chính để giải quyết ngục tụng, cho nên ngục không quá lạm. Ông biết miếng ăn là trời của muôn dân, nghề nông là gốc của nhà nước, cho nên không làm lỡ thời vụ. Ông tài giỏi mà không khoe khoang, nuôi dưỡng đến cả người già ở nơi thôn dã, cho nên người già được yên ổn. Phép tắc của ông như thế, có thể gọi là cái gốc trị dân, cái thuật yên dân, có bao nhiêu điều tốt đều ở đấy cả”.

Không chỉ bằng lòng thực hiện các chính sách, mà ngay bản thân vua Trần Nhân Tông, trong cuộc sống hàng ngày của mình, cũng đã có những hành động thể hiện cụ thể một chính sách đoàn kết như thế. Ta đã thấy ĐVSKTT 5 tờ 61a4-8 ghi lại sự kiện “vua từng ngự chơi bên ngoài, giữa đường gặp gia đồng của các vương hầu, tất gọi rõ họ tên mà hỏi: ‘Chủ mày ở đâu?’ Răn bảo các vệ sĩ không được la đuổi. Khi về cung bèn gọi tả hữu bảo:

‘Ngày thường thì có tả hữu chầu hầu, tới khi quốc gia nhiều khó khăn thì chỉ bọn ấy có mặt thôi’. Bởi vì vua cảm tình sự hộ tùng của họ trong lúc loạn ly mà nói thế”.

Sự kiện này chứng tỏ vua Trần Nhân Tông không chỉ đánh giá cao những người lãnh đạo tài ba thuộc tầng lớp trên của xã hội, ngay cả những người dân thuộc tầng lớp thấp kém nhất, tầng lớp gia đồng, vua cũng có một đánh giá như thế. Tầng lớp này vào thời điểm ấy có thể không phải thuộc thành phần được học hành nhiều, có của cải khá, nhưng đối với sự tồn vong của quốc gia, họ vẫn có những đóng góp to lớn, thậm chí bằng chính cả xương máu của chính mình.

Đánh giá này của vua Trần Nhân Tông hình như có chung một cơ sở như khi Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn nói về người gia nô Yết Kiêu tại trận Nội Bàng, mà ta có dịp đề cập ở trên: “Ơi, chim hồng hộc có thể bay cao được, tất phải nhờ vào sáu trụ xương cánh. Nếu không có thì cũng như chim thường thôi”. Thời đại vua Trần Nhân Tông có lẽ là thời đại duy nhất trong lịch sử nước ta mà sự thủy chung có trước có sau, trong hoạn nạn cũng như trong vui sướng, đã được thể hiện rõ ràng và nhất quán. Nhà vua cần những người nô tỳ trong chiến tranh, thì sau chiến tranh, vua vẫn quan tâm đến cuộc sống của họ. Có thể chính sự quan tâm này, ngoài lý do an ninh, còn có lý do kinh tế làm cho vua Trần Nhân Tông lưu ý đến vùng Ô Mã và Việt Lý của Chiêm Thành.

Tuy viết sau thời vua Trần Nhân Tông gần cả trăm năm, An Nam Chí Nguyên đã nói tới tình trạng “xứ Giao Chỉ dân cư đông đúc, đất không đủ cày”. Và trước đó, vào năm 1266, vua Trần Thánh Tông đã cho phép các vương hầu, công chúa, phò mã, cung phi chiêu tập dân nghèo phiêu tán các địa phương làm nô tỳ để đi khai thác những vùng đất ruộng hoang hóa dọc theo các vùng biển, để lập các điền trang như ĐVSKTT 5 tờ 30a4-6 đã ghi: “Mùa đông tháng 10 (năm Bính Dần, 1266) xuống chiếu cho vương hầu, công chúa, phò mã và cung phi chiêu tập những người vô sản trôi dạt làm nô tỳ khai khẩn các ruộng hoang, lập làm điền trang, vương hầu có điền trang thực bắt đầu từ đây”.

Sự việc khai thác ruộng hoang như thế vào những năm 1266, đã chứng tỏ áp lực gia tăng dân số của Đại Việt đang trên đà phát triển. Và quá trình gia tăng dân số này có thể nói bắt đầu từ vua Lý Thánh Tông. Khi biết sáp nhập ba châu Địa Lý, Ma Linh và Bố Chính vào bản đồ Đại Việt, đồng thời với việc thành lập thiền phái Thảo Đường. Thiền phái Thảo Đường ra đời là nhằm yểm trợ và thỏa mãn yêu cầu của việc sáp nhập vừa nói. Đây là một vòng phát triển dân số lẩn quẩn. Nước Đại Việt sau 50 năm thanh bình với những chính sách khuyến nông, khuyến thương và phát triển thủ công nghiệp đúng đắn của các vua Lý Thái Tổ (1010-1028) và Lý Thái Tông (1028 – 1054) đã phát triển dân số nước mình tới một mức mà đất đai khai thác được đã đạt đến giới hạn của nó. Thế là cuộc chinh phạt mở rộng biên cương bắt đầu, mà đỉnh cao là việc sáp nhập ba châu vừa nói.

Thế nhưng khi đã sáp nhập được ba châu ấy, thì việc gia tăng dân số phải được khuyến khích hơn nữa cho công cuộc khai thác những vùng đất mới sáp nhập này. Vậy là việc gia tăng dân số phải được khuyến khích nhằm thỏa mãn yêu cầu ấy. Việc gia tăng dân số này ngay vào những năm 1266, vua Trần Thánh Tông đã cảm thấy áp lực của nó. Cho nên ta không ngạc nhiên khi 40 năm sau vua Trần Nhân Tông đã sáp nhập 2 châu Ô Mã và Việt Lý. Một lần nữa, việc sáp nhập này đã làm áp lực dân số giảm đi ở Đại Việt. Song vì yêu cầu của công cuộc khai khẩn vùng đất mới sáp nhập và để tạo cho nó một nền an ninh tương đối vững chãi, thì việc khuyến khích gia tăng dân số lại được đặt ra. Từ đó, giống như sự ra đời của thiền phái Thảo Đường, thiền phái Trúc Lâm ra đời để làm chỗ dựa cho công tác phát triển dân số của nó.

Tư tưởng Cư trần lạc đạo

Ta sẽ thấy thiền phái này có ảnh hưởng mạnh mẽ song song với công cuộc Nam tiến của dân tộc Việt Nam. Trong lịch sử thi cử Việt Nam, nó là thiền phái duy nhất đã được đưa vào chương trình thi đình của thời Lê sơ. Cụ thể là đầu đề bài thi đình năm Cảnh Thống Nhâm Tuất (1502), đề thi này có cả thảy 47 câu hỏi, câu hỏi thứ 15 đã đặt ra thế này: “Điều Ngự và Huyền Quang truyền đạo gì mà được thành Phật làm tổ?”. Lê Ích Mộc (1459 – ?) đã trả lời thế này: “Vả đem đời gần đây mà nói, về Thượng sĩ triều Trần thì có Tiêu Diêu, Tuệ Trung, Điều Ngự, Huyền Quang được pháp vô thượng, cho nên có thể gắn mình vào cảnh giới Di Đà, viết Thiền tông chỉ nam. Đó là cái đạo họ truyền lại vậy. Về sau ai hiểu được lẽ vô sinh, chứng tới thành niết bàn thì thành Phật làm tổ. Điều ấy cố nhiên là phải thôi”. Nhờ trả lời đề thi kiểu ấy, Lê Ích Mộc đã được lấy đỗ trạng nguyên.

Tư tưởng thiền phái Trúc Lâm như vậy đã trở thành một môn học chính quy và được các nhà vua thời Lê sơ quan tâm. Điều này nhìn từ phía mở rộng biên cương về phía Nam của dân tộc, ta thấy hoàn toàn dễ hiểu. Thiền phái Trúc Lâm ra đời là nhằm yểm trợ và thỏa mãn yêu cầu của chính sách Nam tiến của vua Trần Nhân Tông. Nhưng đến thời Lê sơ với những cuộc chinh phạt liên tục về phương nam, mà đỉnh cao là cuộc viễn chinh năm 1470, khi vua Lê Thánh Tông cắm cột mốc phía Nam của tổ quốc trên núi Đá Bia ở Phú Yên, thì yêu cầu gia tăng dân số ngày càng mạnh mẽ. Chính quyền Đại Việt cần đủ số dân để khai khẩn những vùng đất mới sáp nhập và tư tưởng thiền phái Trúc Lâm thỏa mãn yêu cầu này của chính quyền Đại Việt.

Vậy là sau chủ trương và đường lối đoàn kết dân tộc cho sự nghiệp giữ nước, thì tư tưởng thiền phái Trúc Lâm cho sự nghiệp Nam tiến của dân tộc là một đóng góp khác của vua Trần Nhân Tông cho lịch sử tư tưởng Việt Nam. Như ta đã thấy tư tưởng thiền phái này bắt nguồn từ thiền phái Thảo Đường do vua Lý Thánh Tông thành lập. Nó do thế có thể nói là một nối dài hay đúng hơn là một phát triển cao hơn của thiền phái Thảo Đường, nếu không nói là một hóa thân của thiền phái này. Điều đáng tiếc là toàn bộ tư liệu về thiền phái Thảo Đường ngày nay đã hoàn toàn bị tán thất. Ta chỉ còn một bản tên duy nhất ghi lại thế thứ của dòng thiền này và được chép vào cuối sách Thiền uyển tập anh. Vì vậy, mọi bàn cãi về hệ tư tưởng của dòng thiền này tốt lắm thì cũng chỉ là những suy đoán, từ đó dễ đưa đến những nhận định thiếu cơ sở, đôi khi sai lầm.

Dẫu thế, chỉ nhìn vào bản danh sách tên những thiền sư của phái thiền này từ người đầu tiên là vua Lý Thánh Tông cho đến vị thiền sư cuối cùng là phụng ngự Phạm Đẳng, ta thấy trong 5 thế hệ truyền thừa, thế hệ nào cũng có các cư sĩ thiền sư hiện diện và hầu như toàn bộ đều là viên chức nhà nước, tức là vua và quan. Có thế hệ, cư sĩ thiền sư chiếm tuyệt đại đa số. Thí dụ thế thứ 5 có 4 người thì 3 người là vua và quan, đó là hoàng đế Lý Cao Tông, xướng nhi quản giáp Nguyễn Thức và phụng ngự Phạm Đẳng. Vậy nhìn vào bảng danh sách này, điểm đầu tiên đập vào mắt ta chính là sự có mặt nổi trội của các cư sĩ thiền sư. Điều này có nghĩa dòng thiền Thảo Đường là một dòng thiền thế tục, tức dòng thiền chủ yếu phục vụ cho những người có cuộc sống trần gian phải gánh vác.

Điểm thứ hai mà bản danh sách đó đập vào mắt ta là thành phần xã hội của những vị thiền sư thuộc dòng thiền thế tục này. Họ chủ yếu là vua và quan. Ngoài vua ra thì không nói như Lý Thánh Tông, Lý Anh Tông, Lý Cao Tông, những người còn lại phần lớn được ghi rõ tên họ thế tục và chức tước trại triều đình, mà cao nhất là chức thái phó, và thấp nhất là chức xướng nhi quản giáp, một chức do Lý Thái Tổ thiết lập vào năm 1025. Và chính cũng thành phần xã hội này của dòng thiền Thảo Đường đã làm cho nó phải hóa thân thành thiền phái Trúc Lâm, bởi vì không lẽ nào một dòng thiền Phật giáo lại chỉ dành riêng cho một giai tầng xã hội. Có lẽ đây là điểm hạn chế đã làm dòng thiền thế tục Thảo Đường mất đi tính hấp dẫn của nó đối với quảng đại quần chúng. Khi tách ra khỏi bộ phận quảng đại quần chúng này, dòng thiền Thảo Đường chắc không thể nào tồn tại, mà phải hoá thân vào một dòng thiền mới. Dòng thiền mới này là Trúc Lâm Yên Tử.

Ta đã nói dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử có cội nguồn từ dòng thiền Thảo Đường. Nhưng để hình thành, dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử phải thu nhận không chỉ tinh hoa của quá khứ, mà còn tổng hợp được những cống hiến của thời đại mình. Ở trên, tại buổi giảng vào ngày mồng 9 tháng giêng nhuận năm Bính Ngọ (1306) vua Trần Nhân Tông đã cám ơn Vô Nhị Thượng Nhân và Tuệ Trung đại sĩ, là “ơn mưa pháp đã thấm tới cho cháu con được tắm gội”. Vô Nhị Thượng Nhân không ai khác hơn là vua Trần Thánh Tông như Thánh đăng ngữ lục cho ta biết. Còn Tuệ Trung đại sĩ thì chính là Tuệ Trung Trần Quốc Tung, người đã ấn chứng cho vua Trần Nhân Tông trong sự giác ngộ thiền, như chính vua đã ghi lại trong Thượng sĩ hành trạng.

Vua Trần Thánh Tông là người đã sinh thành vua Trần Nhân Tông, như vậy chắc chắn có một ảnh hưởng quyết định đối với sự hình thành và phát triển của tư tưởng Trần Nhân Tông. Thế thì, tư tưởng vua Trần Thánh Tông là gì. Một lần nữa, các tác phẩm của vua Trần Thánh Tông như Văn tập, Thiền tông liễu ngộ ca, Chí giá minh, Phóng ngư và Cừu tập ngày nay đã tán thất hết. Tuy nhiên, căn cứ một số bài thơ và đoạn văn còn lại tới ngày nay trong các tác phẩm như Thánh đăng ngữ lục, Việt âm thi tập, Toàn Việt thi lục…, ta có thể rút ra một số nhận định về tư tưởng Trần Thánh Tông như sau.

Thứ nhất, trong thơ văn Trần Thánh Tông thường xuất hiện tư tưởng thiền của Lý Cao. Chẳng hạn bài thơ đầu tiên do Thánh đăng ngữ lục tờ 12a8 – b3 chép lại của vua Trần Thánh Tông đọc thế này:

Bốn chục năm hơn một tấm lòng

Muôn trùng cửa ngục vượt ra xong

Động như hang trống gào vang gió

Tĩnh tựa hồ yên trăng sáng trong

Câu nọ năm huyền mình hiểu hết

Đường kia mười chữ mặc xáo xông

Có người hỏi tớ tin gì mới

Mây tại trời xanh nước ở thùng.

Câu cuối nguyên văn chữ Hán là:

Vân tại thanh thiên, thủy tại bình.

Câu này nguyên nằm trong bài tứ tuyệt do Lý Cao (772 – 841) viết để tặng cho thiền sư Dược Sơn Duy Nghiễm (751 – 834):

Luyện đắc thân hình tợ hạc hình,

Thiên chu tùng hạ lưỡng hàm kinh.

Ngã lai vấn đạo vô dư thuyết,

Vân tại thanh thiên, thủy tại bình.

Điều này chứng tỏ Trần Thánh Tông rất tâm đắc với những gì Lý Cao thể hiện trong thơ văn mình. Với nhân vật Lý Cao này, tuy là một Phật tử, đã có những bài điều trần lên án việc độ tăng và làm chùa to đúc Phật lớn, cho rằng những việc làm đó chẳng có công đức gì mà chỉ là những việc làm hút máu mỡ của dân. Đối với việc độ tăng, Lý Cao cho rằng: “Những môn đồ đạo Phật không chăn tằm mà quần áo đầy đủ, không cày bừa mà ăn uống sung túc, ngồi rỗi mà kẻ phục dịch có đến mấy nghìn trăm vạn người. Suy ra đủ biết tất có bao nhiêu người đói rét”. Đối với việc làm chùa, đúc tượng, ông lý luận những việc làm ấy tốn kém hơn xây dựng cung A phòng và đặt vấn đề: “Đó há chẳng phải đều lấy từ nhân tài vật lực của trăm họ mà ra đó sao?”. Ta sẽ thấy những từ vừa nêu đã xuất hiện trong nhận xét của Lê Văn Hưu (1230 – ?) về việc làm chùa và độ tăng của Lý Thái Tổ do Ngô Sĩ Liên ghi lại trong ĐVSKTT 2 tờ 3b5 -4a5.

Lê Văn Hưu đã nói thế này: “Lý Thái Tổ lên ngôi vua mới được 2 năm, tông miếu chưa dựng, xã tắc chưa xây, mà trước đã dựng 8 chùa ở phủ Thiên Đức, lại trùng tu chùa quán ở các lộ, độ cho hơn 1000 người ở kinh đô làm sư, thì việc tiêu phí sức lực của cải không thể kể xiết. Của không phải do trời mưa xuống, sức chẳng phải của thần làm cho, há chẳng phải là khơi vét máu mỡ của dân ư? Khơi vét máu mỡ của dân mà có thể gọi là làm phước được ư? Vị chúa sáng nghiệp tự mình cần kiệm, còn sợ con cháu ngày sau xa xỉ lười nhác. Thế mà Thái Tổ để phép lại như vậy, trách gì con cháu đời sau chẳng xây tháp cao ngất trời, dựng cột chùa bằng đá chạm, chùa Phật lộng lẫy hơn cả cung vua.

Đám dưới học theo, đến nỗi có kẻ hủy hoại thân thể, thay đổi y phục, bỏ cảử sản nghiệp, trốn cả bà con, trăm họ quá nửa là sư, trong nước đến đâu cũng có chùa, nguồn gốc há chẳng phải từ đó mà ra sao?”.

Đọc lời vừa bình luận của Lê Văn Hưu, người ta thường có ấn tượng đây là một lời phê phán Phật giáo và đặc biệt là Phật giáo nhà Lý, đứng trên quan điểm Nho giáo. Và trên thực tế hầu hết sách vở viết về Lê Văn Hưu đều có một nhận định chung như thế. Nhưng đó là một nhận định hoàn toàn sai lầm do không nghiên cứu đầy đủ hệ tư tưởng Phật giáo đời Trần. Nếu ai đã đọc tác phẩm của Lý Cao thì sẽ thấy ngay không chỉ tư tưởng mà ngay cả văn cú Lê Văn Hưu dùng trong lời bình luận vừa nêu, đã rút ra từ tác phẩm của Lý Cao. Vậy trong thời Trần, ít lắm là có hai tác giả ở nước ta đã chịu ảnh hưởng sâu đậm hệ tư tưởng Phật giáo của Lý Cao, đó là vua Trần Thánh Tông và Lê Văn Hưu. Đấy là chưa kể ảnh hưởng của Lý Cao đối với thơ của thiền sư Không Lộ (? – 1119) thường biết dưới bài Ngôn hoài.

Ta phải thấy Lê Văn Hưu viết bộ Đại Việt sử ký theo lệnh và dưới sự chỉ đạo của vua Trần Thánh Tông, như ĐVSKTT 5 tờ 33a8-b1 đã ghi: “Mùa xuân tháng giêng năm Nhâm Thân (1272) Hàn lâm viện học sĩ kiêm Quốc sử viện giám tu Lê Văn Hưu vâng lệnh viết xong Đại Việt sử ký từ Triệu Vũ Đế đến Lý Chiêu Hoàng gồm 30 quyển, dâng lên, vua xuống chiếu khen thưởng”. Đại Việt sử ký như thế là một bộ sử chính thức của nhà nước Đại Việt, cụ thể là nhà nước do vua Trần Thánh Tông lãnh đạo, tất nhiên phải phản ảnh quan điểm và lập trường viết sử của nhà nước này. Vì vậy ta không có gì ngạc nhiên khi tư tưởng và văn cú của Lý Cao đã xuất hiện trong thơ văn của Trần Thánh Tông và Lê Văn Hưu.

Dĩ nhiên vấn đề làm chùa và độ người cho đi tu không phải đến thời Trần Thánh Tông mới trở thành một vấn đề nổi cộm cần xử lý. Ngay từ cuối thời Lý, vào những năm đầu của thế kỷ thứ 13, Đàm Dĩ Mông đã đề nghị sa thải tăng đồ với lời lẽ hết sức thô bạo, mà Đại Việt sử lược 3 tờ 13a10-b2 đã ghi lại: “Nay Tăng đồ cùng với dịch phu quá nửa, bọn chúng tự kết bè đảng, dựng bậy thầy trò, tụ nhóm, ở bầy, làm nhiều việc dơ, hoặc ở giới trường tinh xá, ngang nhiên rượu thịt, hoặc tại thiền phòng tịnh viện, riêng tự gian dâm, ngày ẩn tối ra, như đàn cáo chuột. Chúng làm nát tục hư đạo, dần dần thành thói. Việc đó nếu không cấm, để lâu càng tệ thêm”.

Trong các tác phẩm của mình, Trần Thái Tông cũng đã nói đến tình trạng: “Khi tới chùa chiền, gần Phật gần kinh, mắt không thèm ngó, phòng tăng điện Phật, gặp gỡ gái trai, cuối mắt đầu mày, ham mê sắc dục, không kiêng Hộ Pháp, chẳng sợ Long Thần, trố mắt ham vui, đầu chưa từng cúi”, và “chẳng riêng người tục, cả đến thầy Tăng, kinh luận tranh giành, cùng nhau công kích, chê các sư trưởng, nhiếc đến mẹ cha, cỏ nhẫn lụi vàng, lửa độc rực cháy, buông lời đau vật, cất tiếng hại người, không nghĩ từ bi, không theo luật cấm, bàn thiền tựa thánh, trước cảnh như ngu, dẫu ở cửa không, chưa thành vô ngã”.

Tình trạng chùa chiền và tăng lữ Phật giáo thời vua Trần Thái Tông như thế. Cho nên, trong Phổ khuyến phát bồ đề tâm, Trần Thái Tông đã đưa ra chủ trương: “Chẳng hỏi đại ẩn tiểu ẩn, đâu phân tại gia xuất gia, chẳng nề tăng tục, chỉ cốt rõ lòng, vốn không nữ nam, cớ sao trước tướng. Người chưa hiểu chia bừa thành tam giáo, giác ngộ rồi cùng thấu một chữ tâm”. Chính xuất phát từ một chủ trương như vậy, Trần Thánh Tông và Lê Văn Hưu mới cho việc làm chùa xây tháp là “khơi vét máu mỡ của dân” và những kẻ xuất gia chỉ là những người “hủy hoại thân thể, thay đổi y phục, bỏ bê sản nghiệp, trốn tránh bà con”.

Lớn lên và được giáo dục trong một môi trường văn hóa như thế của gia đình, tất nhiên vua Trần Nhân Tông cảm thấy tính bức xúc của việc đề ra một giải pháp vừa có lợi cho nước cho dân, vừa có ích cho đạo. Và chính ở đây vai trò của Tuệ Trung Trần Quốc Tung trở nên quan trọng. Trong đoạn văn ghi lại kinh nghiệm ngộ đạo của mình qua cuộc đối thoại vào năm 1287 đã trích ở trên, vấn đề đặt ra hết sức cụ thể và thường gặp, đó là: “Chúng sinh quen với việc uống rượu ăn thịt thì làm sao tránh được tội báo?”. Đây là một thực tế ta có thể gặp ở bất cứ thời nào và ở bất cứ địa phương nào, chứ không phải chỉ là một thực tế của thời đại Trần Nhân Tông và tại quốc gia Đại Việt. Cách giải quyết thực tế này hết sức giản dị theo quan điểm của Tuệ Trung. Đó là đừng đặt nó thành vấn đề. Bản thân của việc uống rượu ăn thịt chẳng có gì là tội phúc trong đó cả. Đúng như Tuệ Trung đã trả lời:

Ăn cỏ với ăn thịt

Chúng sinh mỗi có thức

Xuân về trăm cỏ sinh

Chỗ nào thấy tội phúc.

Đến sau này, khi viết bản Cư trần lạc đạo phú, Trần Nhân Tông đã diễn tả lại quan điểm ấy một cách dễ hiểu hơn:

Ở đời vui đạo hãy tùy duyên

Đói cứ ăn đi mệt ngủ liền

Có báu trong nhà thôi khỏi kiếm

Vô tâm đối cảnh hỏi chi thiền.

Thế đã rõ, đối với Trần Nhân Tông, Phật giáo là cuộc sống, không có sự cách ly phân biệt, bởi vì Phật giáo là gì, nếu không phải đó là một quá trình đi tìm chân lý. Mà chân lý thì không nằm trong Phật giáo, mà nằm chính ngay ở giữa lòng cuộc sống. Nói một cách hình ảnh như trong kinh Kim cương, mà Phật giáo đời Trần coi như một bộ kinh cơ bản, thì giáo lý Phật giáo như ngón tay chỉ mặt trăng, như chiếc bè đưa người sang sông. Cho nên, ngay cả giáo lý Phật cũng phải buông bỏ, mới có thể giác ngộ được. Và cũng chính kinh này đã nhấn mạnh đến tư tưởng “tất cả pháp đều là Phật pháp”. Từ đó, ta không ngạc nhiên với chủ trương Cư trần lạc đạo (ở đời mà vui đạo) của vua Trần Nhân Tông.

Nội dung tư tưởng Cư trần lạc đạo

Bài phú viết về tư tưởng ở đời mà vui đạo này có tên chính thức là Cư trần lạc đạo phú, gồm 10 hội. Cho nên, trong bản thư mục của An Thiền viết vào đầu thế kỷ thứ 19 ở Đạo giáo nguyên lưu quyển thượng tờ 5a6, nó được gọi là Trần triều thập hội lục. Ngay câu mở đầu của hội thứ nhất, Trần Nhân Tông đã xác định cho ta biết phạm trù đời và đạo ở đây có nghĩa gì:

Mình ngồi thành thị

Nết dụng sơn lâm

(Hội thứ nhất)

Đời là thành thị, đạo là sơn lâm. Nhưng một con người dù ở thành thị, gánh vác bao nhiêu việc đời, song cách xử lý vấn đề của người ấy vẫn thanh tịnh trong sạch như ở núi rừng. Đây rõ ràng phản ảnh quan điểm “chẳng hỏi đại ẩn tiểu ẩn, không chia tại gia xuất gia”, mà Trần Thái Tông đã đề ra. Xưa nay ai cũng biết đại ẩn là sống ở thị thành mà vẫn giữ lòng mình trong sáng, còn tiểu ẩn là tránh vào núi rừng để trau dồi bản thân. Người Phật tử Việt Nam vào thời Trần, như thế, tùy vào thành phần xã hội, tùy theo khả năng, mà thể hiện đạo sống của mình ở giữa đời. Cho nên để giác ngộ, họ chỉ cần:

Dứt trừ nhân ngã,

Thì ra thực tướng kim cương

Dừng hết tham sân,

Mới làu lòng mầu viên giác.

(Hội thứ hai)

Từ đó, không có vấn đề phải tìm một nơi nào khác, ngoài chỗ mình đang sống, để tìm ra sự giác ngộ được. Nếu vào thời mình vua Trần Thái Tông đã nghe quốc sư Phù Vân nói tới việc “trong núi vốn không có Phật, Phật ở ngay trong lòng, lòng lặng mà hiểu, đó chính là chân Phật” thì khi viết Cư trần lạc đạo phú, vua Trần Nhân Tông cũng đã đồng tình:

Áng tư tài, tính sáng chẳng tham,

Há vì ở Cánh Diều Yên Tử

Rần thanh sắc, niệm dừng chẳng chuyển,

Lọ chi ngồi am Sạn non Đông.

Đâu phải vì sống ở trên núi Cánh Diều của Yên Tử hay tại am Sạn của Đông Sơn, mà người ta có thể giác ngộ được. Những nơi ấy có thể để cho ta ngắm nhìn vẻ đẹp của non sông, mà di dưỡng tinh thần, như Huyền Quang đã viết trong Vịnh Vân Yên tự phú:

Ta nay:

Ngồi đỉnh Vân Tiêu

Cưỡi chơi Cánh Diều

Coi Đông Sơn tựa hòn kim lục

Xem Đông Hải tựa miệng con ngao

Sự giác ngộ do thế phải tìm ở giữa cuộc đời. Đừng tìm nó trong rừng núi. Tuy nhiên ,vua Trần Nhân Tông không phải đi đến chỗ cực đoan phủ nhận lợi ích của rừng núi và cuộc sống ở rùng núi. Bản thân vua Trần Nhân Tông đã nhiều lần vào sống những nơi rừng núi hoang dã như Yên Tử, Vũ Lâm. Trong Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca, vua Trần Nhân Tông đã tả lại cuộc sống rừng núi ấy:

Yên bề phận khó

Kiếm chốn dưỡng thân

Khuất tịch non cao

Náu mình sơn dã

Vượn mừng hủ hỷ

Làm bạn cùng ta

Vắng vẻ ngàn kia

Sanh lòng hỷ xả

Điểm quan trọng không phải là sống ở rừng núi hay thị thành. Vấn đề là làm sao giác ngộ được sự thật. Đấy là mấu chốt của vấn đề. Ta đã thấy sự giác ngộ có thể tìm thấy ở bất cứ nơi đâu, đặc biệt là chính giữa cuộc đời trần tục đầy những hệ lụy thế sự. Chính trong cuộc đời trần tục ấy mà giác ngộ được thì giá trị còn nâng lên gấp bội. Bởi vì bất cứ một đất nước nào cũng đều là một cộng đồng dân tộc với nhiều nghĩa vụ xã hội và liên đới trách nhiệm. Không ai có thể tồn tại bên ngoài xã hội. Do thế, vua Trần Nhân Tông đã ca ngợi và quý trọng một sự giác ngộ được thực hiện ở giữa cuộc đời đầy phiền lụy và liên đới ấy, mà bản thân vua là một thí dụ điển hình:

Trần tục mà nên, phúc ấy càng yêu hết tấc

Sơn lâm chẳng cốc, họa kia thực cả uổng công.

(Hội thứ ba)

Thực tế bản thân vua Trần Nhân Tông đã tìm thấy sự giác ngộ của mình chính trong những ngày rộn rịp nhất của cuộc đời mình khi đang ráo riết chuẩn bị để đối phó với cuộc chiến tranh do Hốt Tất Liệt tiến hành đối với nước ta vào mùa hè năm 1287. Thời điểm giác ngộ này lại xảy ra ngay sau khi mẹ vua Trần Nhân Tông vừa mất. Giữa bao nhiêu biến động và phiền toái của cuộc đời, con người vẫn tìm ra những giờ phút an nhàn tự tại cho bản thân mình. Đúng như Trần Nhân Tông đã nói:

Muôn nghiệp lặng, an nhàn thể tính

Nửa ngày rồi, tự tại thân tâm

Từ đó mọi người nếu đạt được “muôn nghiệp lặng” thì thể tính mình an nhàn. Sự giác ngộ đâu cần tách rời con người, và đức Phật ở ngay bên trong mỗi một chúng ta. Vua Trần Nhân Tông nói nếu mỗi một chúng ta sống có đạo đức nhân nghĩa, sống có kỷ luật và rộng lượng thì mỗi một chúng ta đều là những vị Phật Thích Ca, vị Phật Di Lặc:

Tích nhân nghì, tu đạo đức

Ai hay này chẳng Thích Ca

Cầm giới hạnh, đoạn xan tham,

Chỉn thực ấy là Di Lặc.

(Hội thứ tư)

Như thế đâu chỉ có một vị Phật Thích Ca lịch sử và một vị Phật Di Lặc của tương lai. Người Phật giáo thời đại Trần Nhân Tông thấy mình có thể sống như những vị Phật này, nếu cùng với nhân nghĩa và đạo đức, họ có một cuộc sống giản dị:

Áo miễn chăn đầm ấm qua mùa

hoặc chằm hoặc xể

Cơm cùng cháo đói no đòi bữa

dầu bạc dầu thoa

(Hội thứ năm)

Đọc hai câu này ta nhớ đến sự kiện vua Trần Nhân Tông, sau khi cứ điểm Nội Bàng thất thủ vào cuối năm Giáp Thân, đã từ kinh thành đi ra Hải Đông gặp Trần Hưng Đạo, suốt ngày không ăn, đến chiều tối có tên tiểu tốt Trần Lai đem dâng cho vua một bát cơm gạo xấu, mà ĐVSKTT đã ghi lại ở trên. Người Phật tử Việt Nam, đến ngay như cả một vị vua, đã sống giản dị như thế, nhưng họ là những người:

Sạch giới lòng, dồi giới tướng,

nội ngoại nên Bồ Tát trang nghiêm

Ngay thờ chúa, thảo thờ cha,

đi đỗ mới trượng phu trung hiếu.

(Hội thứ sáu)

Mẫu người Phật tử Việt Nam thời Trần, như thế, là một mẫu người Bồ Tát trang nghiêm, là một mẫu người trượng phu trung hiếu. Bồ Tát dĩ nhiên là một phạm trù tư tưởng lớn của Phật giáo, còn trượng phu là một phạm trù của tư tưởng Nho giáo. Nhưng cứ đọc các tác phẩm Nho giáo nói về trượng phu, ta mới thấy những đóng góp mới của Trần Nhân Tông. Trong thiên Đằng Văn Công hạ của Mạnh tử ta được bảo rất rõ thế nào là một trượng phu: “Phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất, thử chi vị đại trượng phu” (giàu sang không thể mê hoặc, nghèo hèn không thể lay chuyển, uy vũ không thể khuất phục, đó gọi là đại trượng phu).

Trượng phu trong tư tưởng Nho giáo là thế, nhưng so với định nghĩa của Trần Nhân Tông ta thấy nội dung đó hạn hẹp và tủn mủn, bởi vì “ngay thờ chúa, thảo thờ cha”, một con người như thế tất không thể nào bị tác động bởi giàu sang nghèo hèn hay uy vũ. Nội hàm của phạm trù trượng phu trong tư tưởng Trần Nhân Tông do vậy tỏ ra rộng lớn và phong phú hơn nhiều. Đây là một thí dụ điển hình khác của việc tổ tiên ta có thể sử dụng một số từ ngữ Trung Quốc, mà khi đọc lên, thường gây ấn tượng mang sắc thái Nho giáo. Nhưng khi đi sâu vào phân tích, ta thấy những từ ngữ này mang một nội dung khác hẳn. Trước đây, chúng tôi đã thử phân tích tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi mà người ta thường cho là của Nho giáo, và đã đạt đến những kết luận hoàn toàn khác hẳn.

Từ đó mẫu người lý tưởng của Phật giáo Việt Nam lần đầu tiên được quy định một nội dung hết sức cụ thể. Họ không chỉ “sạch giới lòng, dồi giới tường” để trở nên “Bồ Tát trang nghiêm”, mà còn “ngay thờ chúa, thảo thờ cha” để thành những “trượng phu trung hiếu”. Đây có thể nói là một đúc kết về hình tượng người Việt Nam lý tưởng, chứ không phải chỉ của Phật giáo. Thực tế những người làm nên sự nghiệp oanh liệt của dân tộc ta vào thời Trần Nhân Tông có thể nói hầu hết đều là Phật tử, từ những vị lãnh đạo tối cao ở trung ương như Trần Hưng Đạo, Trần Quang Khải cho đến những người dân ở xã ấp như Lê Công Mạnh và anh em con cháu. Vì họ là những Bố Tát trang nghiêm nên đối với bản thân họ giữ gìn kỷ luật và sống cuộc sống có lý tưởng. Nhưng đồng thời họ cũng là những trượng phu trung hiếu, nên họ trung thành với tổ quốc ,ợ sống hiếu thảo với cha mẹ ông bà:

Vâng ơn Thánh, xót mẹ cha,

thờ thầy học đạo.

Mến đức Cồ, kiêng bùi ngọt,

cầm giới ăn chay.

(Hội thứ bảy)

để có thể đóng góp cho xã hội qua những công tác cụ thể như bắc cầu, đóng đò với một tấm lòng hỷ xả, từ bi:

Dựng cầu đò, dồi chiền tháp,

Ngoại trang nghiêm sự tướng hãy tu.

Săn hỷ xả, nhuyễn từ bi

Nội tự tại kinh Lòng hằng đọc

(Hội thứ tám)

Sau hai cuộc chiến tranh do quân thù áp đặt vào những năm 1285 và 1288, bao nhiêu cơ sở hạ tầng của đất nước ta, đặc biệt là hệ thống cầu cống và bến đò, do yêu cầu tác chiến về phía ta cũng như sự tàn phá không tiếc thương của kẻ thù, đã bị hủy hoại gần hết. Thế mà trong lần đi sứ vào năm Chí Nguyên Nhâm Thìn (1292), tên phó sứ Trần Phu đã thấy ở kinh đô Thăng Long của Đại Việt những chiếc cầu bắc qua sông hùng vĩ. Y viết: “Từ sứ quán đi 60 dặm thì qua tới cầu An Hóa, lại đi một dặm thì đến phía bắc cầu Thanh Hóa. Trên cầu này là một ngôi nhà 19 gian” như ta đã thấy ở trên. Cả nước Đại Việt là một công trường xây dựng lớn sau chiến tranh. Người dân Đại Việt hăng say lao động để kiến tạo lại đất nước mình sau những năm chiến tranh gian khổ và mất mát.

Chính hình ảnh và khí thế của những con người lao động như thế đã đập vào mắt người lãnh đạo đất nước, để lại trong tâm khảm những ấn tượng khó phai mờ. Cho nên khi viết Cư trần lạc đạo phú, vua Trần Nhân Tông đã không quên đưa việc dựng cầu đò, xây chiền tháp để làm cho đất nước đẹp đẽ, trở thành một nhiệm vụ, một nghĩa vụ mà người Phật tử Việt Nam có bổn phận phải hoàn thành đối với tổ quốc. Và tổ quốc Việt Nam sau những năm tháng chiến tranh ấy đã trở thành một cõi đất Phật, mà trạng nguyên Huyền Quang Lý Tải Đạo đã diễn tả trong bài phú Vịnh chùa Vân Yên:

Phen những ôi!

Tây Trúc dường nào

Nam châu có mấy

Non Linh Thứu ai đem về đây

Cảnh Phi Lai mặt đà thấy đấy,

Vào chưng cõi Thánh thênh thênh

Thoát rẽ lòng phàm phây phấy

Đất nước Việt Nam vào thời ấy được nhìn như thế. Cho nên, người dân đã sẵn sàng hy sinh chiến đấu để bảo vệ, và cũng sẵn sàng hăng say xây dựng để kiến tạo một cõi Phật cho chính mình và con cháu. Người Phật tử Việt Nam vào thời ấy tuy có nhận định việc xây dựng chùa chiền là “khơi vét máu mỡ của dân”, nhưng không phải cực đoan đi đến chỗ phủ nhận việc xây dựng chùa chiền, hay chống lại một sự nghiệp như thế. Có lẽ trong tâm thức tầng lớp lãnh đạo Phật tử Việt Nam thời đó vẫn thấy chùa chiền là nơi để củng cố nền vững bền của đất nước. Phạm Sư Mạnh, người học trò xuất sắc của Chu Văn An (1292 -1371), đã viết về chùa Báo Thiên với những câu:

Trấn áp đông tây củng đế kỳ

Khuy nhiên nhất tháp độc nguy nguy

Sơn hà bất động kình thiên trụ

Kim cổ nan ma lập địa chu

(Trấn áp đông tây giữ đế đô

Ngang nhiên ngọn tháp vút lên nhô

Non sông vững chãi tay trời chống

Kim cổ dựng xây đất khó mờ)

Và gần hai trăm năm sau, vua Lê Thánh Tông vẫn viết về chùa Trấn Quốc trong cùng một mạch suy nghĩ như vậy:

Trung lập càn khôn vững đế đô

Mãng danh Trấn Quốc ở Tây Hồ

Cho nên, vua Trần Nhân Tông vẫn kêu gọi mọi người, không chỉ “dựng cầu đò”, mà còn phải “dồi chiền tháp”, vẫn đánh giá cao vai trò của chùa chiền trong đời sống văn hóa xã hội của người dân, như chính vua Trần Nhân Tông đã nhận xét:

Núi hoang rừng quạnh,

ấy là nơi dật sĩ tiêu dao.

Chiền vắng am thanh,

chỉn thực cảnh đạo nhân du hí

Quả vậy, dù nói gì thì nói, ngôi chùa trong một buổi chiều thu nào đó có thể đã gợi cho họ những cảm xúc man mác, mà bản thân vua Trần Nhân Tông đã trải qua:

Chùa cổ đìu hiu khuất khói thu

Thuyền câu chiều quạnh tiếng chuông đưa

Nước quang núi lặng bay âu trắng

Gió đứng mây đùa cây đỏ thưa

(Cổ tự thê lương thu ái ngoại

Ngư thuyền tiêu sắt mộ chung sơ

Thủy minh sơn tịnh bạch âu quá

Phong định vân nhàn hồng thụ sơ)

Nhưng dựng cầu đò, xây chiền tháp, người Phật tử Việt Nam thời Trần Nhân Tông vẫn không quên nhiệm vụ chủ yếu của mình là đi tìm sự giác ngộ thông qua chính cuộc sống trần thế của mình:

Rèn lòng làm Bụt,

chỉn xá tua một sức dồi mài.

Đãi cát kén vàng,

còn lại phải nhiều phen lựa lọc.

Song để “rèn lòng làm Bụt”, người Phật tử có nhiều cách. Có thể họ học theo lối của thiền sư Nam Tuyền Phổ Nguyện chém mèo, hoặc theo cách Tử Hồ Lợi Tung đuổi chó v.v.

Vương lão chém mèo,

rạt thảy lòng ngừa thủ tọa

Thầy Hồ khua chó,

trỏ xem trí nhẹ con giàng.

(Hội thứ chín)

Và còn nhiều phương pháp giác ngộ khác nhau nữa, mà vua Trần Nhân Tông đã dành cả hội thứ chín này để trình bày từ thời sơ tổ Đạt Ma gặp vua Vũ Đế nhà Lương cho đến thiền sư Linh Vân Chí Cần thấy hoa đào nở mà giác ngộ, đại sư Hương Nghiêm khi cuốc đất, hòn đá văng vào cây trúc, nghe tiếng gõ và hiểu được chuyện trước khi cha mẹ sinh ra ta là ai.

Dù có nhiều phương pháp và phương thức giác ngộ khác nhau, nhưng chúng vẫn không khác nhau là mấy, vì chân lý giác ngộ là một:

Vậy cho hay:

Cơ quan tổ giáo

Tuy khác nhiều đàng

Chẳng cách mấy gang.

(Hội thứ chín)

Sống đời mà vui đạo theo vua Trần Nhân Tông như thế là một cuộc sống thiền, có thể dùng các phương pháp thiền khác nhau để giác ngộ, chứ không gò bó vào bất cứ một lối thiền nhất định nào. Người hành giả có nhiều lựa chọn, nhưng điểm đến cuối cùng vẫn không thay đổi, đó là tìm sự giác ngộ trong đời sống thường ngày của mình, không phân biệt sơn lâm hay thành thị:

Tượng chúng ấy

Cốc một chân không

Dùng đòi căn khí

Nhân lòng ta vướng chấp khôn thông

Há cơ tổ nay còn thửa bí

Chúng tiểu thừa cốc hay chửa đến,

Bụt xá ngăn bảo sở hóa thành

Đấng thượng sĩ chứng thực mà nên

Ai ghẻ có sơn lâm thành thị

(Hội thứ 10)

Phương pháp thiền khác nhau là vì dùng cho những căn cơ khác nhau, nhưng chân lý là một. Nếu chúng ta chưa giác ngộ được thì vì bản thân mình chưa đạt tới chứ không phải vì các phương pháp Phật tổ bày ra mà không thực hiện được. Tất nhiên vua Trần Nhân Tông cũng giống như các thiền sư trước thời mình đều biết rõ thiền không phải dễ giác ngộ gì. Cho nên trong Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca vua đã nói tới tình trạng:

Phô người học đạo

Vô số nhiều thay

Trúc hóa nên rồng

Một hai là họa

Thực tế này không phải là mới. Một thiền sư Trung Quốc là Vĩnh Minh Diên Thọ (904 -975) cũng từng nói đến việc tu thiền “muôn người tu thì một người được”. Còn bản thân vua Trần Nhân Tông cũng thấy là vô số người tu thiền, nhưng chứng được thiền thì họa may có được một hai. Và chính ngay vua Trần Thái Tông cũng nói đến tình trạng những vị sư tu thiền là “bàn thiền tợ thánh, đối cảnh như ngu”. Lý do cho tình trạng này, vua Trần Nhân Tông đã chỉ ra cũng ở Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca:

Bởi lòng vờ vịt

Trỏ bắc làm nam

Chỉ ra như thế này ta thấy đâu đây như vang bóng câu trả lời của Pháp Minh cho hoàng đế Lý Miễu cách thời vua Trần Nhân Tông đã gần ngàn năm: “Ôm lấy chuyện bậy để hy vọng điều phải, giữ chặt việc giả để chờ đợi sự chân, chần chờ hai lòng, trù trừ đôi ngả thì Phật dù có phóng quang động địa, ai mà có thể thấy cho ư?”.[1] Rõ ràng, lòng vờ vịt của vua Trần Nhân Tông chính là lối “chần chờ hai lòng, trù trừ đôi ngả” của những người muốn thấy Phật vào thời Lý Miễu. Một khi lòng dạ đã vậy, thì chắc chắn chỉ “ôm chuyện bậy mà mong điều phải, giữ việc giả để chờ sự chân”, bảo đi về hướng bắc nhưng lại theo phương nam mà rảo bước. Thế thì làm sao mà hy vọng giác ngộ được.

Tuy nhiên, khi đã giác ngộ rồi, thì đâu có phân biệt gì sự khác nhau giữa sơn lâm và thành thị, giữa đạo và đời, giữa cuộc sống tĩnh lặng trong rừng núi và công việc xô bồ ở phố phường. Nội dung của tư tưởng Cư trần lạc đạo là thế. Nó được hình thành để thỏa mãn yêu cầu lý luận cho một giai đoạn Phật giáo mới, giai đoạn người Phật tử phải thực hiện nhiệm vụ dân tộc của mình, đồng thời phải tạo cho Phật giáo một sức sống mới bằng cách đưa giáo lý vào trong việc thực hiện nhiệm vụ dân tộc đó, mà bản thân vua Trần Nhân Tông là một điển hình nổi bật.

Ta đã thấy sau khi xuất gia “mặc cà sa, nằm trướng giấy” với “cà một vò, tương một hủ” ở tại núi Yên Tử, vua Trần Nhân Tông đã không bao giờ sao nhãng đối với các vấn đề đất nước, đặc biệt là vấn đề Chiêm Thành. Hai châu Ô, Lý đã trở thành đất đai Đại Việt trong thời gian vua đã xuất gia. Đây phải nói là một điểm sáng lạ kỳ trong đời sống của một người xuất gia như vua Trần Nhân Tông. Chưa bao giờ trong lịch sử Phật giáo ở nước ta hay ở bất cứ một nước nào khác, mà một người xuất gia lại có thể mở mang bờ cõi, và mở mang bờ cõi một cách hòa bình. Căn cứ vào giới luật của hàng Phật tử bình thường sống ở các chùa chiền, mà ta hay gặp, thì một người xuất gia không bao giờ được phép đi làm mai mối cho việc dựng vợ gả chồng. Những bộ luật như Tứ phần luật Tỳ kheo giới bổn ĐTK 1429 tờ 1016a15-17, Tứ phần luật ĐTK 1428 tờ 582c15-584a15, Di sa tắc ngũ phần giới bổn ĐTK 1422 tờ 195b3-5, Di sa tắc bộ hòa ê ngũ phần luật ĐTK 1421 tờ 12a16-13a11, Thập tụng Tỳ kheo Ba la đề mộc xoa giới bổn ĐTK 1436 tờ 471b12-14, Thập tụng luật ĐTK 1435 tờ 18a11-20b6… tất cả đều thống nhất cấm việc người xuất gia làm mai mối ấy. Thế mà Hương Vân Đại Đầu Đà đã làm việc đó và đã làm một cách thành công. Tất nhiên, Phật giáo Việt Nam, đặc biệt là Phật giáo thiền tông, có những quy định giới luật của riêng mình, mà họ gọi là “quy ước thiền đường”, như nhan đề một cuốn sách của thiền sư Minh Giác Kỳ Phương (1682-1744) đã có và thường không liên hệ nhiều với loại giới luật Phật giáo bình thường khác.

Điểm đặc biệt thứ hai là sau khi đã làm mai mối thành công như thế, vua Trần Nhân Tông trở về Đại Việt gặp sự chống đối của hầu hết triều đình, đặc biệt là tầng lớp trí thức thời bấy giờ. Họ đã viết văn làm thơ để chê cười việc Hương Vân Đại Đầu Đà đem cô con gái cành vàng lá ngọc của mình gả cho vua Chiêm mà họ cho là tên mọi, một giống người hạ cấp. Quan điểm kỳ thị này hơn một trăm năm sau, những trí thức như Ngô Sĩ Liên vẫn tiếp tục bám lấy và lên tiếng bình luận:

“Xưa Hán Cao Hoàng vì Hung Nô nhiều lần làm khổ biên giới, đem con gái nhà dân làm công chúa để gả cho thiền vu. Kết hôn với người không phải giống, tiên nho đã từng chê, song có ý muốn việc binh đao được chấm dứt và dân được yên. Điều đó còn có thể nói được. Nguyên Đế nhà Hán, nhân Hô Hàn đến, chầu xin làm rể nhà Hán, nhà Hán đem Vương Tường gả cho, cũng là có cớ. Còn Nhân Tông đem con gái gả cho chúa Chiêm Thành là nghĩa gì? Nếu nói nhân đi chơi, trót hứa, sợ thất tín, thì sao không đổi mệnh được ư? Vua giữ ngôi trời, còn Thượng hoàng thì đã xuất gia, vua đổi mệnh có khó gì, mà lại đem gả cho người xa không phải giống cho đúng lời hứa trước, rồi lại dùng mưu gian đánh cướp lại về sau, thế thì tín ở đâu?”.

Phải là một người thấm nhuần sâu sắc tư tưởng Phật giáo như vua Trần Nhân Tông mới có một cái nhìn bình đẳng về con người. Từ thời Mâu Tử, người Phật giáo đã sử dụng lý luận mọi người đều có tính Phật để bác bỏ tư tưởng kỳ thị của Đại Hán cùng sự hùa theo của đám nhà Nho để coi dân tộc ta là mọi rợ và người Hán là Hoa Hạ. Nghe lời bình luận vừa nêu của Ngô Sĩ Liên, ta vẫn còn thấy phảng phất thứ tư tưởng kỳ thị a dua ấy. May mắn cho dân tộc là vào lúc đó còn có các nhà lãnh đạo đất nước có trách nhiệm đã thấm nhuần sâu sắc giáo lý Phật giáo như Văn Túc Vương Trần Đạo Tải và Trần Khắc Chung đã quyết định việc này, và đưa đến một kết thúc êm đẹp. Công chúa Huyền Trân đã đi về nhà chồng và nhân dân Đại Việt không tốn một mũi tên, một người lính mà có thêm một dãi đất trên 200 cây số.

Hệ tư tưởng của dòng thiền Trúc Lâm do vua Trần Nhân Tông sáng lập, như thế đã giải quyết một loạt các vấn đề đặt ra cho Phật giáo Việt Nam vào thời đó nhằm cơ bản thỏa mãn được các đòi hỏi của dân tộc, mà trước đó chưa được thỏa mãn. Ta đã thấy không phải vô cớ mà tư tưởng Cư trần lạc đạo đã được đề ra và xác định nội dung. Một lần nữa, hệ tư tưởng này đã được chứng minh là xuất phát từ thực tiễn của Đại Việt và có nhiệm vụ giải quyết những vấn đề do thực tiễn này phát sinh.

Lý thuyết Nhà nước

Tư tưởng đoàn kết và Cư trần lạc đạo trước hết xuất phát từ yêu cầu của thực tiễn lịch sử Đại Việt thời vua Trần Nhân Tông. Nhưng đồng thời, chúng là những hệ luận tất yếu của học thuyết Nhà nước do vua Trần Nhân Tông đề ra. Học thuyết này, như sẽ thấy, không chỉ chi phối sự phát triển và xây dựng Nhà nước thời đại Trần Nhân Tông, mà còn đối với những Nhà nước của những giai đoạn lịch sử tiếp theo cho tới ngày nay của đất nước ta. Thật vậy, muốn sáng lập và xây dựng Nhà nước, chúng ta phải đoàn kết toàn dân. Mà muốn đoàn kết toàn dân, thì ta phải đáp ứng những yêu cầu bức thiết của họ. Những yêu cầu này, Cư trần lạc đạo phú đã nói tới, đó là mẫu người Đại Việt lý tưởng:

Sạch giới lòng, dồi giới tướng,

nội ngoại nên bồ tát trang nghiêm.

Ngay thờ chúa, thảo thờ cha

đi đỗ mới trượng phu trung hiểu

Đây là những con người trung hiếu, biết xả thân vì nghĩa lớn, vì đồng bào, đồng loại của mình. Chính những con người này đã làm nên những chiến công vang dội Bạch Đằng, Hàm Tử, Chương Dương, đã xây dựng thành công một nước Đại Việt giàu mạnh, làm cho sứ giả quân thù phải:

Giáo sắt bóng ngời đau dạ thẳm

Trống đồng tiếng dội bạc đầu xanh

Tất nhiên họ là những con người cụ thể, không phải là thần thánh. Cho nên, khi nêu lên mẫu người lý tưởng trong diễn đạt tư tưởng Cư trần lạc đạo, cuối cùng, Trần Nhân Tông đã kết thúc bài phú của mình với bốn câu thơ:

Ở đời vui đạo, hãy tùy duyên

Đói cứ ăn đi mệt ngủ liền

Trong nhà có báu thôi tìm kiếm,

Đối cảnh vô tâm, chớ hỏi thiền

Đọc bốn câu thơ này, ấn tượng đầu tiên người ta thường có, đó là những câu thơ thiền, mà bất cứ thiền sư nào cũng có thể nói ra được. Thực tế, những sách vở viết về Trần Nhân Tông cũng làm như thế. Điều này không sai, nhưng không đủ. Đúng là Trần Nhân Tông tự nhận mình là thiền sư trong những năm cuối đời. Nhưng ta đừng quên rằng trong những năm làm thiền sư này, vua Trần Nhân Tông vẫn tiếp tục là một nhà kinh bang tế thế, là một nhà lãnh tụ chính trị, quân sự thiên tài của đất nước. Nhà vua đã từng cầm quân đánh dẹp quân Ai Lao xâm phạm biên giới Tây Bắc của tổ quốc, đã hai lần đứng ra tiếp sứ bộ Bắc triều và đã vận du về phương Nam, biến hai châu Ô Mã, Việt Lý thành vùng đất Thuận Hóa đầy thơ mộng và sang trọng của đất nước. Cho nên bốn câu thơ trên không nên chỉ nhìn dưới con mắt của thiền sư “cà một vò, tương một hử”, mà còn phải được nhìn dưới nhãn quan của một nhà quân sự chính trị thiên tài.

Thực vậy, lý thuyết Nhà nước Đại Việt do ông nội mình là vua Trần Thái Tông nhận từ thiền sư Viên Chứng với câu nói nổi tiếng “phàm làm nhân quân thì phải lấy tấm lòng thiên hạ làm tấm lòng của mình, lấy ý muốn của thiên hạ làm ý muốn của mình” đã được vận dụng nhuần nhuyễn trong việc xây dựng và bảo vệ thành công nhà nước Đại Việt trong ba cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại những năm 1258, 1285 và 1287. Qua các tác phẩm của mình, vua Trần Thái Tông trăn trở để cụ thể hóa tấm lòng và ý muốn của thiên hạ là gì và ta cũng thấy nhà vua cứ trở đi trở lại những khía cạnh khác nhau của tấm lòng và ý muốn này. Tất nhiên, để đoàn kết toàn dân tộc cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước, thì đúng là phải lấy ý muốn của toàn dân tộc làm ý muốn của người lãnh đạo, đặt quyền lợi của người lãnh đạo thống nhất với quyền lợi của người dân, mà bài thơ Quốc tộ của thiền sư Pháp Thuận đã nói tới với hình ảnh bó mây và Hịch gởi tướng sĩ của Trần Hưng Đạo đã cụ thể hóa ra như đã thấy. Nhưng đấy mới chỉ là hình ảnh. Đến vua Trần Nhân Tông, với bốn câu thơ trên, vấn đề ý muốn, tấm lòng của thiên hạ là gì được giải quyết một cách dứt khoát và rõ ràng. Đó là, đói ăn, mệt ngủ.

Đói ăn, mệt ngủ là một sáo ngữ của thiền mà ta rất dễ gặp. Nhưng với tư cách là một nhà lãnh đạo chính trị thì đây là một nỗi trăn trở triền miên. Từ xưa tới nay, những nhà chính trị lớn của đất nước cũng như thế giới, ai cũng biết làm chính trị chính là lo cái ăn, cái mặc cho dân và đây là nỗi lo khôn nguôi của họ. Cho nên, đói phải có cái gì để ăn, mệt phải có nơi để nằm ngủ, điều này không phải dễ có đâu. Khắp cả thế giới cho đến hôm nay từ những nước giàu có nhất, vẫn xảy ra tình trạng thất nghiệp, những người không có nhà ở, và mọi người đều nhìn nhận, đây là những mầm mống của bất ổn chính trị, của loạn lạc. Vì vậy, vua Trần Nhân Tông bảo chúng ta đừng hỏi nhà vua thiền là gì. Thiền chính là làm thế nào để ai đói thì có cơm để ăn, mệt thì có nơi để ngủ.

Lý thuyết nhà nước đói ăn mệt ngủ này, từ Trần Nhân Tông trở đi, đã trở thành nội dung của học thuyết xây dựng nhà nước Việt Nam cho đến ngày hôm nay. Nhà nước Việt Nam muốn tồn tại, phải biết lo cho cái ăn cái mặc của dân, nghĩa là phải đặt quyền lợi của người dân trên quyền lợi của cá nhân, dòng họ và tập thể mình. Đây phải nói là một đóng góp to lớn về mặt tư tưởng của vua Trần Nhân Tông đối với học thuyết chính trị nhà nước của dân tộc.

Trên đây chúng tôi chỉ nêu một số vấn đề cơ bản mà tư liệu hiện nay cho phép. Chúng tôi chưa bàn đến những vấn đề thuần túy chuyên môn liên hệ về thiền. Chẳng hạn vấn đề có không, mà trong buổi giảng cuối đông năm Giáp Thìn (1304) tại chùa Sùng Nghiêm, vua Trần Nhân Tông đã có một bài thơ dài thuyết giảng. Tất nhiên về vấn đề này cuối cùng Trần Nhân Tông cũng nói nó là “như thế như thế”, nghĩa là, đòi hỏi người đối thoại tham học tự mình giải quyết lấy thông qua những gợi mở của người hướng đạo mình. Thực tế này, như vua Trần Nhân Tông đã trình bày trong Cư trần lạc đạo phú, chỉ để cho những “thượng sĩ thực chứng mà nên”. Những vị thượng sĩ này trong dòng thiền Trúc Lâm có thể thuộc nhiều thành phần xã hội khác nhau, không nhất thiết giới hạn chủ yếu trong các viên chức nhà nước.

Sau thời Trần Nhân Tông, Phật giáo đã phát triển theo hướng tư tưởng Cư trần lạc đạo này. Phật giáo không còn dành riêng cho bất cứ một bộ phận nào của xã hội, dù bộ phận đó có ưu tú tới đâu. Nó lan khắp mọi tầng lớp nhân dân, đúng như văn bia do Lê Quát viết cho chùa Thiệu Phúc ở Bái thôn thuộc lộ Bắc Giang vào năm 1270 và Ngô Sĩ Liên đã chép lại trong ĐVSKTT 7 tờ 36a3-b4 như sau: “Nhà Phật lấy họa phúc để cảm động lòng người, sau được người ta tin sâu bền như thế. Trên từ vương công cho đến dân thường, hễ bố thí vào việc Phật thì tuy đổ hết tiền của cũng không sẻn tiếc, ví như ngày nay gửi gắm vào tháp chùa thì trong lòng hớn hở như cầm được khoán ước để hưởng được sự báo ứng này về sau. Cho nên trong từ kinh thành ngoài đến châu phủ, cho đến thôn cùng ngõ hẻm, không bảo mà theo, không thề mà tin. Chỗ nào có nhà người ở, tất chỗ đó có chùa Phật, hỏng rồi lại xây, hư rồi lại sửa. Lâu đài chuông trống so với dân cư chiếm đến nửa phần. Đạo Phật thịnh rất dễ dàng, mà sự tôn sùng lại rất lớn. Ta tuổi trẻ đọc sách, khảo xét xưa nay cũng hiểu sơ được đạo Thánh hiền để giáo hóa dân này, mà rốt cuộc chưa thể làm cho một làng tin theo, từng dạo xem núi sông, dấu chân in đến nửa thiên hạ, mà tìm cái gọi là nhà học văn miếu, thì chưa từng có thấy một nơi. Ta do thế rất lấy làm xấu hổ với tín đồ nhà Phật, bèn viết ra đây để tỏ lòng”.

Sự hưng thịnh của Phật giáo cho đến cuối thế kỷ thứ 14, khi nhà Trần đã suy vong, chắc chắn đã xuất phát từ hệ tư tưởng Cư trần lạc đạo vừa nói. Phật giáo không dành riêng cho một bộ phận những người tu hành, cũng chẳng phải riêng một bộ phận quý tộc hay viên chức nhà nước. Phật giáo là của mọi người, khắp hang cùng ngõ hẻm, ở đâu có nhà dân thì ở đó có chùa Phật, như Lê Quát đã nói. Sự hưng thịnh này có sự đóng góp không nhỏ của vua Trần Nhân Tông và hệ tư tưởng của dòng thiền do vua sáng lập. Sự thật như thế, với minh văn như thế. Vậy mà vẫn có những người cứ bảo Phật giáo suy tàn vào cuối thời Trần. Đặc biệt sau cái chết của thiền sư Huyền Quang (1254-1334) thì Phật giáo “thời hưng thịnh chấm dứt”.[2]

Không những không hết một thời thịnh vượng, Phật giáo thiền phái Trúc Lâm còn phát triển mạnh mẻ, để chuẩn bị gánh vác trước dân tộc và đạo pháp những nhiệm vụ mới mà lịch sử đã giao phó. Lợi dụng lúc đất nước ta có vấn đề, bọn xâm lược Minh đã tràn qua. Thế là cả một dân tộc đứng lên cầm vũ khí, từ nhà sư như Phạm Ngọc, cho đến những Phật tử như Trần Trùng Quang, Lê Lợi, Nguyễn Trãi để đánh đuổi quân thù với kết cục là những chiến thắng Chi Lăng, Xương Giang vang dội đem lại nền độc lập cho tổ quốc và sự ra đời của nhà Lê. Phật giáo thiền Trúc Lâm Yên Tử do thế, đã tiếp tục sự nghiệp vì đạo vì dân của mình vào các triều đại sau với các nhân vật nổi bật như thiền sư Đạo Khiêm (? – 1445?), thiền sư Viên Thái (1400 – 1460?), trạng nguyên Lê Ích Mộc (1459 – ?), thiền sư Pháp Tính (1470 – 1550?), thiền sư Thọ Tiên Diễn Khánh (1550 -1620?), thiền sư Chân An Tuệ Tĩnh (?-1711), thiền sư Chân Nguyên Tuệ Đăng (1648 – 1726) và đặc biệt thiền sư Hải Lượng Ngô Thời Nhiệm (1746 – 1803). Nhưng đây sẽ là chủ đề cho một nghiên cứu khác.

[trích Toàn tập Trần Nhân Tông]

__________________

[1] Lê Mạnh Thát, Lịch sử Phật giáo Việt Nam, I, Tp. Hồ Chí Minh: Nxb. Tp. Hồ Chí Minh, 1999, tr. 428

[2] Nguyễn Lang, Việt Nam Phật giáo sử luận, Sài gòn: Lá Bối, 1974, tr. 377

__________________

Nguồn: https://thuvienphatviet.com/

CỬA TƯ HIỀN VÀ GIAI THOẠI VỀ HUYỀN TRÂN CÔNG CHÚA

Cửa Tư Hiền nằm giữa xã Vinh Hiền và Lộc Bình, nơi thông phá Tam Giang với biển Đông. Các bô lão vùng này kể rằng: Cửa biển này trước đây gọi là cửa Tử Dung. Sau này, Công chúa Huyền Trân, con vua Trần Nhân Tông trước khi xuất giá sang Chiêm Thành ghé lên đây bái vọng tổ tiên. Từ đó, cửa có tên Tư Dung, do lòng thương nhớ dung nhan của Huyền Trân Công chúa mà thành.

Dùng hai chữ Tư Dung để đặt tên cho cửa biển này, ý hẳn người Việt lúc bấy giờ một đàng muốn ghi lại cuộc hôn nhân giữa vua Chiêm và công chúa Việt, nhưng đàng khác cũng nhằm tưởng nhớ công ơn khách má hồng đã biết hy sinh hạnh phúc cá nhân, riêng tư cho việc mở mang bờ cõi. Tương truyền bài “Nước non ngàn dặm” theo điệu Nam Bình, có người cho rằng chính công chúa đã soạn ra trong lúc đi đường sang Chiêm quốc: “Nước non ngàn dặm ra đi... Mối tình chi! Mượn màu son phấn / Đền nợ Ô, Ly. Xót thay vì, Đương độ xuân thì. Số lao đao hay là nợ duyên gì?...”. Khu vực cửa biển Tư Dung có núi non cao ngất. Vua các đời như Lý Thái Tông, Lý Thánh Tông, Trần Anh Tông, Trần Duệ Tông đều có đem quân qua đây. Vào năm 1471, vua Lê Thánh Tông ngự giá chinh Chiêm, khi nghỉ chân tại cửa biển này có làm bài thơ “Tư Dung hải môn lữ thứ”, là một áng thơ hay, rất được đời sau truyền tụng. Về sau, cửa Tư Dung cạn dần, chiến thuyền từ biển đi vào không được, hiểm họa ngoại bang đánh úp kinh thành Huế khó xảy ra nên triều Nguyễn đặt lại cái tên là Tư Hiền.

Xã Hiền An nằm cuối hệ thống đầm phá nước lợ Thừa Thiên Huế (bao gồm phá Tam Giang, đầm Sam, đầm Chuồn, đầm Thủy Tú, đầm Đá Bạc, đầm Cầu Hai...) nối liền một mạch từ tỉnh Quảng Trị vào Thừa Thiên Huế, vốn nhiều tôm rằn, cá mú, cá hồng... thích ăn rong tảo, phù du mọc trong trầm tích đá vôi trôi ngoài cửa Tư Hiền vào, có diện tích mặt nước rộng hơn 22.000 ha, vùng đầm phá rộng nhất châu Á. Theo các vị bô lão, quá trình hình thành, thành lập làng cũng đã trên dưới 300 năm. Khu vực này có núi Linh Thái, Hàm Rồng, Túy Vân và bên kia là Lộc Bình, Chân Mây núi non chập chùng, hùng vĩ ẩn hiện trong mây trôi bàng bạc. Chùa Thánh Duyên trên núi Túy Vân đã được Bộ văn hóa - thông tin công nhận Di sản văn hóa quốc gia. Xưa, chùa tên Mỹ Am Sơn Tự. Đời chúa Nguyễn Phúc Tần (1644) cho đặt nền móng điện Đại Hùng và đặt tên chùa Thánh Duyên. Đến ngày nay, nhân dân gọi núi Túy Vân, chùa Thánh Duyên... Núi Túy Vân có đỉnh cao 60 mét so với mặt nước đầm phá, là một khu rừng đại ngàn rậm rịt cây lá cổ thụ gần như nguyên sinh, mát mẻ vô cùng. Ngoài ra, trên đỉnh Túy Vân có tháp Điều Ngự, cao 3 tầng, nơi vua chúa ngày xưa vãn cảnh “nước non ngàn dặm”.

Dọc theo đường cái có những ngôi làng nông nghiệp hoang sơ, những đền đài miếu mạo cổ xưa. Chợ quê mua bán vào buổi chiều, với thủy hải sản phong phú từ đầm phá Cầu Hai nước lợ cho đến biển Đông như các loại cá, ốc đá, ốc hương, hàu, sò, nghêu... Riêng tôm có 12 loài như tôm hùm, tôm sú, tôm rằn..., cua có 18 loài và nhiều loại thân mềm có giá trị như nuốc, rau câu..., giá cả rất mềm. Bạn có thể thưởng thức món cháo hàu, hàu xào lá lốt nơi đây rất béo, thơm và ngọt. Trong khi chờ đợi món ăn, người nhà dùng ghe nghề cá đưa bạn đi thăm thú các mô hình nuôi cá, nuôi ghẹ... rất thú vị trên đầm nước mênh mông mà dễ “nơi mô có được”.

_______________

Tiên Sa

Nguồn: http://www.khoahocphothong.com.vn

NỀN TẢNG CỦA PHẬT GIÁO ĐỜI TRẦN

 

THIỀN PHÁI YÊN TỬ NỀN PHẬT GIÁO THỐNG NHẤT

 

Vào đầu thế kỷ thứ mười ba, ba thiền phái Tỳ Ni Ða Lưu Chi, Vô Ngôn Thông và Thảo Ðường dần dần nhập lại là một. Do ảnh hưởng lớn lao của Trần Thái Tông và Tuệ Trung thượng sĩ, sự sát nhập của ba thiền phái trên đây vào nhau đã đưa tới sự phát triển lớn của thiền phái Yên Tử thành thiền phái Trúc Lâm, tức là thiền phái duy nhất đời Trần. Ðời Trần có thể được gọi là thời đại Phật Giáo Nhất Tông, tức là thời đại của một phái Phật Giáo Duy Nhất. Tông phái này xuất hiện từ núi Yên Tử mà vị tổ khai sơn là thiền sư Hiện Quang. Thiền sư Viên Chứng hiệu Trúc Lâm, thầy của vua Trần Thái Tông, là tổ thứ hai của Phái Yên Tử, được vua tôn xưng là quốc sư. Vị tổ truyền thừa thứ ba là Ðại Ðăng quốc sư đồng sư với vua Trần Thái Tông. Một vị quốc sư khác tượng trưng cho sự lãnh đạo nền Phật Giáo thống nhất đời Trần là Nhất Tông quốc sư, đệ tử của thiền sư Ứng Thuận thuộc thế hệ thứ 16 của thiền phái Vô Ngôn Thông. Danh từ Nhất Tông mà vua Trần Thái Tông dùng để tôn xưng vị quốc sư hẳn có ý nghĩa về tình trạng thống nhất Phật Giáo trong một tông phái duy nhất.

 

Trước hết ta hãy xét về những ảnh hưởng tương hỗ giữa ba thiền phái đời Lý. Như ta biết, thiền phái Thảo Ðường không có cơ sở trong đại chúng bình dân, cũng không có truyền thống tu viện đặc thù, nhưng có ảnh hưởng sâu đậm tới mặt học thuật tư tưởng và thi ca trên hai thiền phái đương thời: Tuyết Ðậu Ngữ Lục đã trở thành một văn kiện được trọng dụng ở cả hai thiền phái Tỳ Ni Ða Lưu Chi và Vô Ngôn Thông. Thiền sư Thường Chiếu, thuộc phái Vô Ngôn Thông, đã sang làm tọa chủ ở chùa Lục Tổ, vốn là một tổ đình rất xưa của thiền phái Tỳ Ni Ða Lưu Chi: điều này chứng tỏ hai thiền phái này lúc bấy giờ hầu như đã sát nhập nhau thành một. Thường Chiếu và đệ tử là Thần Nghi sinh hoạt trong lòng thiền phái Tỳ Ni Ða Lưu Chi đã thu thập khá nhiều tài liệu về thiền phái này để ghi chép lại trong sách Thuyền Uyển Tập Anh. Thiền sư Thường Chiếu có thể được gọi là người khởi đầu cho sự tổng hợp giữa ba thiền phái Tỳ Ni Ða Lưu Chi, Vô Ngôn Thông và Thảo Ðường và cũng là gạch nối giữa Phật Giáo đời Lý và Phật Giáo đời Trần. Ðịa vị của ông rất quan trọng. Ta hãy nhìn đồ biểu sau đây:

 

Ba vị đệ tử quan trọng của Thường Chiếu là Thần Nghi, Thông Thiền và Hiện Quang.

 

Thần Nghi với đệ tử là Ẩn Không đã có trách nhiệm truyền lại các tài liệu lịch sử Phật Giáo của Thường Chiếu, như các sách Thuyền Uyển Tập Anh và Nam Tông Tự Pháp Ðồ.

 

Thông Thiền nối tiếp truyền thống Vô Ngôn Thông truyền xuống cho Tức Lự, rồi Ứng Thuận. Các đệ tử của Ứng Thuận như Nhất Tông, Giới Minh, Giới Viên, Tiêu Diêu đều là những ngôi sao sáng trong Phật học giới và đều đóng góp nhiều cho nền Phật Giáo Thống Nhất đời Trần. Họ là những người của thế hệ cuối cùng của thiền phái Vô Ngôn Thông.

 

Thiền sư Hiện Quang khai sơn núi Yên Tử mở đầu cho thiền phái Trúc Lâm, nền Phật Giáo Thống Nhất đời Trần.

 

Trước hết ta hãy nói về thiền sư Thường Chiếu, người có thể đại diện được cho ba thiền phái cuối đời Lý và gạch nối giữa nền phát triển ba-tông-phái đời lý và nền Phật Giáo một-tông-phái đời Trần.

 

THIỀN SƯ THƯỜNG CHIẾU

 

Thường Chiếu người làng Phù Ninh, họ Phạm. Hồi chưa xuất gia, ông đã từng làm quan dưới triều vua Ly Cao Tông, chức lệnh đô tào ở cung Quảng Từ. Sau đó, ông bỏ quan tước để đi xuất gia dưới sự hướng dẫn của thiền sư Quảng Nghiêm, chùa Tịnh Quả. Ðược tâm truyền của thiền sư Quảng Nghiêm, ông ở lại chùa Tịnh Quả thêm vài ba năm để hầu thầy, rồi sau đó ông lui về một ngôi chùa cổ ở làng Ông Mạc để dạy học trò. Năm ông rời chùa Tịnh Quả có lẽ là năm 1190, bởi vì sách Thuyền Uyển Tập Anh nói thẩy ông là thiền sư Quảng Nghiêm tịchv ào năm ấy. Có lẽ ông đã ở lại hầu thầy đến khi thầy tịch.

 

Sau đó không lâu, thiền sư Thường Chiếu dời sang chùa Lục Tổ, vốn là một tổ đình rất xưa của phái Tỳ Ni Ða Lưu Chi; chùa này được thành lập vào khoảng thế kỷ thứ tám do thiền sư Ðịnh Khuông và đệ tử là thiền sư Thông Thiền tạo dựng.

 

Sự kiện Thường Chiếu của thiền phái Vô Ngôn Thông đến mở trường dạy học tại chùa Lục Tổ, một tổ đình lớn của phái Tỳ Ni Ða Lưu Chi, cho ta thấy rằng cao tăng của phái sau này, sau thiền sư Viên Thông, đã bắt đầu thưa thớt đến nỗi sự giáo hóa Phật pháp tại một tổ đường đã phải nhờ đến một thiền sư thộc phái Vô Ngôn Thông. Ðã đành còn có các vị cao tăng như Ðạo Lâm, Tĩn Thiền, Ðịnh Hương và Y Sơn, nhưng các vị này cũng còn phải trụ trì các tổ đường khác của môn phái.

 

Chính vì hành đạo tại một tổ đường Tỳ Ni Ða Lưu Chi mà thiền sư Thường Chiếu đã thu thập được nhiều tài liệu để bổ túc cho tập sử liệu Phật Giáo do thiền sư Thông Biện để lại hiện có trong tay ông. Ngoài công việc đó. Thường Chiếu còn viết thêm một tài liệu Phật Giáo khác lấy tên là Nam Tông Tự Pháp Ðồ. Còn tập sử liệu kia sau này trở thành sách Thuyền Uyển Tập Anh. Cả hai tài liệu này ông đã trao lại cho đệ tử là Thàn Nghi. Tại chùa Lục Tổ, số môn đồ đến thụ giáo với Thường Chiếu càng ngày càng đông đảo.

 

SỰ QUAN TRỌNG CỦA TÂM HỌC

 

Thường Chiếu chủ trương sự tu học chứng ngộ cần được căn cứ trên một nền tâm học vững chãi mới có thể thành tựu được. Ông nói: “Người tu đạo nếu biết rõ về tâm minh thì sẽ phí sức ít mà dễ thành công. Người tu đạo nếu không biết gì về tâm mình thì sẽ phí sức ít mà dễ thành công. Người tu đạo nếu không biết gì về tâm mình thì phí công vô ích”. Thấy được tâm mình là ở đây là thấy được sự liên hệ giữa chủ thể và đối tượng nhận thức. Tâm học ở đây có nghĩa gần như tâm lý học, đó là Duy thức học. Một vị đệ tử Thường Chiếu câu hỏi sau đây: “Khi chủ thể nhận thức và đối tượng nhận thức xúc tiếp nhau thì sự việc xảy ra thế nào?” (Vật ngã phan duyên thời như hà?). Thường Chiếu đáp, trong tinh thần chính thống của Duy Thức học: “Khi ấy, cả chủ thể và đối tượng nhận thức không còn. Tâm thức của ta vô thường, thay đổi sinh diệt từng sác na, thì làm sao có một chủ thể thường tại mà tiếp xúc với đối tượng? Tuy vậy, sinh là các hiện tượng sinh, diệt là các hiện tượng diệt; còn đối tượng chứng ngộ thì không bao giờ sinh diệt”(Vật ngã lưỡng vong! Tâm tính vô thường, dị sinh dị diệt, sát-na bất đình, thùy thị phan duyên? Sinh vi sinh vật, diệt vi diệt vật, bỉ pháp sở đắc thường vô sinh diệt).

 

ÐỐI TƯỢNG CHỨNG ÐẮC

 

Trong câu nói trên, Thường Chiếu cho ta thấy rằng sự chứng đạo không phải được thực hiện trên liên hệ chủ thể và đối tượng của nhận thức, bởi cả hai đều sinh diệt không ngừng. Nếu sự chứng đắc mà cũng sinh diệt như thế đâu có sự chứng đắc. Cho nên đừng tìm quả vị giác ngộ như một đối tượng nhận thức; quả vị giác ngộ phải được thực hiện ngay trong tự thể của tâm. Mọi tìm cầu bên ngoài đều vô hiệu.

 

Ðiều này còn rõ ràng hơn nữa khi Thường Chiếu trả lời một người đệ tử hỏi về pháp thân.

 

Thân tuy sống trên đời

Tâm là như lai tạng

Chiếu rạng cả mười phương

Nhưng tìm thì biệt dạng.

 

(Tại thế vi nhân thân

Tâm vi như lai tạng

Chiếu diệu thả vô phương

Tầm chi cánh tuyệt khoáng)

 

Pháp thân hay tự tính giác ngộ vốn hiện hữu tràn đầy: biết mở con mắt vô phân biệt mà nhìn thì sự thực chứng được hiện hữu tràn đầy đó. Nhưng nếu có chủ định đi tìm nó như một đối tượng thì tự nhiên nó biệt tăm biệt dạng. Một hôm một đệ tử là cư sĩ Thông Sư hỏi ông: “Làm sao chứng đắc được Phật pháp?”. Thường Chiếu trả lời: “Phật pháp không thể chứng đắc được. Chư Phật đều đã tu học trên căn bản chư pháp bất khả đắc ấy”.

 

TÙY TỤC

 

Khi ông gần mất,vị đệ tử lớn là Thần Nghi hỏi: “Những nhân vật như sư phụ mà khi thời tiết đến cũng phải tùy tục chết đi như vậy như người thường sao?”, Thường Chiếu hỏi; “Ngươi thấy được ai là kẻ không tùy tục nào?”. Thần Nghi:” Bồ Ðề Ðạt Ma là một. Ông ta không chết mà chỉ lướt biển trở về Ấn Ðộ”. Thường Chiếu: “Ðó chỉ chẳng qua là chó sủa bóng thôi”. Thần nghi hỏi: “Vậy hòa thượng có tùy tục không?”. Thường Chiếu nói: “Ta cũng tùy tục”. Thần Nghi hỏi: “Tại sao lại như thế?” Thường Chiếu trả lời: “Ðể cho giống với kẻ khác”, nhờ câu này mà Thần Nghi tỉnh ngộ.

 

Sau này Thần Nghi hỏi thầy: ” Con ở với hòa thượng đã nhiều năm, nhưng chưa biết thủ truyền của tông phái ta là ai, xin ngài chỉ dạy thứ bực truyền thừa để kẻ hậu học biết được nguồn gốc”. Thường Chiếu liền lấy tập tài liệu lịch sử của Thông Biện biên tập và bản ghi chép các tông phái cùng những thế hệ truyền thừa trao cho Thần Nghi. Thần Nghi xem qua hỏi: “Tại sao hai hệ phái Ðại Ðiên và Bát Nhã không được chép vào đây?”. Thường Chiếu: ” Ðó là ý của Thông Biện. Thông Biện đã nghĩ kỹ nên mới quyết định như thế”.

 

Sau này Thần Nghi trao lại các tài liệu lịch sử Phật Giáo trên cho đệ tử là Ẩn Không.

 

Thường Chiếu có ba người đệ tử xứng đáng: Thiền sư Hiện Quang người sẽ khai sơn thiền phái Yên Tử đời Trần: thiền sư Thần Nghi, người đã truyền lại tài liệu lịch sử Phật Giáo Việt Nam; và cư sĩ Thông Sư, người đã đào tạo nên thiền sư Tức Lự. Thường Chiếu có công nhiều trong việc dung hợp ba thiền phái phát triển đời Lý và thâu thập nhiều tài liệu về các thiền phái này. Tiếc rằng Nam Tông Tự Pháp Ðồ hiện nay chưa tìm ra được. Có lẽ tác phẩm này mất hẳn. Ông là người có đạo học uyên thâm. Bài kệ ông đọc trước lúc lâm chung biểu lộ được phong thái của người đã giải thoát, tìm thấy rằng thực hữu tràn đầy kia không nơi đâu và không lúc nào không phải là quê hương mình:

 

Ðạo vốn không nhan sắc

Mà ngày càng gấm hoa

Trong ba ngàn cõi ấy

Ðâu chẳng phải là nhà?

 

(Ðạo bản vô nhan sắc

Tân tiên nhật nhật khoa

Ðại thiên sa giới ngoại

Hà xứ bất vi gia?)

 

VỊ TỔ KHAI SƠN PHÁI YÊN TỬ: HIỆN QUANG THIỀN SƯ (mất 1220)

 

Vị tổ khai sơn chùa Hoa Yên ở núi Yên Tử là thiền sư Hiện Quang, đệ tử của thiền sư Thường Chiếu chùa Lục Tổ. Nhưng Hiện Quang không phải chỉ là người truyền thừa tông chỉ của Thường Chiếu phái Vô Ngôn Thông. Ông còn học với thiền sư Trí Thông chùa Thánh Quả và thiền sư Pháp Giới ở núi Uyên Trừng, phủ Nghệ An nữa. Ta không rõ thiền sư Trí Thông và Pháp Giới thuộc giáo hệ nào, ta chỉ biết ảnh hưởng của họ trên thiền sư Hiện Quang có thể còn quan trọng hơn cả ảnh hưởng của Thường Chiếu, bởi lúc Thường Chiếu viên tịch thì Hiện Quang mới có hai mươi mốt tuổi, chưa thọ tỳ kheo giới và “chưa kịp có thì giờ suy cứu về tông chỉ thiền môn” (Thuyền Uyển Tập Anh ).

 

Sau khi Thường Chiếu viên tịch, Hiện Quang thấy sức học của mình về thiền kém cỏi quá, tự than rằng: ta cũng như đứa con của đại phú gia, khi cha mẹ còn sống thì không biết trong nhà đầy châu báu, khi cha mẹ chết thì trở nên bần cùng nghèo khổ”. Hiện Quang liền đi chu du trong giới thiền lâm để cầu tham học, gặp được thiền sư Trí Không chùa Thánh Quả nhờ một câu nói của ông này mà tâm tư khai sáng. Hiện Quang dáng người và vẻ mặt thanh tú, giọng nói êm ái. Vì Hoa Dương công chúa hay lui tới cúng dường nên ông bị người ta nói ra nói vào. Do đó ông bỏ vào núi Uyên Trừng theo Pháp Gới thiền sư, thọ giới tỳ kheo để tu học. Ông nói: “Nếu ta không lấy nhẫn nhục làm áo giáp và tinh tấn làm khí giới, thì ta không thể nào phá được ma quân phiền não và đạt được quả giác ngộ vô thượng”. Sau một thời gian tu học tại đây, không muốn nhận cúng dường của tín thí nữa, ông vào rừng sống trong mười năm. Về sau, ông vào núi Từ Sơn làm am cư trú. Ði kinh hành trong rừng ông mang theo bao vải; đến nơi thích hợp ông trải bao ra ngồi thiền, loài dã thú thấy ông không hề xúc phạm. Vua Lý Huệ Tông nghe tiếng cho người đi mời ông. Ông cho đệ tử trả lời như sau: “Bần đạo sinh trên đất của vua, ăn lộc của vua, ở trong núi thờ Phật đã lâu năm, công đức chưa thành tựu, rất lấy làm hổ thẹn. Nay nếu về thăm vua, thì chẳng có ích gì cho việc trị an của vua mà lại còn bị chúng sinh bài báng. Huống chi bây giờ Phật pháp đang hưng thịnh, các bậc sư tượng trong đạo nhiều người đang tụ tập ở kinh đô diện các, một ông thầy tu thô lậu áo drách trong núi về kinh làm gì?”. Nói rồi quyết không xuống núi. Không biết Hiện Quang đến khai sơn Yên Tử năm nào. Một hôm có một vị tăng hỏi ông; “Hòa thượng lâu này làm gì trong núi?” Ông đáp:

 

Theo Hứa Do người cũ

Ðâu biết mấy xuân rồi?

Vô vi nơi khoáng dã

Làm người tự tại thôi!

 

(Ná dĩ Hưa Do đức

Hà tri thế kỷ xuân?

Vô vi cư khoáng dã

Tiêu diêu tự tại nhân)

 

Năm 1220, tức năm Tân tỵ, niên hiệu Kiến Gia thứ 11, thiền sư ngồi trên một phiến thạch đọc một bài kệ sau đây trước khi tịch:

 

Pháp huyễn đã là huyễn

Tu huyễn cũng là huyễn

Lìa được hai huyễn ấy

Là lìa được mọi huyễn

 

(Huyễn pháp giai thị huyễn

Huyễn tu giai thị huyễn

Nhị huyễn giai bất tức

Tức thị trừ chư huyễn)

 

Là tổ khai sơn chàu Hoa Yên núi Yên Tử, Hiện Quang được xem nhưa là người đích thực sáng lập truyền thống Yên Tử. Truyền thống này sau lấy tên là Trúc Lâm. Trần Nhân Tông, thuộc thế hệ thứ sáu phái Yên Tử, lấy hiệu là Trúc Lâm đầu đà.

 

TRÚC LÂM QUỐC SƯ

 

Sách Ðại Việt Sử Ký Toàn Thư gọi vị thiền sư trên núi Yên Tử mà Thái Tông lên tham yết là Phù Vân, bạn cũ của Thái Tông. Ðiều này sợ sai, bởi vì Phù Vân là hiệu của thiền sư Tĩnh Lự, thuốc thế hệ thứ 10 của thiền phái Yên Tử, đệ tử của thiền sư An Tâm, trù trì chùa Hoa Yên. Trong bài tựa Thiền Tông Chỉ Nam, Thái Tông chỉ gọi vị thiền sư núi Yên Tử là Trúc Lâm đại sa môn, tôn xưng là quốc sư, mà không bao giờ gọi là ông Phù Vân quốc sư. Vị thiền sư này là đệ tử của Hiện Quang, mà theo Thuyền Uyển Tập Anh có pháp danh là Ðạo Viên; sách Thánh Ðăng Lục, sách Yên Tử Sơn Trúc Lâm Trần Triều Thiền Tông Bản Hạnh và tài liệu truyền thừa chùa Hoa Yên (theo hòa thượng Phúc Ðiền) đều nói tên thiền sư là Viên Chứng. Viên Chứng hay Ðạo Viên hay Trúc Lâm quốc sư cũng là một người. Thiền sư Hiện Quang tich năm 1220, lúc vua Thái Tông mới lên 3 tuổi, thành thử Hiện Quang không phải là người vua gặp trên núi. Ðạo Viên thiền sư làm lễ an táng thầy trên núi Yên Tử; năm thầy mất, Ðạo Viên ít ra cũng 20 tuổi. Nói Ðạo Viên là bạn cũ của Thái Tông e cũng không đúng, bởi vì hồi tám tuổi Thái Tông đã làm vua. Hơn nữa, trong bài tựa Thiền Tông Chỉ Nam, Ðạo Viên đã dùng tiếng lão tăng để tự chỉ mình. Sách Trần Triều Thiền Tông Bản Hạnh cũng nói Ðạo Viên là “lão tăng thầy già”. Vậy liên hệ giữa hai người là liên hệ thầy trò mà không phải là bạn hữu.

 

Vào khoảng năm 1248, Trúc Lâm có xuống kinh sư theo lời mời của vua Thái Tông để kiểm điểm lại các bộ kinh và lục trước khi đem khắc bản gỗ để ấn loát phát hành. Vua Thái Tông thỉnh ông ở lại chùa Thắng Nghiêm, tôn xưng là quốc sư. Vua cũng trình ông một tác phẩm ông vừa mới viết tên là Thiền Tông Chỉ Nam. Ông khen ngợi và khuyên nên khắc bản để in luôn trong dịp ấy.

 

Năm 1236 khi vua Thái Tông bỏ lên núi Yên Tử định đi tu, Trúc Lâm quốc sư hỏi vua muốn tìm gì mà lên núi. Vua nói chỉ muốn đi tìm thành Phật. Ông nói: “Trong núi vốn không có Phật, Phật ở trong tâm ta. Nếu tâm ta lắng lại và trí tuệ xuất hiện thì đó chính là Phật. Nếu bệ hạ giác ngộ được chân lý ấy thì tức khắc thành Phật ngay tại chỗ, không phải đi tìm cực nhọc bên ngoài (bài tựa Thiền Tông Chỉ Nam).

 

Khuyên Thái Tông trở về nhậm nhiệm vụ trị dân, thiền sư nói: “Ðã làm vua thì không còn có thể theo ý thích riêng mình nữa. phải lấy ý muốn của dân làm ý muốn của mình; phải lấy lòng dân làm lòng của mình. Nay dân muốn vua về mà vua không về thì làm sao được?” Thiền sư buộc vua trở về với bổn phận bằng một lý luận đanh thép. Nhưng ông an ủi: tuy vậy, vua vẫn có thể làm nghề trị dân vừa tu học Phật pháp. Thiền ân cần dặn vua đừng quên học Phật và tham thiền.

 

Không biết sau khi hoàn tất việc in kinh, Trúc Lâm quốc sư có lưu lại kinh sư một thời gian trước khi về núi hay không. Ảnh hưởng của ông không những lớn lao trên sự tu học của Trần Thái Tông mà trên nhiều mặt khác nữa. Ít ra ông ông cũng đã đóng góp về phương diện văn hóa trong việc san định và ần hành kinh lục, và đã cống hiến cho đời thêm một vị đệ tử xuất sắc là Ðại Ðăng quốc sư người đã ảnh hưởng nhiều tới tư tưởng thiền phái Trúc Lâm sau này.

 

ÐẠI ÐĂNG QUỐC SƯ

 

Ðại đăng quốc sư thuộc thế hệ thứ ba truyền thống Yên Tử, anh em đồng sư với Trần Thái Tông. Hiện ta không có tài liệu nào về tư tưởng và thi văn của Ðại Ðăng. Ta chỉ biêt theo Thánh Ðăng Lục và Trần Triều Thiền Tông Bản Hạnh rằng tuy tiếp nhận truyền thừa phái Yên Tử nhưng ông cũng tiếp nhận truyền thừa Lâm Tế do thiền sư Thiên Phong từ Trung Hoa đưa qua. Thiên Phong từ Chương Tuyên đến, thuộc về thiền phái Lâm Tế. Huệ Nguyên trong bài Lược Dẫn Thiền Phái Ðồ in ở đầu sách Thượng Sĩ Ngữ Lục nói rằng Thiên Phong là cư sĩ. Trần Triều Thiền Tông Bản Hạnh¸, nói ông là “thầy nước ngoài” và trí tuệ cao tài kinh lịch chư bang”. Khi Thiên Phong đến Việt Nam, vua Thái Tông nghe tiếng liền mời đến viện Tả Nhai, hội họp các bậc thiện tri thức lại để cdùng tham học. Trong số những bậc “Kỳ Ðức” tham dự các buổi học tập này chắc chắn đã có Ðại Ðăng. Lúc này Ðại Ðăng đã được Trúc Lâm quốc sư gửi về kinh thành hành đạo. Trong số những người nghe Thiền Phong giảng đạo. Ðại Ðăng là người được Thiên Phong chính thức truyền cho tâm ấn. Một trong những đệ tử xuất sắc của Ðại Ðăng là Liễu Minh quốc sư.

 

TIÊU DIÊU THIỀN SƯ

 

Tiêu diêu thiền sư thuộc thế hệ thứ tư truyền thống Yên Tử. Ông là học trò Ðại Ðăng, đồng thời cũng đắc pháp với thiền sư Ứng Thuận của thiền phái Vô Ngôn Thông. Cùng học Ứng Thuận trong thế hệ ông còn có các thiền sư Giới Minh, Giới Viên và Nhất Tông quốc sư. Tiêu Diêu là thầy của Tuệ Trung thượn sĩ, một trong những cây đuốc sáng nhất của thiền học đời Trần.

 

Huệ Nguyên, người san định sách Thượng Sĩ Ngữ Lục năm 1763, nói rằng Tiêu Diêu, thầy của Tuệ Trung, là người Trung Hoa qua Việt Nam truyền đạo. Sự thực thì không phải thế. Tiêu Diêu là người Việt Nam, đẹ tử của Ứng Thuận phái Vô Ngôn Thông, đồng thời cũng là người thừa kế thiền sư Ðại Ðăng, tổ thứ bachùa Hoa Yen núi Yên Tử. sự kiện Tiêu Diêu đắc pháp với Ứng Vương được nói đến trong Thuyền Uyển Tập Anh, nhưng Huệ Nguyên không được đọc tác phẩm này. chính vì mặc cảm cho rằng tổ sư Trung Hoa mới giỏi và mới chính thống nên ông đã cho rằng Tiêu Diêu, thầy của Tuệ Trung phải là người Tàu. Không được đọc Thuyền Uyển Tập Anh nên trong bài Lược Dẫn Thiền Phái Ðồ (đầu trang Thượng Sĩ Ngữ Lục) ông đã viết những giòng mơ hồ sau đây về thiền phái Vô Ngôn Thông: “Thiền phái truyền vào nước ta không biết người nhận lãnh đầu tiên là ai, chỉ biết Thiền Nguyệt truyền cho Nguyễn Thái Tông rồi lần xuống Ðịnh Hương trưởng lão, Viên Chiếu, Ðạo Huệ, sau đó còn lần lượt trao truyền, nhưng tên tuổi các ngài lúc ẩn, lúc hiện khó nhận ra manh mối”. Ta thấy Huệ Nguyên nhắc đến tên một số các vị thiền sư phái Vô Ngôn Thông nhưng không biết gì về nguyên ủy của thiền phái này.

 

Thiền sư Tiêu Diêu còn được gọi là Phúc Ðường đại sư, cư trú ở Phúc Ðường tịnh xá. Không biết tịnh xá này ở đâu. Có thể là trên núi Yên Tử. Tuệ Trung thượng sĩ có một bài thơ “Lên thăm thiền sư Tiêu Diêu ở Phúc Ðường tịnh xá” và một bài thơ “Cảnh vật Phúc Ðường” trong đó có câu “Thả hỷ lâm thâm thoại thú tàng” (vui chốn rừng sâu trong đó có ẩn nhiều loại thú lành). Tụe Trung là một tay cự phách trong rừng thiền nhưng đối với thiền sư Tiêu Diêu rất mực cung kinh khâm phục. Trong bài “Lên Thăm Thiền Sư Tiêu Diêu ở Phúc Ðường” ông nói:

 

Cho hay Phật sống trần gian đấy

Sen nở trên lò rực lửa hồng.

 

(Tu tri thế hữu nhân trung Phật

Hưu quái lô khai hỏ lý liên)

 

Tuy Huệ Tuệ là pháp tử chính thức của Tiêu Diêu, trù trì chùa Yên Tử, nhưng chính Tuệ Trung thượng sĩ mới là học trò xuất sắc nhất của Tiêu Diêu vậy. Nhưng trước khi nói đến Tuệ Trung, ta hãy nói đến Trần Thái Tông và sự nghiệp Phật học của vua này.

________________

Việt Nam Phật Giáo Sử Luận

Nguyễn Lang

PHẬT HOÀNG TRẦN NHÂN TÔNG LINH HỒN CỦA THIỀN PHÁI TRÚC LÂM

Trần Nhân Tông một tính cách lớn, một tâm hồn lớn đối với dân tộc Việt Nam, thế nhưng với Ngài đó chỉ là một góc đời rất nhỏ quanh quẩn chốn triều ca. Có gì vui. Ở nơi con người ấy, chí xuất trần cao gấp vạn bội và con đường hướng thượng vẫn là quay gót trở về với chính mình.


 

Vì thế, Trần triều nước Việt, dân tộc nước Việt có lưu luyến bao nhiêu vẫn không giữ được bước chân của ngài, một Thiền sư Việt Nam chỉ muốn làm Tăng nhàn đầu núi hơn là làm vua. Cho nên Phật giáo Việt Nam, Thiền tông Việt Nam mới có được Sơ tổ Trúc Lâm, một vì sao Bắc Đẩu điểm trên bầu trời không, tỏa sáng lung linh và soi đường cho Thiền tăng, Phật tử Việt Nam biết đâu là chốn trở về.


Có thể nói ở nơi Ngài, đọng lại ba con người sáng chói, làm ngọn hải đăng chỉ lối cho hành giả tu thiền Việt Nam. Đó là con người hiện thực, con người hướng thượng và con người nhập thế. (Ảnh minh họa bên trái: Tôn tượng Phật Hoàng Trần Nhân Tông đang được thiết kế nơi núi Yên Tử, Quảng Ninh)


1. Con người hiện thực


Như chúng ta đã biết, vua Trần Nhân Tông là một nhân vật lịch sử của nước Việt. Ngài sinh vào năm 1258, lên ngôi năm 1279, xuất gia năm 1298 và mất vào năm 1308. Dù xuất thân trong bậc đế vương, nhưng cốt cách của Ngài là bậc xuất thế. Từ nhỏ miệng không thích thịt cá, thân không thích lụa là gấm vóc, tâm không đắm luyến thú vui thế gian, lớn lên xem cung vàng điện ngọc như đôi dép rách, cho nên Ngài đã trốn lên Yên Tử nhưng không thành, đành phải miễn cưỡng lên ngôi vua. Tại vị 13 năm, 6 năm ở ngôi Thái Thượng hoàng, sau đó mới thực hiện được hoài bão xuất trần, làm sơn tăng đầu núi và trở thành Đệ nhất Sơ tổ Trúc Lâm Yên Tử, khai sáng ra dòng thiền nước Việt.


Người đời vì ngai vàng mà đổi không biết bao nhiêu xương máu, tạo không biết bao nhiêu oan khiên nghiệp chướng. Thế nhưng vua Trần đã nhẹ nhàng thoát ra khỏi chốn ấy như cởi chiếc áo hạ. Ngài lên ngôi vì lòng hiếu thuận đối với cha già, vì trọng trách với Tổ quốc. Gác bỏ niềm riêng, đặt ý muốn của thiên hạ lên trên ý muốn của mình, vua Trần Nhân Tông đã xuất sắc lập nên những chiến công oanh liệt để bảo vệ non sông, qua hai cuộc chiến chống quân Nguyên Mông lịch sử. Có phải khí thiêng sông núi đã nhào nặn nên một Trần Nhân Tông mang dòng máu Rồng Tiên, bất khuất quật cường trước mọi thế lực ngoại bang, nhưng lại nhân từ độ lượng khoan dung trong việc trị nước an dân? Trần Nhân Tông quả là vì sao rực sáng trong bầu trời nghìn năm văn hiến của nước ta. Lịch sử dù có sang trang nhưng vị trí và công đức của Ngài vẫn không hề đổi ngôi trong lòng dân đất Việt. Hậu thế trăm năm sau, nghìn năm sau dù có nhớ đến Ngài hay không nhớ đến Ngài thì ánh sáng ấy vẫn rờ rỡ riêng chiếu một cõi.


Và còn một dòng máu nữa, dòng máu Thích tử Như Lai đã âm thầm luân lưu trong trái tim của Nhân Tông, nuôi dưỡng một tình thương và ánh sáng tuệ giác vô biên. Dòng máu ấy đã vực nhà vua dậy từ chốn tột đỉnh của quyền lực, danh vọng, sự nghiệp đế vương… nhưng cũng lắm nỗi thăng trầm của cuộc vô thường bể hóa cồn dâu. Chính dòng máu này đã chuyển hóa nhà vua từ một con người bằng xương bằng thịt vượt lên những ham muốn thường tình, trở thành Thiền tăng sống đời thanh đạm, ý chí cao nhàn.


Thuở bé chưa từng rõ sắc không,

Xuân về hoa nở rộn trong lòng,

Chúa Xuân nay bị ta khám phá,

Chiếu trải giường thiền ngắm cánh hồng.


Cho nên ở nơi vua Trần còn có thêm một con người nữa - Con người hướng thượng.


2. Con người hướng thượng


Từ lúc còn là thái tử, Nhân Tông đã được vua cha cho thọ giáo tham học thiền với Thượng Sĩ Tuệ Trung. Thượng sĩ vốn khí lượng thâm trầm, phong thần nhàn nhã. Lúc còn để chỏm, Ngài đã chuộng cửa Không. Lớn lên ở chỗ Thiền sư Tiêu Dao lãnh hội được yếu chỉ, thâm nhập chỗ thiền tủy, lấy thiền duyệt làm thú vui thường nhật, không ưa công danh sự nghiệp ở đời. Được thân cận một bậc đại thiện tri thức như vậy, lại thêm chủng Phật sâu dày nên Trần Nhân Tông sớm nhận ra con đường Phật đạo mới đích thực là con đường của mình. Vì vậy không dừng lại ở phước báu của một bậc đế vương, vua Trần Nhân Tông đã hướng đến chân trời cao rộng, thệ nguyện phát túc siêu phương, vượt khỏi ba cõi. Lấy vô trụ xứ làm quốc độ, lấy tâm bất sanh bất diệt làm chỗ thú hướng sau cùng.


Một hôm Nhân Tông hỏi Thượng sĩ về việc bổn phận tông chỉ, Thượng sĩ đáp: “Soi sáng lại chính mình là phận sự gốc, chẳng từ nơi khác mà được”. Nghe xong, thái tử thông suốt đường vào, bèn vén áo thờ Thượng sĩ làm thầy. Từ đó, kim ngôn này đã trở thành phương châm tu hành, thành lẽ sống hướng thượng của Trần Nhân Tông trên những chặng đường tu đạo và hành đạo của Ngài.


Phản quan tự kỷ của Thiền phái Trúc Lâm và xoay lại tìm tâm của Nhị tổ Huệ Khả có gì khác nhau? Đến chỗ ấy rồi mới hay tâm vốn không thể tìm, bởi nó có mất bao giờ. Được thế thì an tâm. Cái đáng trách của hành nhân là mình lại đi tìm chính mình. Ngày xưa Nhị tổ Huệ Khả xoay lại tìm tâm, không thấy mối mang ở đâu, liền được Tổ Bồ Đề Đạt Ma bảo “Ta đã an tâm cho ngươi rồi”. Rõ ràng như thế. Một khi phản quan thì dứt bặt vọng tưởng. Mối mang sanh tử không còn chỗ tựa nương, mặt trời trí tuệ tự chiếu soi. Đây chính là chìa khóa mở cánh cửa tâm. Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm, Đức Phật đã chỉ ra điều này từ những hai nghìn năm trăm năm trước rồi. Chư Tổ cũng không khác đường.


“Phản quan tự kỷ bổn phận sự, bất tùng tha đắc”, nghĩa là xoay lại chính mình là việc bổn phận gốc của người tu, không từ ngoài mà được. Đây không những là cương lĩnh tu hành của Thiền tông đời Trần mà cho tới bây giờ vẫn là kim chỉ nam duy nhất cho hành giả tu thiền Việt Nam. Chúng ta tu hành để làm gì? Để giác ngộ giải thoát. Giác ngộ tính Phật sẵn có nơi mình, giải thoát khỏi mọi khổ đau triền phược do vô minh vọng động huyễn sinh. Cho nên đây là một pháp tu rất thiết thực, rất gần gũi với chúng ta. Ngày nào chưa phản quan, ngày ấy chúng ta chưa nhận ra được bản tâm chân thật. Ngày nào chưa nhận ra được bản tâm chân thật, ngày ấy chúng ta chưa thể sống an vui tự tại, vĩnh viễn thoát ly sanh tử.


Nhận sâu được yếu lý này nên vua Trần Nhân Tông giao hết vương quyền cho con, quyết chí vào núi tu hành. Năm năm chuyên tâm nhất ý thiền định trên đỉnh Vân Yên, Ngài đã hoàn thành đại sự, làm chủ được mình, tùy thuận độ chúng sinh mà vẫn ung dung tự tại, sống đời thảnh thơi. Trong bài Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca, ngài đã nói rất rõ:


Cảnh tịch an cư tự tại tâm,

Lương phong xuy đệ nhập tùng âm,

Thiền sàng thụ hạ nhất kinh quyển,

Lưỡng tự thanh nhàn thắng vạn câm.


Dịch:


Thân gởi cảnh yên lòng vẫn yên

Rặng tùng gió mát thoáng quanh miền,

Giường thiền một cội, kinh tại án,

Hai chữ thanh nhàn thắng vạn tiền.


Thiền tông đời Trần là dòng thiền có nhiều bậc thiền sư thực tu thực chứng, nên toát ra một sức sống rất mạnh mẽ linh hoạt, ảnh hưởng rất lớn đến đời sống tâm linh của dân tộc ta vào thời bấy giờ. Do nhận ra được tâm chân thật ngay nơi thân sanh diệt này mà các ngài sống tùy duyên nhưng vẫn luôn an lạc, không bị mất mình. Có thể nói nét đặc sắc của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử chính là tính vừa xuất thế lại vừa nhập thế của các thiền sư. Khi hạ thủ công phu thì xuất thế chuyên tu. Khi sáng đạo thì nhập thế rộng độ chúng sanh, không riêng hưởng tịnh lạc cho mình. Tâm hạnh tự lợi, lợi tha là con đường chung của những người con Phật, xưa cũng như nay.


Cho nên ở nhà vua còn có một thiền sư, một con người giác ngộ, thương tưởng chúng sanh bình đẳng không sai biệt. Ngài dấn thân đi vào đời, vừa gần gũi nhân sinh vừa cao thâm thoát tục, để lại cho Phật giáo Việt Nam một dòng thiền Việt Nam rực rỡ ánh hào quang của đạo giác ngộ giải thoát, chuyển hóa một cõi nhân gian.


3. Con người nhập thế


Sơ tổ Trúc Lâm sau khi ngộ đạo đã dành hết cuộc đời còn lại của mình đi khắp nhân gian giảng dạy Thập thiện, khuyến tấn dân chúng bỏ ác làm lành, trừ các dâm từ. Tùy duyên giáo hóa, tùy cơ tiếp dẫn, cả một đời không biết mệt mỏi vì lợi lạc quần sinh. Đặc biệt, Thiền tông đời Trần mang đậm nét bản sắc dân tộc, không ngoại lai với Thiền tông các nước khác. Nhờ thế người dân Việt dễ nhận ra yếu chỉ của chư Tổ Việt Nam, dễ tu theo đường lối truyền dạy của các ngài. Văn hóa của Phật giáo hòa quyện cùng văn hóa dân tộc, đưa đời sống văn hóa và đời sống tâm linh người dân Việt ngày một thăng hoa.


Như trên đã nói, tinh thần tu tập đời Trần là tinh thần tu tập Phật đạo, vừa ly thế vừa nhập thế. Cho nên Sơ tổ Trúc Lâm có 5 năm tu khổ hạnh trên núi. Xuất gia rồi, Ngài dứt khoát chuyên tu, không hề xuống núi. Sau khi ngộ đạo Ngài mới hòa lẫn vào đời, cứu giúp chúng sanh thoát khỏi mê lầm khổ đau. Khi đất nước lâm nguy, từ vua quan sĩ thứ đến toàn dân không trốn tránh trách nhiệm đối với vận nước. Đó là nhờ sự lãnh đạo và giáo dục của các vua Trần, các thiền sư đương thời vậy.


Như Hòa thượng Thích Thanh Từ, Viện trưởng các Thiền viện thuộc hệ phái Trúc Lâm thế kỷ XXI đã kính cẩn tán dương “Con người của Sơ tổ Trúc Lâm làm việc gì phải đến nơi đến chốn, đạt kết quả viên mãn mới thôi. Đánh giặc khi nào quân xâm lăng ra khỏi nước mới dừng. Nghiên cứu Phật pháp đến chỗ uyên thâm nhất mới thỏa mãn. Tu hành đến ngộ đạo mới đi hoằng hóa. Thật là một tấm gương sáng ngời để cho kẻ đời, người đạo học hỏi theo”.


Đó chính là tính cách của Trần Nhân Tông Sơ tổ Trúc Lâm, một con người hiện thực mà siêu thực, hướng thượng mà chẳng bỏ hàng hạ căn thiểu trí, nhập thế mà chẳng nhiễm trần thế. Cho nên Ngài chính là linh hồn của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, vĩnh viễn bất sanh bất diệt trong lòng hậu thế, không tính kể phương sở thời gian.

_________________

Thích Nhật Quang (Thiền viện Thường Chiếu)

Nguồn: thuvienhoasen.org

TƯ TƯỞNG PHẬT GIÁO ĐỐI DIỆN VỚI HƯ VÔ

 

 

"Triết lý; đó là đời sống trong băng lạnh và trong núi cao"
NIETZSCHE

 

 


"Nếu dữ kiện kinh nghiệm tất cả là Không, thì không có sự sinh khởi và sự hủy diệt. Như vậy, chắc chắn sẽ không có bốn chân lý cao cả." (MK. XXIV.1) "(Nếu thừa nhận) tánh Không, ngài đẩy đi mất hiện hữu đích thực của (nhân) quả, của những đức lý thiện và ác, và tất cả trật tự thực tiễn (Samuyavahàrams) của thế gian." (NK. XXIV. 6)


Nói một cách vắn tắt, tất cả những nan giải được nêu lên cho tánh Không luận là người ta có được quyền coi nó như một hư vô luận hay không? Chắc chắn, tánh Không và hư vô có thể được hiểu như là đồng nghĩa. Như vậy, đến mức độ nào thì thứ hư vô luận này được coi như là phương tiện để đạt đến một chân lý tuyệt đối nào đó; và trong một mức độ nào thì tánh Không là cứu cánh của phương tiện diễn đạt ấy? Chúng ta không thể không lầm lẫn giữa phương tiện và cứu cánh; bởi vì, mối tương quan giữa chúng không gì khác hơn chính là mối quan hệ nhân quả. Nàgàrjuna nhắc nhở: "Như bắt rắn không đúng cách; như dùng chú thuật sai lạc, tánh Không bị hiểu nhầm là điều tai hại cho kẻ trí năng thấp kém." (MK. XXIV. 11)


Nhắc nhở ấy hình như chỉ là lấy lệ. Ai cũng có thể viện dẫn lời khuyến cáo ấy để binh vực cho giải thích của mình về tánh Không. Theo giải thích chung của đa số, trong mức độ mà tánh Không luận chỉ là phương tiện diễn đạt về một Tuyệt đối bất khả tri nào đó, thì tánh Không luận cũng đồng với hư vô luận. Ở đây, người ta ưa dùng chữ Phủ định luận hơn. Trong mức độ mà tánh Không chính là cứu cánh, người ta sẽ coi nó như một thực nghiệm luận, hay thực hữu luận. Bởi vì, nó thực đến độ người ta phải nhảy vọt qua tất cả hàng rào danh lý để diện kiến trực tiếp, vì đây là nơi: "chấm dứt tất cả con đường của ngôn ngữ; hủy diệt tất cả con đường của tư tưởng". Ở đây, người ta ưa gọi tánh Không luận như một thứ Tuyệt đối luận. Nếu kết hợp cả hai, tánh Không vừa là phương tiện và vừa là cứu cánh, ta có một danh từ tập hợp để chỉ cho nó: Tuyệt đối duy danh luận. Tuyệt đối, vì tánh Không là cứu cánh phải đạt đến. Duy danh, vì tánh Không là phương tiện đáng được thể hiện. Nhưng, hai chữ này, Tuyệt đối và Duy danh (hay giả danh), chống đối lẫn nhau, loại trừ lẫn nhau. Nếu duy danh - như là phương tiện của tánh Không – mà được khai thác đến triệt để, thì nó tiến đến nột hư vô luận ở ngay nơi cứu cánh chứ không chỉ ở phương tiện. Chúng ta giả thiết một quá trình lịch sử về tánh Không luận để giải thích điều này. trọng tâm của vấn đề là: từ những dữ kiện thực nghiệm, vì những nan giải nào của nhận thức và diễn đạt, mà người ta phải tiến đến một hư vô luận như vậy – bất xét đó là hư vô luận ở phương tiện hay hư vô luận trong cứu cánh. Vấn đề được rút lại trong câu hỏi : "cái gì có và cái gì không?" Dể có thể có một trả lời thích ứng, người ta phải xét đến hai trường hợp: khả tính của phức thể và khả tính của nhứt thể. Hai khía cạnh này nhằm xác định một điều: Khả tính của đối tượng. Nhận thức về một đối tượng tức la nhận thức về một nhất thể; nhất thể hiểu như là tổng hợp của những phức thể. Thí dụ, vì thế giới của dữ kiện kinh nghiệm là thế giới của tương quan: "một chút màu xanh của biển càng xanh khi máu đỏ càng đỏ" nói như nhà thơ Pháp, Paul Claudel; do đó nhất thể của đối tượng lại được coi như là tổng hợp của những phức thể. Thí dụ khác, vật chất hữu hình mà ta thấy đó là sự kết hợp của vô số cực vi; nhưng lý luận đến kỳ cùng thì sự kết hợp này là điều bất khả: chỉ có tổ hợo hữu hình nhưng không có yếu tố của tổ hợp; giống như một vòng lửa, không có hiện hữu đích thực của nhiều đốm lửa để hợp thành một vòng lửa. Vòng lửa là ảo ảnh về sự liên tục vận chuyển của một đốm lửa. Tất cả mọi tổ hợp đều là rỗng không. Như vậy, do ảo tưởng nào mà người ta hứa hẹn khả tính của nhất thể? Chỉ có nhất thể trong tên gọi, đó là lập trường duy danh luận; trong lập trường này, đã hàm ý một hư vô luận.


Trong lịch sử tư tưởng của Tánh Không luận, khởi đầu là sự tranh luận về điểm: có nên thừa nhận có một Bản ngã (Pdugala) hay không? Sự tranh luận này được khởi đầu vì hình như nguyên thủy, Phật từ chối về một Bản ngã, nhưng phái Vàtsiputìrya lại chủ trương phải có Bản ngã và dẫn chứng lời của Phật. Theo lập luận của phái này, nếu không có sự tồn tại của một Bản ngã, làm sao người ta có thể truy ức về những hoài niệm đã qua? Những hoạt động của các tổ chức vật lý và tâm lý phải chịu sự chi phối của định luật vô thường; nếu không có sự tồn tại của một Bản ngã ở ngoài định luật này, cái gì duy trì những hoạt động của các tổ chức vật lý và tâm lý để có thể truy ức về một quá khứ của chúng? Vả lại, nếu căn cứ trên định luật nhân quả, với tính cách phổ quát và thường nghiệm của định luật, người ta bị bắt buộc phải thừa nhận tính cách thường tại của một Bản Ngã. Bởi vì, phải có một Bản ngã vừa là tác giả vừa là thọ giả, người ta mới giải thích được mối tương quan và đồng nhất giữa tác dụng và phản ứng của tác dụng.


Lối lập luận trên đây nếu được nới rộng, ta sẽ đi đến một Nhất thể toàn diện và khép kín. Nhất thể đó sẽ là căn nguyên của tất cả vạn hữu. Nó thỏa mãn câu hỏi: thế nào là khả tính của một đối tượng? Câu trả lời có thể là: trong tương quan đối đãi với một Bản ngã thường tại, khả tính của một đối tượng được xác định từ một Nhất thể toàn diện. Nói theo thuật ngữ: Ngã pháp câu hữu; Bản ngã và những yếu tố tập hợp của tất cả phức thể: cả hai không đồng nhất cũng không dị biệt. Tập hợp các phức thể thành một Nhất thể: Nhất thể không phải là một bản thể, hay bản ngã, ở ngoài các phức thể. Nhưng ngược lại, do Nhất thể – xét như một bản thể hay bản ngã – mà trật tự của các phức thể được duy trì và chúng có thể tác động theo định luật nhân quả: như vậy, Nhất thể không thể đồng nhất với phức thể. Nhất thể và phức thể không đồng nhất cũng không dị biệt: các nhà Vàtsiputrĩyas thành lập một Bản ngã bất khả thuyết.


Chủ trương này bị cực lực phản đối. Lý do chính của sự phản đối này là: bất cứ một chủ trương nào thừa nhận có một Bản ngã thường tại đều đi ngược với Phật pháp. Trong lý tưởng "tuyệt đối từ khước" không thể dung dưỡng một Bản ngã như vậy; dù Bản ngã được hiểu, trong phạm vi thường nghiệm như một chủ thể tâm lý, hay trong lãnh vực tâm linh như một nguyên lý siêu hình, như một căn nguyên thực tại.


Ngoài ra chủ trương đòi hỏi có một Bản ngã thường tại để làm căn nguyên cho vạn hữu không giải quyết được gì cả. Trước tiên, nếu coi Bản ngã như một thể tính không chịu chi phối của luật vô thường, nó không thể là căn nguyên của tác dụng nhân quả; vì rằng bất động. Ngược lại, những gì có tác dụng nhân quả đều phải chịu sự chi phối của định luật vô thường. Trong định luật này, không có đồng nhất tính, do đó không có một thể tính bất biến nào để có thể gọi đó là một Bản ngã thường hằng. Những lập luận phản đối chủ trương Bản ngã thường không quên trích dẫn lời này của Phật: "có tác nghiệp, như không có tác giả và thọ giả."


"Có tác nghiệp, nhưng không có tác giả và thọ giả": ở đây, tất nhiên từ khước sự hiện hữu của một bản ngã liên tục thường tại và đồng nhất hay không? Bởi vì, trong tương quan tác dụng, khỏi cần có một căn nguyên chung, mà chính do sự giao hỗ của các hiện thể cũng đảm bảo hiệu quả thiết thực của định luật nhân quả và lại không chống trái với định luật vô thường. Nếu thế, phải thừa nhận thể tính của hiện hữu; mặc dù không thể nhận có bản ngã của hiện hữu. Thể tính đó tức là tính cách thực hữu của hiện hữu trong giới hạn nào đó của thời gian: chỉ thực hữu trong hiện tại, hay cả trong quá khứ và vị lai? Ở đây người ta bộc lộ một vấn đề công khai và quyết liệt: cái gì có và cái gì không?


Chúng ta có hai quan điểm:


Thứ nhất, đặc trưng là phái Sarvàstivàda: "Cái CÓ thì có thấy; cái KHÔNG thì không thấy". Thứ hai, đặc trưng là phái Sautrantika: "cái CÓ thì thấy có; cái KHÔNG thì thấy không".


Cái CÓ thì có thấy; cái Không thì không thấy; tức là, những gì được xác định là CÓ, chúng phải là đối tượng cho nhận thức hay khả hữu của đối tượng, cái không xuất hiện như một đối tượng hay khả hữu của đối tượng, cái ấy là KHÔNG và không thể nghĩ hay nói về một cái KHÔNG mà không phải là đối tượng như vậy. Trên tổng quát, lập luận của Sarvàstivàda căn cứ ở định thức duyên khởi (Pratityasamutpàda): có cái này vì có cái kia. Khi định thức này được khai triển, thì bản chất của tri thức là truy nhận đối tượng; do đó, nếu thừa nhận hoạt động của tri thức thì phải thừa nhận sự hiện hữu của đối tượng. Nếu đối tượng hoàn toàn bất thực, nó không đủ khả năng tác động sự truy nhận của tri thức. Nhưng, trong trường hợp đối tượng chỉ là một ảo giác, nó tác động như thế nào?


Để giải quyết nạn vấn này, các nhà Sarvàstivàda theo như trình bày của Sanghabhadra, có hai loại hữu: a) thật vật hữu (dravyasat), là tính cách thực hữu đạt được trong nhận thức trực khởi hay trực giác; thí dụ, từng đốm lửa trong một vòng lửa. b) giả danh hữu (prajnaptisat), là ảo giác đạt được do gán ghép những thực vật hữu; thí dụ, vòng lửa. Trong thực vật hữu, người ta đạt được tự tướng của sự hữu. Đó là sự hữu biểu lộ trong từng khoảnh khắc sát na. Ở giả danh hữu, người ta đạt được cọng tướng hay tổng tướng của sự hữu. Đó là sự hữu trong một khoảnh khắc sát na nhưng lại biểu lộ như là tất cả mọi thời; thấy sự hữu bây giờ và ở đây như là thấy nó trong mọi lúc và mọi nơi. Như vậy, dù đối tượng là ảo giác, nhưng ảo giác ấy không phải là vô căn vô cố. Thí dụ, khi thấy sợi dây ngỡ là con rắn; ảo giác này căn cứ sự hữu của chính sợi dây. Nếu diễn dịch cho đến kỳ cùng, thì sự hữu xét như thực vật hữu của sợi dây phải là những cực vi kết tụ. Chính cực vi ấy mới là tự tướng, và chỉ có trong nhận thức trực khởi. Giải thích này cũng để trả lời cho những nạn vấn của Sautrantika. Theo những nạn vấn này, thi thức vẫn có thể truy nhận được cái KHÔNG. Vả lại, khi một nhà tu thiền, họ lấy màu xanh làm khởi điểm chẳng hạn; đến một lúc nào đó, đối với ông cả thế giới này đều là màu xanh hết. Màu xanh như vậy cũng không phải là một sự hữu. Lại nữa, hoặc như trong chiêm bao, người ta có thể thấy lông của rùa hay sừng của thỏ. Trên tất cả thí dụ này, Sautrantika đưa ra một nạn vấn tổng quát: nếu cái KHÔNG nhất thiết không thể là đối tượng của nhận thức, tại sao trong ngôn ngữ thường nhật người ta vẫn dùng được những danh từ không chỉ cho một sự hữu nào cả? Đối với những thí dụ như màu xanh phổ biến hay hình ảnh trong chiêm bao mà Sautrantika đề ra, các nhà Sarvàstivàda quả quyết rằng, chính trong dữ kiện kinh nghiệm đã cung cấp cho ta những hình ảnh ấy. Thí dụ, thực sự ta không hề thấy lông của rùa hay sừng của thỏ, nhưng trong dữ kiện kinh nghiệm, ta đã từng thấy lông và rùa, sừng và thỏ. Nói tổng quát, cái giả căn cứ trên cái thực. Với nạn vấn về những danh từ chỉ trống, họ cho rằng đấy chỉ là mặt phủ định của danh từ; mặt kia vẫn là khẳng định.


Với lối lý luận đặc trưng như trên, các nhà Sarvàstivàda đi đến một chủ thuyết về Hữu toàn diện, đúng như tên gọi của nó: Nhất thiết hữu bộ (Sarvàstivàda); họ chấp nhận luôn đến cả thực tại tính của giấc mộng. Trong truyền thống này, nếu ta thành lập một tánh Không luận, phải chăng đó là cưỡng từ đoạt lý? Bởi vì, tánh Không là một phủ định, mà mặt khác chắc chắn là khẳng định . Như vậy, khái niệm về Không chỉ là một giả tưởng. Nếu vậy, ta phải hiểu thế nào với giải thích thông thường về tánh Không luận, rằng "vì Không cho nên Có" để không vướng khỏi cái lưới hữu toàn diện mà Sarvàstivàda đã bũa ra đó?


Bây giờ xét đến chủ trương của Sautrantika: "cái CÓ thì thấy có; cái KHÔNG thì thấy không." Ở trên chúng ta có nhắc đến một ít nạn vấn mà họ nêu lên cho Sarvàstivàda để buộc phái này phải nhận rằng có thể có nhận thức về KHÔNG. Nạn vấn của họ hình như được giải đáp thỏa đáng. Chúng ta không có các văn kiện của Sautrantika để thấy rõ lập luận của họ. Nhưng Harivarma, trong truyền thống của Sautrantika, cũng trả lời lại cho câu giải đáp của Sarvàrtivàda. Đối với Harivarma, định thức duyên khởi cố nhiên phải thừa nhận, nhưng bản chất của tri thức là hoạt động liên khởi với đối tượng, thì CÓ thấy rằng CÓ và KHÔNG thấy rằng KHÔNG, có gì trở ngại? Vả lại, căn cứ trên một chút màu xanh mà thấy tất cả đều xanh, thì trong cái thấy ấy, đối tượng trực tiếp của tri thức không phải là cái "màu xanh một chút" nhưng là cái "màu xanh tất cả"; và màu xanh như vậy là một sự trống không. Khi các nhà Sarvàstivàda diễn kịch đến tự tướng cực vi và đặt biên tế của thực tại hữu ở đây, thì cực vi thực ra cũng chỉ là một giả tưởng; nó chỉ là hệ luận có vẻ hợp lý của lý luận diễn dịch. Bởi vì, người ta không thể giải thích được tính cách tập hợp của cực vi. Khi truy nhận về một tập hợp sắc, mà tập hợp ấy lại không có các phần tử cực vi tụ hội lại, thì tập hợp ấy há không phải là một tập hợp trống không? Và như vậy, cái KHÔNG vẫn có thể hiện diện như là đối tượng của nhận thức. Đây là hậu quả hợp lý của một thứ hư vô luận. Nhưng xét cho kỳ cùng, ta vẫn có thể nói ngược lại. Khi các nhà Sarvàstivàda, thì hiển nhiên họ treo một thứ hư vô luận lơ lửng trên đầu. Trong khi đó, các nhà Sautrantika cố tìm cách đặt cái KHÔNG vào hoạt trường của nhận thức, rõ ràng họ đẩy hư vô ra khỏi bóng tối để trở thành một thứ duy thực triệt để.


Đấy là kinh nghiệm rút ra từ lịch sử của tư tưởng – một thứ lịch sử giả thiết: khi nói về cái CÓ thì nói trong sự bao dung của cái KHÔNG; khi nói về cái KHÔNG thì nói trong sự bao dung của cái CÓ. Cái gì có và cái gì không: CÓ và KHÔNG là một song quan luận đã điều động tất cả lịch sử tư tưởng Phật giáo. Đấy vẫn là một thứ lịch sử của giả thiết. Bên trong giả thiết là môi trường diễn đạt của ngôn ngữ. Và, hình như bên trên tất cả sự giả thiết ấy, một chân tính nào đó cần phải được thể nghiệm, mà không thể nói bằng lời. Cái chân tính ấy như là căn nguyên. Rõ ràng đây chỉ là một hệ luận hợp lý, vẫn ở trong vòng chi phối của diễn đạt ngôn ngữ:


"Tất cả đều hợp lý vì hợp lý với Tánh Không. Tất cả không hợp lý vì không hợp lý với tánh Không." (MK. XXIV. 14)


Nếu tánh Không được hiểu như một hư vô luận; thì ở đây mọi cái hợp lý đều không phải là hợp lý do đối chiếu với một căn tính nào đó, mà hợp lý vì tương quan đúng, vì kết hợp được mạch lạc giữa nguyên nhân và hiệu quả. Hợp lý không phải vì mọi sự hữu đều có nguyên nhân hiện hữu, nhưng vì là tương quan hiện hữu. Như thế, tất cả đều là hữu của giả danh, vì bản tính của hữu là Không. Trong phương tiện, trong dữ kiện thường nghiệm, hữu là giả danh. Trong cứu cánh, tính thể của hữu là tánh Không. Ta có kết luận: đấy là lý luận để đưa đến một tánh Không duy danh luận. Trong con mắt của những nhà Yogàcàra, thứ tánh Không luận ấy không thể chấp nhận được. Thứ nhất, nếu đặt nó thành một tiền đề luận lý, tiền đề ấy không thể xác định được đúng hay sai, một tiền đề vượt ngoài tương quan nhân quả. Thứ đến, với thứ tánh Không luận ấy, người ta không tạo nổi một nội dung cho giả thiết. Như vậy, mọi luận thuyết sẽ diễn ra như một trò chơi chữ. Lankavàtàra, với một cố gắng dung hợp hơn, chấp nhận tánh Không luận ấy, nhưng khuyên là đừng nên đặt nó thành một tiền đề của luận lý. Hình như Nàgàrjuna bất chấp tất cả những điều ấy. Chúng ta đã biết Nàgàrjuna nói gì về những nan giải cho tánh Không luận trong Vigrahavyàvartànì. Tại sao các nhà Yogàcàra không xét đến, dù họ là những người đi sau Nàgàrjuna? Lại nữa, ngay cả Aryadeva, một đồ đệ thân cận nhất của Nàgàrjuna, cũng yêu sách tánh Không luận phải hội đủ cà hai phương diện là phá hủy và kiến thiết. Chính Nàgàrjuna trong chương XXIV của Madhyamika-Kàrikà, hình như cũng nói rằng tánh Không luận gồm đủ cả hai phương diện là phá hủy và kiến thiết. Cuối cùng, người ta không thể giải thích khác hơn là nói rằng tánh Không luận chì được hiểu như hư vô luận ở mức độ phương tiện mà thôi. Như thế, tận cùng của lịch sử tánh Không luận vẫn là lãnh vực của một "nhất thiết Hữu", Hữu toàn diện. Trong cái lãnh vực Hữu toàn diện này, bất cứ dữ kiện thường nghiệm nào cũng có khả năng dẫn khởi hạt giống Giác ngộ. Nhưng, tất cả dữ kiện thường nghiệm đều phải chịu sự chi phối của định luật vô thường, sự dẫn khởi của hạt giống Giác ngộ lại là sự sáng tạo liên tục; liên tục trong từng ý niệm liên tục.


Trong mọi trường hợp, đối với chúng ta, tánh Không luận chỉ mới được hiểu như là một phương thức tư tưởng, một phương tiện diễn đạt; hay nói gọn, nó chỉ là một pháp thức luận lý nào đó. Nếu ta coi nó như là ngón tay chỉ mặt trăng; thì mặt trăng đang lơ lửng ở phương nào? Trước câu hỏi ấy, ta đối đầu với một hư vô luận nữa. Tánh Không là phương tiện; nhưng tánh không cũng là cứu cánh. Đấy là tánh Không duy danh luận trong một lãnh vực Hữu toàn diện? Hay đấy là một thứ hư vô luận triệt để, từ đầu đến cuối? Mượn trả lời của Nietzsche: "Thà chun qua lỗ khóa còn hơn qua những cánh cửa mở rộng".

 

______________________

 

• Thích Tuệ Sỹ

Nguồn: quangduc.com

VUA LÝ THÁNH TÔNG VÀ THIỀN PHÁI THẢO ĐƯỜNG

Chúng tôi nghiên cứu Văn hóa Lịch sử thời nhà Lý, thấy sự kiện vua Lý Thánh Tông trọng dụng vị Thiền sư người Tàu, qua nước Chiêm Thành, bị vua Lý Thánh Tông bắt làm tù binh, đưa về Thăng Long. Sauk hi phát hiện tài năng của Thiền sư Thảo Đường, Lý Thánh Tông đã cho phép ông lập Thiền phái Thảo Đường tại nước Đại Việt và phong làm Quốc sư triều Lý Thánh Tông.

 

 

Câu chuyện lịch sử Văn hóa Phật giáo Việt Nam này thật đáng kính phục.

 

Theo Wikipedia. Thảo Đường là một Thiền sư nước Tàu, không rõ thân thế. Là Quốc sư dưới triều vua Lý Thánh Tông. Là người sáng lập thiền phái Thảo Đường trong lịch sử Phật giáo Việt Nam.

 

Năm 1069. Vua Lý Thánh Tông đem quân chinh phạt Chiêm Thành. Theo sách An Nam chí lược của Lê Tắc, trong số những tù nhân bắt được trong chiến cuộc ấy, có một Thiền sư người Tàu. Nhưng chẳng ai biết ông là Thiền sư.

 

Khi về tới kinh đô Thăng Long, Vua Lý Thánh Tông chia số tù nhân bắt được cho các quan để làm người phục dịch. Tình cờ Thiền sư được chia cho một người tăng lục, chuyên coi việc tăng sự tại triều.

 

Một hôm, trong lúc viên tăng lục đi vắng, vị sư nô bộc, lật xem thử những bản ngữ lục Thiền học chép tay, để trên bàn của chủ. Thấy trong bản chép có nhiều chỗ sai quá, Thiền sư cầm bút sửa chữa.

 

Khi vị tăng lục về, khám phá ra, rất ngạc nhiên, tâu lên vua. Vua Lý Thánh Tông cho vời tên nô bộc kỳ lạ ấy lên hỏi, thì biết đó là Thiền sư Thảo Ðường ở nước Tàu, nhân đi qua Chiêm Thành truyền giáo mà bị bắt.

 

Dùng tù binh Thiền sư, lập Thiền phái Thảo Ðường


Vua Lý Thánh Tông thấy Thiền sư Thảo Đường là người "có đức hạnh, lại tinh thông Phật điển, bèn bái làm thầy" và phong làm Quốc sư (1069) mời đến trụ trì tại chùa Khai Quốc (chùa Trấn Quốc ngày nay) tại kinh thành Thăng Long.

 

Thiền học của Quốc sư Thảo Đường có những nét mới lạ, so với hai Thiền phái đương thời là Tỳ-ni-đa-lưu-chi và Vô Ngôn Thông, Vua cho phép thành lập một Thiền phái mới, lấy tên là Thiền phái Thảo Ðường.

 

Theo tư liệu nghiên cứu, Thiền sư Thảo Đường là đệ tử của thiền sư Trùng Hiển (980-1052, thuộc về thế hệ thứ ba của Thiền phái Vân Môn, sau được vua Tống ban hiệu là Minh Giác đại sư ở núi Tuyết Đậu (Chiết Giang, Trung Quốc). Vân Môn và Tuyết Ðậu (hiệu Minh Giác đại sư) đều là Thiền sư bác học và có khuynh hướng Văn học.

 

Cả hai người đều nhằm tới hoằng dương Thiền học trong giới trí thức, đưa giới Nho gia đến gần với đạo Phật và trở nên Phật tử. Đặc điểm này đã ảnh hưởng nhiều tới Phật giáo đời Trần ở Việt Nam.

 

Theo sách Thiền sư Việt Nam, đến 50 tuổi, Thiền sư Thảo Đường có chút bệnh, ngồi kiết già mà tịch.

 

Thiền phái Thảo Đường


Chùa Trấn Quốc, nơi trụ trì của Thiền sư Thảo Đường.


Thiền phái Thảo Đường do Thiền sư Thảo Đường sáng lập truyền thừa được 5 đời, từ 1069- 1205. Nhưng vì có quá ít tài liệu, nên người đời sau gần như không biết nhiều về tư tưởng của phái Thiền này.

 

Sách Thiền Uyển Tập Anh ghi tên tuổi 19 người thuộc phái Thảo Đường, nhưng không ghi lại tiểu sử, niên đại và các bài truyền thừa của mỗi vị. Tất cả được phân làm sáu thế hệ.

 

Thiền sư Thảo Ðường đã giảng các tập Tuyết Đậu ngữ lục mang vẻ đẹp thơ của thầy (tức thiền sư Tuyết Đậu) tại chùa Khai Quốc. Khuynh hướng Thiền học trí thức và thi ca đã từ đó ảnh hưởng đến hai Thiền phái Tỳ-ni-đa-lưu-chi và Vô Ngôn Thông.

 

Sau này Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử của đời Trần còn tiếp tục chịu ảnh hưởng này.

 

Thiền phái Thảo Đường chỉ truyền đến năm 1205 thì dứt. Lý giải điều này, sách Việt Nam Phật giáo sử luận (Tập 1) nhận xét:

 

...Vì khuynh hướng thiên trọng trí thức và văn chương của thiền phái Thảo Ðường, nên thiền phái này đã không cắm rễ được trong quần chúng mà chỉ ảnh hưởng đến một số trí thức có khuynh hướng văn học.

 

Trong số 19 người thuộc thiền phái Thảo Ðường được ghi chép ở sách Thiền Uyển Tập Anh, ta thấy chỉ có 10 vị là người xuất gia: Thảo Ðường, Thiệu Minh, Phạm Âm, Ðỗ Ðô, Trương Tam Tạng, Chân Huyền, Hải Tịnh, Bát Nhã, Không Lộ và Ðịnh Giác (tức Giác Hải, đồng thời cũng thuộc thiền phái Vô Ngôn Thông).

 

Ta thấy có tới 9 vị là cư sĩ, mà phần nhiều là vua với quan: Lý Thánh Tông, Lý Anh Tông và Lý Cao Tông (đều là vua), Ngô Ích là quan tham chính, Ðỗ Vũ là quan thái phó, Nguyễn Thức là quan quản giáp... Vì những lý do trên, thiền phái Thảo Ðường đã không đủ sức tạo nên một truyền thống sinh hoạt tăng viện độc lập có thể lưu truyền về sau. Ảnh hưởng của thiền phái này chỉ đáng kể về mặt học tập...

 

Thiền sư Tuyết Đậu

 

Theo Thiền sư Thích Nhất Hạnh. Thiền sư Tuyết Đậu là một thiền sư nổi tiếng về một môn phái thiền học gọi là Vân Môn. Thiền sư Tuyết Đậu tịch năm 1052. Thiền sư Thảo Đường bị bắt về Đại Việt năm 1069. Sau khi thiền sư Tuyết Đậu tịch thì thiền sư Thảo Đường về phương Nam để hành đạo. Ngài đi thẳng vào nước Chiêm Thành.

 

Vân Môn, một trong năm thiền phái lớn nhất của Trung Quốc gọi là Hoa sinh Ngũ diệp, một bông hoa nở ra năm cánh, trong đó có hai thiền phái Tào Động, và Lâm Tế. Thiền sư Tuyết Đậu rất nổi tiếng và đã được vua nhà Tống ban cho danh hiệu là Minh Giác Đại Sư. Ngài tịch năm 73 tuổi.

 

Thiền sư Tuyết Đậu đã chọn lọc những tinh yếu trong các bộ Lục để làm ra 100 bài tụng cổ.

 

Thoại đầu là câu nói của một vị thiền sư, và trong câu nói đó cũng có những ý nghĩa rất sâu xa. Trong bộ Cảnh Đức Truyền Đăng Lục người ta sao lục được khoảng 1700 cổ tắc, công án và thoại đầu. Thầy Tuyết Đậu đã rút những tinh yếu của 1700 cổ tắc đó để làm ra 100 bài tụng cổ.

 

Tụng cổ nghĩa là đọc lại những cổ tắc, những công án, và những thoại đầu. Những đề tài được thầy đưa ra cho đệ tử làm đề án tham thiền thì gọi là công án.

 

Công án là những mẩu chuyện giữa các thiền sư và đệ tử, ý nghĩa rất thâm sâu. Người ta đem những câu chuyện đó ra làm đề tài cho thiền tập.

 

Đối với một công án hay cổ tắc, vị thiền sư cho ra một bài tụng để giúp người đệ tử có thể hiểu được công án đó, và bài đó gọi là tụng cổ.

 

Thời Trần các vua tu Thiền đều chịu ảnh hưởng của Thiền sư Tuyết Đậu do Thiền sư Thảo Đường truyền qua Thiền Phái Thảo Đường tại Việt Nam.

 

Vua Trần Nhân Tông cũng đã viết những bài tụng cổ để giúp cho các đệ tử tham thiền.

 

Bài tụng cổ của vua Trần Thái Tông:

 

Vừa tới cửa ngoài nghe tiếng hét,

Tỉnh giấc hôn trầm lũ cháu con,

Một tiếng sấm Xuân vừa chấn động,

Khắp nơi cây cối nẩy mầm non.

 

Phân tích, bình giải bài tụng cổ:

 

Vừa tới cửa ngoài nghe tiếng hét. Vừa mới tới cửa ngoài của hang sư tử thì đã nghe tiếng hét của sư tử,

 

Tỉnh giấc hôn trầm lũ cháu con. Lũ cháu con đây là đệ tử. Tác dụng của tiếng hét là làm tỉnh cơn mê của đệ tử.

 

Một tiếng sấm Xuân vừa chấn động. Chúng ta đang ở trong mùa Đông và chúng ta chịu sự lạnh lẽo. Tất cả cây cối đều không mọc lên được một ly nào.

 

Nhưng khi có tiếng sấm của Chúa Xuân bắt đầu nổi dậy thì giống như một cái lệnh cho biết mùa Xuân đã đến. Từ lúc đó trở đi, tất cả cây cối bắt đầu nẩy mầm Xuân.

 

Đó là tác dụng của tiếng hét của thiền sư. Tiếng hét của thiền sư không phải để la mắng mình mà để làm cho mình thức tỉnh, và tất cả năng lượng, tất cả những hạt giống tốt ở trong mình có cơ hội bộc phát, nẩy mầm.

______________

Mai Thục

Nguồn: vanhoaphatgiaovietnam.net

ĐỆ TỬ XUẤT SẮC CỦA PHẬT HOÀNG TRẦN NHÂN TÔNG

Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông là người vạch ra phương hướng và đặt viên đá đầu tiên, nhưng người đứng ra hoàn thành xuất sắc hoài bão ấy chính là Tổ sư Pháp Loa.

 

Ngày 29/3, tại Di tích lịch sử Quốc gia đặc biệt - chùa Vĩnh Nghiêm (tỉnh Bắc Giang), Hội Di sản Văn hóa Việt Nam phối hợp với Ban Trị sự Giáo hội Phật giáo tỉnh Bắc Giang, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Bắc Giang tổ chức Hội thảo khoa học: "Đệ nhị Tổ Thiền Phái Trúc Lâm Pháp Loa với việc kế thừa và phát triển di sản văn hóa Thiền Phái Trúc Lâm" nhân kỷ niệm 687 năm ngày Tổ sư Pháp Loa viên tịch (3/3/1330 – 3/3/2017).

Toàn cảnh hội thảo.


Theo PGS.TS Đỗ Văn Trụ, Phó chủ tịch thường trực, Tổng thư ký Hội di sản Văn hoá Việt Nam, Hội thảo khoa học: "Đệ nhị Tổ Thiền Phái Trúc Lâm Pháp Loa với việc kế thừa và phát triển di sản văn hóa Thiền Phái Trúc Lâm" nhằm một lần nữa góp phần khẳng định công lao to lớn của Thiền sư Pháp Loa trong việc xây dựng và phát triển Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, làm sáng tỏ hơn nữa các tư liệu, các sự kiện có liên quan tới cuộc đời và sự nghiệp của Ngài.

 

Trình bày tham luận tại Hội thảo, PGS. TS Đặng Văn Bài, Phó Chủ tịch Hội Di sản Văn hóa Việt Nam cho biết: "Tổ sư Pháp Loa là vị chân tu thấu hiểu lẽ biến dịch của trời đất và bằng quan điểm "nhập thế" tiến bộ của Đệ nhất Tổ Trần Nhân Tông. Ngài đã kết hợp nhuần nhuyễn giữa đạo pháp và nhân sinh, góp phần xây dựng và phát triển mô hình Phật giáo Trúc Lâm mang đậm nét bản sắc văn hóa Đại Việt. Đệ nhị Tổ Pháp Loa bắt đầu sự nghiệp với tâm nguyện vô cùng trong sáng là: "Chư Phật và Bồ Tát có những hạnh nguyện nào, tôi xin học và thực hành theo, dù chúng sinh khen hay chê, dù khinh hay trọng, dù bố thí hay cướp đoạt, khi mắt thấy tai nghe cũng đều hỉ xả, khiến cho tất cả cùng bước lên nấc thang giác ngộ". Đây thực sự là hạnh nguyện cao cả của một bậc Đại sư".

 

GS.TSKH Vũ Minh Giang, Phó Chủ tịch Hội đồng Di sản Văn hóa Quốc gia khẳng định: "Sau khi Phật Hoàng Trần Nhân Tông nhập Niết Bàn, Pháp Loa chính thức được suy tôn là Tổ thứ 2 Thiền Phái Trúc Lâm, trở thành người lãnh đạo Phật tử trong cả nước. Uy tín của ông với chúng tăng và trong xã hội không ngừng tăng lên. Với tư cách người đứng đầu giáo phái có đầu óc thông tuệ, có kiến thức uyên bác, Pháp Loa đã đảm nhiệm công việc giảng các bộ kinh lớn như: Kim Cương, Lăng Nghiêm; Hoa Nghiêm; Lăng Già; Viên Giác…".

 

Các tham luận cũng khẳng định, Thiền sư Pháp Loa đã có những cải cách đáng kể về mặt tổ chức, là người đầu tiên tổ chức Giáo hội Phật giáo một cách có hệ thống, lập sổ bộ tăng ni và tự viện trong cả nước, góp phần vào việc phát triển nhanh chóng lượng người xuất gia và quy y học đạo. Tổ sư Pháp Loa cũng rất chú trọng chăm lo việc mở giảng các lớp thuyết Pháp về Phật pháp; chú giải nhiều kinh điển, viết nhiều sách giáo khoa Phật học, đặc biệt là ấn hành Đại Tạng Kinh, một tác phẩm quan trọng của Phật giáo tại Việt Nam.

 

Ngoài ra, trong thời Tổ sư Pháp Loa lãnh đạo phật tử trong cả nước, phong trào tu học được đẩy mạnh trong các thành phần xã hội, đặc biệt đã thu hút được các tầng lớp quý tộc, nhờ vậy, tiềm lực kinh tế của của các cơ sở giáo hội Trúc Lâm ngày càng lớn mạnh. Bên cạnh đó, nhiều chùa, tháp được xây dựng và trùng tu; đúc hàng nghìn tượng Phật; Thiền sư đã để lại dấu ấn đặc biệt trong việc thành lập các trung tâm, học viện Phật giáo, các cơ sở Phật giáo tiêu biểu của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử…

 

Hòa thượng Thích Gia Quang, Phó Chủ tịch Hội đồng Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam phân tích: "Công lao nổi bật nhất của Tổ sư Pháp Loa là in Đại tạng Kinh với hơn 5.000 quyển và xây dựng Giáo hội Phật giáo Trúc Lâm. Với Giáo hội Trúc Lâm, tuy Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông là người vạch ra phương hướng và đặt viên đá đầu tiên, nhưng người đứng ra hoàn thành xuất sắc hoài bão ấy chính là Tổ sư Pháp Loa. Dẫu rằng công việc đó tiến hành thuận lợi, một phần là nhờ vào uy tín và ảnh hưởng của Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông, nhưng chính bản thân Tổ sư Pháp Loa nếu không đủ đức độ, tài năng thì làm sao cảm hóa và khiến cho mọi người noi theo được".

 

Thiền phái Trúc Lâm ra đời vào thời nhà Trần (1226-1400). Lịch sử của Thiền phái Trúc Lâm gắn liền với tên tuổi của Trúc Lâm Điều Ngự - Trần Nhân Tông. Cùng với Phật Hoàng Trần Nhân Tông, Thiền sư Pháp Loa và Thiền sư Huyền Quang được lịch sử gọi là Trúc Lâm Tam Tổ. Hội thảo được tổ chức nhằm góp phần khẳng định công lao to lớn của Thiền sư Pháp Loa trong việc xây dựng và phát triển Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử; làm sáng tỏ hơn nữa các tư liệu, các sự kiện có liên quan tới cuộc đời và sự nghiệp của Tổ sư Pháp Loa; qua đó, đặt ra những vấn đề cần phải tiếp tục nghiên cứu, bảo vệ và phát huy trong thời gian tới.


Thiền sư Pháp Loa tên thật là Đồng Kiên Cương, sinh ngày 7/5/1284, quê ở làng Cửu La, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Thiền sư Pháp Loa hưởng dương 47 tuổi, có 26 năm hành đạo trong đó có 23 năm, từ năm 1308 đến năm 1330 giữ cương vị Đệ nhị Tổ của Thiền phái Trúc Lâm.


29 tham luận công phu, tâm huyết của các nhà khoa học, nhà nghiên cứu văn hóa, Phật giáo tại Hội thảo đều thống nhất rằng, Đệ nhị Tổ Pháp Loa là người kế thừa và phát triển xuất sắc tư tưởng của Phật hoàng Trần Nhân Tông, có công lao to lớn đưa Thiền phái Trúc Lâm đạt tới đỉnh cao mới.

_______________

www.tienphong.vn

5 TƯỚNG GIỎI NHẤT THỜI TRẦN KHIẾN QUÂN MÔNG - NGUYÊN KHIẾP SỢ

Nhà Trần là triều đại rực rỡ với chiến công 3 lần đánh bại giặc Mông - Nguyên. Chiến công đó ghi dấu ấn rõ nét của những vị vua tài giỏi và tướng tài ba.

 

Trên cơ sở nghiên cứu, đánh giá lại lịch sử, sử gia Phan Huy Chú (1782-1840) đã xếp 5 danh tướng giỏi nhất thời Trần gồm: Trần Quốc Tuấn, Trần Quang Khải, Trần Nhật Duật, Phạm Ngũ Lão, Trần Khánh Dư.

 

Quốc công Tiết chế - Hưng Đạo Đại Vương


Quốc công Tiết chế thống lĩnh quân đội nhà Trần 3 lần đánh bại giặc Mông -Nguyên,

Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn. Ảnh: Hà My.


Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn là vị tướng kiệt xuất nhất của triều Trần hiển hách, một trong những vị tướng tài giỏi nhất trong lịch sử quân sự thế giới.

 

Cuộc đời của Trần Quốc Tuấn gắn liền chiến công ba lần đánh bại giặc Mông - Nguyên, đội quân hung hãn và tàn bạo nhất thế giới trong thế kỷ XIII. Chiến thắng đã đưa ông trở thành một trong những nhà quân sự kiệt xuất trong lịch sử thế giới.

 

Ngoài tài năng về quân sự, Trần Hưng Đạo còn để lại cho hậu thế những tư tưởng lớn. Trong đó, nổi bật là lấy dân làm gốc như lời khuyên của ông dành cho vua Trần Anh Tông trước khi qua đời: “Khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc là thượng sách giữ nước”.

 

Theo một số tài liệu lịch sử, ngay cả quân Mông - Nguyên đương thời cũng không dám gọi thẳng tên ông, chúng chỉ thường gọi ông là “An Nam Hưng Đạo đại vương”.

 

Trần Khánh Dư - danh tướng bán than tài ba


Trần Khánh Dư (1240-1340), hiệu là Nhân Huệ Vương. Dù có nhiều tật xấu, bị sử sách phê phán, ông là tướng rất tài giỏi. Trong 3 lần kháng chiến chống Mông - Nguyên, Trần Khánh Dư đều lập công lớn, tiêu biểu là chiến thắng Vân Đồn cuối năm 1287.

 

Theo Đại Việt sử ký toàn thư, trước đó, vì mắc tội, Trần Khánh Dư bị phạt đánh 100 roi, tước hết gia sản, đuổi về quê, làm nghề đốt than kiếm sống. Sau này, Trần Khánh Dư được vua Trần Nhân Tông tha tội, cho phục chức, cầm quân giết giặc lập công.

 

Cuối năm 1287, dưới sự chỉ huy của Trần Khánh Dư, quân Trần đã đánh tan đoàn thuyền chở 170.000 thạch của nhà Nguyên do Trương Văn Hổ chỉ huy.

 

Chiến thắng của Trần Khánh Dư khiến quân Nguyên rơi vào thế bị động. Trên đường rút lui, chúng đã bị Trần Hưng Đạo, Phạm Ngũ Lão đánh cho tan tác. Thoát Hoan chui vào ống đồng trốn về nước.

 

Phạm Ngũ Lão - hổ tướng đánh đâu thắng đó


Phạm Ngũ Lão (1255-1320) là tướng xuất sắc của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn. Ông vốn người làng Phù Ủng, huyện Đường Hào (nay thuộc huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên), xuất thân trong gia đình có mấy đời chuyên làm nghề nông.

 

Trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên lần thứ hai (1285), Phạm Ngũ Lão cùng Trần Quang Khải tiến đánh Chương Dương, Hàm Tử, đập tan đội binh thuyền lớn của giặc và diệt quân Nguyên chiếm đóng Thăng Long. Sau đó, ông phục kích đánh địch ở Vạn Kiếp, chặn đường rút chạy lên biên giới phía Bắc của chúng.

 

Trong kháng chiến chống quân Nguyên lần thứ ba (1287-1288), Phạm Ngũ Lão cùng các tướng bày trận phục kích đường rút lui của giặc trên sông Bạch Đằng, truy đuổi cánh quân của Thoát Hoan trên đường bộ.

 

Ngoài ra, Phạm Ngũ Lão còn ba lần cất quân đi trừng phạt quân Ai Lao, hai lần Nam chinh đánh thắng quân Chiêm Thành. Theo những tư liệu lịch sử còn lưu lại đến nay, suốt sự nghiệp cầm quân lừng lẫy của mình, Phạm Ngũ Lão chưa hề thất bại.

 

Ảnh minh họa quân dân nhà Trần với chiến thắng Bạch Đằng lần thứ 3 (1288).


Trần Nhật Duật - danh tướng toàn tài, nhà ngoại giao lỗi lạc


Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật (1255 - 1330) là con trai thứ sáu của vua Trần Thái Tông. Ông là danh tướng nổi tiếng nhà Trần với những công lao to lớn trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Mông - Nguyên lần thứ hai và thứ ba.

 

Trần Nhật Duật chính là người chỉ huy quân đội nhà Trần đánh tan đội quân của Toa Đô ở cửa Hàm Tử năm 1285. Sách "Đại Việt sử ký toàn thư" chép rằng: “Công đánh giặc Nguyên, Nhật Duật lập được nhiều hơn cả”.

 

Ông còn được sử sách ghi nhận là nhà ngoại giao xuất sắc của nhà Trần nhờ giỏi ngoại ngữ, biết nhiều thứ tiếng, phong tục tập quán của các nước lân bang. Trần Nhật Duật từng thu phục thủ lĩnh quân nổi loạn Trịnh Giác Mật ở Đà Giang, khiến sứ thần nhà Nguyên nể phục vì biết hết phong tục tập quán của họ.

 

Tài năng và công lao bao trùm triều chính nhưng Nhật Duật lại là người nhã nhặn, độ lượng, mừng giận không lộ ra sắc mặt. Trong việc nước, ông rất trung thực và thẳng thắn, xứng đáng là danh tướng văn võ toàn tài trong sử Việt.

 

Trần Quang Khải - danh tướng "cướp giáo giặc"


Trần Quang Khải (1241-1294) là nhà quân sự, ngoại giao, nhà thơ lớn của dân tộc. Ông từng nắm giữ những cương vị chủ chốt trong cuộc kháng chiến chống Mông - Nguyên lần thứ hai và thứ ba.

 

Sinh thời, ông từng được phong tước Chiêu Minh đại vương, Tướng quốc Thái úy, Thượng tướng Thái sư, nắm giữ quyền nội chính. Trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên lần thứ hai (1285) và thứ ba (1288), Trần Quang Khải là vị tướng chủ chốt thứ hai, chỉ sau Trần Quốc Tuấn, có nhiều công lao lớn trên chiến trường.

 

Thượng tướng Trần Quang Khải chính là chỉ huy tối cao trong trận đánh tan quân Nguyên ở Chương Dương và Thăng Long, khôi phục kinh thành vào cuối tháng 5/1285, được sử sách đánh giá "là chiến công to nhất lúc bấy giờ".

 

Trần Quang Khải còn là nhà ngoại giao tài giỏi, nhà thơ lớn của dân tộc với nhiều tác phẩm có giá trị cho nền văn học nước nhà.

_______________

Hà Sơn

Nguồn: https://news.zing.vn

NỀN TẢNG ĐẠO PHẬT VÀ HỌC THUYẾT TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC

 

Lời giới thiệu: Chúng tôi viết quyển sách này với mong muốn được trình bày theo cái hiểu và suy nghĩ của riêng mình. Kính mong rằng các bậc cao Tăng thạc đức niềm tình tha thứ nếu có chỗ nào sai xót. Chúng con hàng hậu học, vừa học, vừa tu vừa hướng dẫn lấy Kinh luật luận làm nền tảng. Trước tiên, chúng ta cần phải hiểu biết rõ ràng về Phật giáo và ứng dụng lời Phật dạy trong đời sống hằng ngày. Chuyển nghiệp là quá trình nỗ lực làm cho phàm tính trong con người trở thành Thánh tính của bậc hiền. Phàm phu chuyển hóa, lữ khách xoay đầu. Tuy nhiên chỗ này, ranh giới mê ngộ trong đường tơ kẻ tóc, phải thật là cẩn thận mới được. Chiếc chìa khóa vạn năng của việc này không gì khác hơn là sự quyết tâm đổi đời, làm mới lại chính mình với những chất liệu của bình yên, hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ. Mấu chốt của việc này nằm ở chỗ khởi phát lòng tự tin chính mình, quyết tâm nỗ lực làm mới để chuyển hóa những thói quen làm tổn hại cho người vật mà sống đời an vui, hạnh phúc.

Hiện nay, chúng ta đang sống trong thời đại văn minh vật chất dưới sự tiếp cận của khoa học hiện đại, do đó cần phải truyền bá Phật giáo thích hợp với căn cơ, trình độ của mọi người mà vẫn giữ được bản chất giác ngộ, giải thoát. Ở đây, chiêu thuật của nhà Thiền chỉ là “tâm cảnh như như”, vào được thì sống, không vào được thì chết. Tuy nhiên cũng phải mất mấy mươi năm tương chao mới có thể thốt ra được lời “à, thì ra là vậy” trước muôn ngàn ngỗn ngang của cuộc tồn sinh nhiễu nhương này.

Mục đích của đạo Phật là tìm ra lẽ thật của thân tâm và hoàn cảnh. Chúng ta phải nói ra những gì chân thật để mọi người hiểu đúng Phật giáo mà không còn nghi ngờ điều gì. Phá bỏ những tập tục mê tín của các truyền thuyết khác xen vào làm mờ tối đạo Phật là việc cần thiết tối quan trọng nhằm giúp mọi người tin sâu nhân quả theo nguyên lý duyên sinh, làm lành được hưởng phước, làm ác chịu khổ đau. Này cácthiện hữu tri thức! Không có gì là kết thúc, không có gì không thể làm được, miễn là ta không nản lòng, không thất vọng, hay bỏ cuộc nửa chừng. Với một quyết tâm cao độ, với ý chí sắt đá, với nhận thức làm mới, tôi tin chắc rằng, ta sẽ làm chủ được bản thân, làm chủ được vận mệnh của mình.

Bài kinh Chuyển Pháp Luân của đức Phật, giảng tại vườn Nai cho năm anh em Kiều Trần Như nghe, Bát Chính Đạo là nội dung chính Đức Phật muốn nói ra, khi Ngài đã lìa khỏi hai cực đoan. Đức Phật đã trải qua hai lối sống hưởng thụ lợi lạc, đam mê ái dục, danh lợi, quyền lực trong cung điện, và sáu năm tu khổ hạnh nhưng không tìm ra lối thoát. Ý nghĩa chính của con đường trung đạo là sự thức tỉnh và thấy biết đúng như thật của đức Phật qua hai kinh nghiệm từng trải trong đời, để rút ra một kết luận và khuyên nhủ mọi người đừng để bị rơi vào hai cực đoan ấy.

Thứ nhất là đắm mình trong dục lạc thế gian như tiền tài, sắc đẹp, danh vọng, ăn ngon, ngủ nhiều, dẫn đến nguy hại, là một điều chúng ta cần phải tránh xa. Tự hành hạ mình bằng các hình thức tu khổ hạnh, ép xác, dẫn đến thân đau khổ, tâm u mê, không sáng suốt, tác hại vô cùng là điều ta không bao giờ nên làm.

Đức Phật cho thấy, cuộc sống của chúng ta ít bao giờ được hoàn hảo với bất cứ một ai. Ai cũng có một nỗi khổ, niềm đau riêng, bởi bản chất của con người, ai cũng đều có khát vọng, mong muốn, tìm cầu hưởng thụ tiện nghi vật chất. Khi những chướng duyên, nghịch cảnh của xã hội làm cho con người phiền muộn, đau khổ, họ sẽ tìm về với gia đình, người thân, mong được an ủi, sẻ chia và nâng đỡ. Đức Phật có tầm nhìn và sự hiểu biết sâu rộng hơn, nhờ trải qua hai lối sống thái quá, nên Ngài biết cách tìm về con đường trung đạo, nhằm giúp bản thân hoàn thiện, cùng nâng đỡ, sẻ chia, để mọi người cùng đạt đến sự an lạc, hạnh phúc trong cuộc sống hiện tại.

Chánh kiến, chánh tư duy thuộc về trí tuệ. Chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng thuộc về giữ giới. Chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định thuộc về định lực.

Tám nguyên tắc hành động Bát Chánh Đạo không phải là một tiến trình sắp xếp theo thứ tự nhất định, như việc yếu tố này phải đứng trước yếu tố kia. Trên phương diện thiết lập để tu học, tám yếu tố này được chia ra làm ba nhóm:

Nhóm giới luật được liên kết nhau bởi chánh ngữ, chánh nghiệp và chánh mạng. Nhóm định lực được kết hợp hài hòa bởi chánh tin tấn, chánh niệm và chánh định. Nhóm trí tuệ được chiêm nghiệm và tu tập bởi chánh kiến và chánh tư duy.

Nói rộng ra là Bát Chánh Đạo, nói gọn lại là Giới-Định-Huệ. Do đó, trí tuệ là một phương tiện tu tập thiện xảo, hầu giúp mọi người thức tỉnh để mở mang tâm trí, và thấy biết đúng như thật. Bát Chánh Đạo là tám con đường ngay thẳng, hay là tám phương pháp nhiệm mầu mật thiết, luôn giúp người Phật tử đạt đến an lạc, hạnh phúc trong đời sống hằng ngày. Trong đạo Phật, Bát Chánh Đạo được xem như phương pháp số một, giúp chúng ta biết cách dứt trừ phiền muộn, khổ đau để đạt đến an vui, tự tại, giải thoát. Đây là sự hiểu biết thông suốt toàn diện về mọi mặt từ thân, tâm và mọi hiện tượng sự vật, giúp ta thức tỉnh để vượt thoát sự ràng buộc ra khỏi cái thấy biết sai lầm, tham lam, ích kỷ, oán giận, thù hằn, ngu si, mê muội thuộc chủ nghĩa cá nhân.

Đức Phật chỉ cho ta biết cách làm chủ bản thân, quay lại chính mình để chuyển hóa nỗi khổ, niềm đau thành an lạc, hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ. Vì thấy biết sai lầm mà ta phải chịu khuất phục bởi một đấng thần linh giả tạo, với niềm hy vọng mong mình được cứu rỗi, thoát khỏi bao cảnh lầm than, khổ sở mà chính mình đã tạo ra. Trí tuệ không phải là sự hiểu biết bình thường của tri thức? Mà là một sự thẩm thấu qua quá trình văn, tư, tu đúng phương pháp.

Phật dạy Tứ diệu đế là nền tảng sâu sắc của đạo Phật chân chính, mỗi hành giả phải thấm nhuần và thẩm thấu bốn nguyên lý chắc thật này:

Đây là đau khổ, tức khổ đế là một sự thật.

Đây là nguyên nhân sinh ra đau khổ, tức tham sân si mạn nghi, ác kiến là sự thật.

Đây là sự chấm dứt đau khổ tức là diệt đế hay còn gọi là Niết-bàn hoặc tâm Phật như như…. là sự thật.

Đây là con đường dẫn đến sự chấm dứt khổ đau hoàn toàn, đó là Bát chính đạo, nói gọn lại là giới định tuệ là một sự thật.

Kính ghi

Sa môn Thích Đạt Ma Phổ Giác


- LỜI PHẬT DẠY TRÁNH XA HAI CỰC ĐOAN

Thân và tâm là hai yếu tố quan trọng luôn liên hệ chặt chẽ, mật thiết với nhau trong một cơ thể con người. Nếu ta luôn tỉnh giác hằng ngày, ý thức ba việc thường chớ đủ là ăn mặc, ngủ; hay nói cho đúng hơn, ta phải muốn ít, biết đủ, chỉ ăn uống điều độ vừa đủ để nuôi thân, làm việc, vận động hợp lý, ngủ nghỉ cho có chừng mực, nên thân khỏe mạnh, tinh thần sáng suốt, nhờ vậy mình dễ dàng buông xả mọi dính mắc trong cuộc đời mà thành tựu đạo pháp.

Khi Phật còn tại thế, Ngài thường dạy các đệ tử. Này các Tỳ kheo, có hai cực đoan mà người xuất gia cần phải tránh xa:

-Một là đắm say các dục vọng, tham muốn thấp hèn, thô bỉ, có tính cách phàm phu tục tử, không dẫn đến đức hạnh Thánh nhân, không liên hệ đến mục đích tu tập, giác ngộ, giải thoát.

-Hai là tự mình ép xác, khổ hạnh quá mức, làm thân đau đớn, mệt mỏi, tâm không được thanh tịnh, sáng suốt, không xứng đáng là bậc hiền Thánh, không liên hệ đến mục đích tu tập, giác ngộ, giải thoát.

-Này các Tỳ kheo, ai tu theo đạo giác ngộ, giải thoát, cần phải có chánh trí, tránh xa hai cực đoan này, biết quay trở lại pháp tu trung đạo, làm cho thân tâm hài hòa để thành tựu đạo Vô Thượng Chánh Đẳng Giác.

-Này các Tỳ kheo, chúng ta hãy theo con đường Trung đạo do Như Lai tu tập, chứng ngộ, có khả năng chịu đựng sự khắc nghiệt trong mọi hoàn cảnh, có được tuệ giác thấu rõ mọi sự vật dẫn đến bình an, hạnh phúc, Niết Bàn và giải thoát.

-Này các Tỳ kheo, con đường Trung đạo, chính là 8 phương pháp nhiệm mầu, chánh đáng: Quan niệm chân chính, tư duy chân chính, lời nói chân chính, hành vi chân chính, nghề nghiệp chân chính, nỗ lực chân chính, ý niệm chân chính và thiền định chân chính. Đây là con đường trung đạo, do Như Lai thấy biết đúng như thật nhờ biết buông xả, nên phát sinh trí tuệ, đưa đến an lạc, hạnh phúc, thể nhập Niết Bàn, giải thoát.

Pháp thoại này Như Lai Thế Tôn nói khi đến vườn Nai để độ năm anh em Kiều Trần Như. Đức Phật khẳng định con đường trung đạo là con đường vượt lên trên hai cực đoan, hưởng thụ dục lạc và khổ hạnh ép xác.

Như vậy, sự hưởng thụ, đắm say theo các cảm xúc khoái lạc giác quan mà đa số nhiều người cho đó là hạnh phúc cao nhất trần đời, những tham vọng trần tục, hay lối tu chịu cực khổ quá mức, đều không phải là chánh đạo, không liên hệ đến mục đích giải thoát.

Hưởng thụ khoái lạc giác quan là lối sống của đức Phật khi còn là hoàng thái tử, Ngài đâu có thiếu thốn thứ gì. Tại sao Phật vẫn từ bỏ hết tất cả, để rồi cuối cùng Ngài được tất cả. Suốt 49 năm giáo hóa độ sinh, Phật chỉ có ba y một bình bát, sống đời rày đây mai đó, tùy bệnh cho thuốc, giúp đỡ mọi người không biết mệt mỏi nhàm chán.

Với lối tu khổ hạnh ép xác, Phật đã từng khổ hạnh như thế suốt sáu năm dài đăng đẳng; cuối cùng, thân thể kiệt quệ, dẫn đến ngất xỉu, may nhờ có cô thôn nữ chăn bò giúp cho bát sữa, nên Ngài hồi tỉnh và chiêm nghiệm lại sự tu tập trong những năm qua. Cuối cùng, Phật đã tìm ra con đường trung đạo. Đây cũng là kim chỉ nam tu tập cho tất cả những người con Phật, nhất là hàng xuất gia. Cả hai cực đoan đều thấp kém, hạ liệt, đắm say trong các dục và tự mình hành xác khổ đau, đều không dẫn đến an lạc, hạnh phúc và giải thoát.

Con đường hưởng thụ dục lạc thế gian như chúng ta đã biết, trong cái vui đó luôn đi đôi với mầm móng khổ đau, nhưng lại vô thường, tạm bợ, mong manh. Vì sao? Vì thương yêu mà xa lìa khổ, oán ghét gặp nhau khổ, mong cầu không được khổ và cuối cùng là chết khổ. Con đường khổ hạnh ép xác làm cho thân thể bại hoại, suy yếu, làm hành giả không đủ sáng suốt, minh mẫn, để hướng tâm vào mục đích giác ngộ, giải thoát.

Chính đức Phật đã trải qua hai lối sống đó, Ngài đã thật sự trải nghiệm trong tu tập chứ không phải lý thuyết suông do suy luận nghĩ bàn. Nhờ vậy, sau khi chứng ngộ, Phật đến vườn Nai để chỉ cho năm người bạn đồng tu khi xưa. Từ xa, năm người này thấy Phật đang đi đến, họ nói với nhau rằng, “Sa môn Cồ Đàm đã tu theo lối hưởng thụ rồi, chúng ta không nên tiếp”. Tuy đã thỏa thuận như thế, nhưng khi Phật đến, người thì lấy nước rửa chân, người thì mời ngồi và tất cả đều cung kính vái chào. Phật bảo: Này các thầy con đường trung đạo là xa lìa hai cực đoan, hưởng thụ và ép xác. Nhờ sự khai mở mà năm anh em đồng tu khi xưa chứng quả giác ngộ, giải thoát.

Như vậy, trong chừng mực nào đó, con đường trung đạo chính là con đường thiết lập lại quân bình, làm cho thân tâm được an ổn, hài hòa và biết cách hướng tâm về mục đích. Muốn được như vậy, ta phải có cái nhìn sáng suốt, nghĩa là muốn ít, biết đủ, ăn vừa đủ để nuôi cơ thể, nhờ vậy thân mạnh khỏe, tâm sáng suốt, nên dễ dàng tu tập để chuyển hóa nỗi khổ, niềm đau thành an lạc, hạnh phúc.

Trong bối cảnh ngày nay, con người văn minh, tiến bộ vượt bực, nền kinh tế xã hội phát triển vật chất dồi dào, nhờ đó mà chùa to Phật lớn được xây dựng theo kiến trúc hiện đại. Đời sống của người xuất gia được nâng cao với nhiều tiện nghi vật chất, phòng cao cửa kính, sang trọng, bề thế và nhiều nhu cầu xa hoa khác. Chúng ta có thể xem đó là lối sống trung đạo hay không? Thế cho nên, ta cần phải tìm hiểu lời Phật dạy cho rõ ràng, chín chắn, để biết cách áp dụng sao cho phù hợp với con đường trung đạo.

Quan trọng hơn hết, đức Phật đã dạy, tinh thần trung đạo của Ngài là thấy biết chân chính, tư duy chân chính, lời nói chân chính, hành vi chân chính, nghề nghiệp chân chính, nỗ lực chân chính, ý niệm chân chính và thiền định chân chính. Như vậy, khi ta tránh xa hai cực đoan chính là dẹp bớt những trở ngại có tính cách thái quá, sang trọng, vì nhiều tiện nghi vật chất quá thì khó tu. Nói chung, ta phải biết tùy thời, tuỳ duyên không nên quá cố chấp, để rơi vào trạng thái tham đắm, dính mắc, bằng cách muốn ít, biết đủ.

Cốt tủy của con đường này là thành tựu chánh kiến, thấu triệt được nguyên lý duyên khởi, vô thường, vô ngã, tất cả thân, tâm và cảnh đều do duyên hợp không thật có. Do đó, ta không chấp ngã, nên không chiếm hữu mà vượt thoát mọi sự ràng buộc của tham-sân-si, nhờ vậy không bị dính mắc vào cái ta và của ta, nên chứng ngộ Niết Bàn, giải thoát.

Ở cực đoan thứ nhất, lúc còn ở trong cung vàng điện ngọc, vợ đẹp con ngoan, Thái tử Sĩ Đạt Ta đã hưởng thụ đầy đủ mọi lạc thú trên trần đời này, với danh vọng, quyền uy tột đỉnh nhất trong thiên hạ. Với con mắt bình thường của chúng ta, ai cũng ước mơ và mong muốn để được tiền tài, sắc đẹp, danh vọng, ăn ngon, ngủ ấm, mặc sang, ở và làm việc được đầy đủ tiện nghi, vật chất.

Nhưng đối với Phật khi xưa, Ngài thấy những thứ đó là cạm bẫy cuộc đời, chôn vùi con người vào sự ràng buộc, bởi tham đắm, luyến ái vợ con, còn hơn gông cùm, ngục tối, vì khi hết hạn thì có ngày ra khỏi, còn hưởng thụ khoái lạc giác quan, luyến ái vợ con, coi như bị giam cầm mãi mãi từ đời này sang kiếp nọ không có ngày thôi dứt.

Ở cực đoan thứ nhất, đời sống lợi dưỡng và sự cám dỗ của ngũ dục như tiền tài, sắc đẹp, danh vọng, ăn ngon, ngủ nhiều, thường làm chúng ta bám víu, chấp vào tự ngã là ta và của ta, nên khởi lên tham muốn chiếm hữu về mình. Cho nên, con người càng trở nên nhu nhược, yếu đuối, thấp hèn hơn, và cuối cùng sẽ không có thời gian, cơ hội để tu tập mà thể nhập con người tâm linh sáng suốt.

Ở cực đoan thứ hai, Ngài cùng tu khổ hạnh ép xác với năm anh em kiều Trần Như ròng rã suốt sáu năm trường, đến độ thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, tinh thần u ám, tâm tư không được minh mẫn, sáng suốt, nên không tìm ra lối thoát.

Thân và tâm là hai yếu tố quan trọng luôn liên hệ chặt chẽ, mật thiết với nhau trong một cơ thể con người. Nếu ta luôn tỉnh giác hằng ngày, ý thức ba việc thường chớ đủ là ăn mặc, ngủ; hay nói cho đúng hơn, ta phải muốn ít, biết đủ, chỉ ăn uống điều độ vừa đủ để nuôi thân, làm việc, vận động hợp lý, ngủ nghỉ cho có chừng mực, nên thân khỏe mạnh, tinh thần sáng suốt, nhờ vậy mình dễ dàng buông xả mọi dính mắc trong cuộc đời mà thành tựu đạo pháp.

Nói tóm lại, đức Phật khi xưa đã trải qua hai cực đoan, hưởng thụ và hành xác, để rồi cuối cùng, dưới sự quyết tâm dũng mãnh của bản thân, Ngài đã vượt khỏi hai lối sống cực đoan mà thành tựu con đường trung đạo.

Bát chánh đạo là tám con đường tâm linh mầu nhiệm chân chính. Tám nguyên tắc mầu nhiệm ấy có liên hệ nhân quả rất mật thiết với nhau như sau:

1-Chánh kiến: là hiểu biết đúng đắn, hay thấy biết đúng như thật.

2-Chánh tư duy: Suy nghĩ, xem xét, chiêm nghiệm đúng.

3-Chánh ngữ: Nói lời chân thật, đúng lý lẽ.

4-Chánh nghiệp: Hành động chân chính.

5. Chánh mạng: Làm việc mưu sinh chân chính.

6-Chánh tinh tấn: Cần mẫn và nỗ lực chân chính.

7-Chánh niệm: Ý thức chân chính nhờ sự quán chiếu, soi rọi.

8-Chánh định: kiên định tập trung tâm tư vào con đường chân chính, không để bất cứ điều gì lay chuyển, làm thoái chí, phân tâm.

-TỨ DIỆU ĐẾ LÀ NỀN TẢNG ĐẠO PHẬT

Ngày xưa khi Phật còn tại thế, kinh luật luận được truyền tụng lại bằng miệng, sau này mới được ghi chép lại thành sách. Kinh thì có tam sao thất bổn do người sau thêm thắt vào, để kiểm chứng lại cho chính xác Kinh nào nói dựa trên bốn chân lý tứ diệu đế dựa trên nền tảng nhân quả đạo đức thì đó là Kinh Phật nguyên chất. Đây là một công thức siêu khoa học để xác định Kinh Phật giáo chân chính và Kinh ngụy tạo. Gọi là Kinh tức có Phật nói và đệ tử Phật nói, bây giờ thì các tổ nói cũng dựa trên nền tảng Tứ diệu đế, để triển khai rộng hơn. Bồ-tát Sĩ Đạt Ta từ khi ra đời đến khi xuất gia và thành đạo dưới cội Bồ-đề, thuyết giảng 49 năm hơn ba mươi ngàn quyển Kinh và an nhiên tự tại báo trước ba tháng trước khi nhập Niết-bàn đều nói đến bốn chân lý Tứ diệu đế. Thế cho nên, xưa và nay đã tốn biết bao giấy mực sách vở và những diễn đàn tranh luận để phân biệt Kinh luật luận chính tà mà tới giờ này cũng chưa có học thuyết nào làm sáng tỏ chân lý Phật-đà. Chúng tôi, kẻ hậu học theo suy nghĩ riêng của mình đưa ra phương pháp để xác định Kinh Phật nguyên chất và Kinh Phật đời sau thêm thắt vào để cho phù hợp với phong tục tập quán của nước đó. Phật dạy Tứ diệu đế:

Đây là đau khổ, tức khổ đế.

Đây là nguyên nhân sinh ra đau khổ, tức tham sân si mạn nghi, ác kiến.

Đây là sự chấm dứt đau khổ tức là diệt đế hay còn gọi là Niết-bàn.

Đây là con đường dẫn đến sự chấm dứt đau khổ, đó là Bát chính đạo.

1-Khổ đế: Khổ đế là sự thật rõ ràng, là chân lý chắc chắn cho thấy tất cả nỗi khổ đau của mọi chúng sinh trên trần thế này đều phải gánh chịu, như sinh sống là có khổ, đau ốm là khổ, già nua là khổ, chết là khổ v.v…Yêu thương xa lìa khổ, oán ghét gặp nhau khổ, mong cầu không được như ý khổ, thân tâm không hòa hợp khổ. Những nỗi khổ niềm đau ấy tràn ngập khắp thế gian. Chính vì vậy đức Phật thường ví cuộc đời như là một biển khổ mênh mông vô cùng tận.

2-Tập đế: Tập đế là chân lý chỉ rõ nguyên nhân nguồn gốc của thực trạng đau khổ của kiếp con người. Tập có nghĩa là nhóm lại, gộp lại, là sự huân tập lâu dài rồi trở thành thói quen thâm căn cố đế khó chừa bỏ. Con người và chúng sinh nói chung thấy khổ, biết khổ trong cuộc sống của mình, nhưng thực ra không biết được nguyên nhân sâu xa gây ra nỗi khổ niềm đau. Đức Phật đã chỉ rõ: do vô minh che lấp nên con người không nhận ra thực tướng của vạn vật mà cứ tham đắm chạy theo cái hư ảo nên tạo ra nghiệp. Đó là nguyên nhân dẫn đến đau khổ.

3-Diệt đế: Diệt đế là chân lý thực sự nói về về cảnh giới tốt đẹp mà chúng sinh đạt được khi đã diệt trừ những nỗi khổ cùng những nguyên nhân gây ra đau khổ và được giải thoát. Đó là sự chấm dứt khổ đau. Diệt tức là tịch diệt, nghĩa là không còn khổ đau trong luân hồi sống chết. Khi đó liền thể nhập trạng thái Niết-bàn (Hữu dư Niết bàn). Khi xả bỏ huyễn thân, thân tứ đại không còn (chết, tịch, tịch diệt nay nhập Niết-bàn), khi đó gọi là Vô dư Niết-bàn. Diệt đế còn được gọi là Niết-bàn.

4-Đạo đế: Đạo đế là con đường, là phương pháp hữu hiệu để diệt trừ đau khổ. Đó là chân lý, là thể nhập Niết-bàn, là trạng thái tâm hoàn toàn không còn khổ não. Hay nói khác đi, đó là những phương pháp đúng đắn đưa ta đến con đường diệt mọi đau khổ.

Khi Kinh Phật được phát triển lan rộng đến các nước thì tùy theo phong tục của nước đó mà Kinh Phật có sự thay đổi về ngôn ngữ và Kinh nào vẫn giữ được bản chất chân lý bốn sự thật Tứ diệu đế thì coi như kinh đó là Kinh sống đáng được mọi người tin và tu theo. Văn tư tu là ba dấu móc quan trọng trong cuộc đời của người tu, Kinh Phật chân chính đều dựa trên nền tảng nhân quả hãy tự mình thắp đuốc lên với ánh sáng trí tuệ của chính mình, thắp lên với chính pháp, ta là chủ nhân của bao điều họa phúc. Còn học thuyết nào chỉ cho con người hướng ra bên ngoài, cầu bên ngoài với tư tưởng ỷ lại và nhờ vả thì đó là Kinh ngụy tạo hư dối. Ngày hôm nay Tăng Ni cả nước gần 50.000 ngàn người, nhưng số thầy giảng Kinh thuyết pháp mở khóa tu chỉ đếm trên đầu ngón tay, đây là một thực trạng đau buồn, là nguyên nhân dẫn đến Phật giáo suy đồi bởi do nhiều thế lực chính trị đồng hóa. Các tu sĩ thực tu thực học thì ít, các tu sĩ mượn đạo tạo đời thì nhiều do ảnh hưởng nền văn hóa thực tại của đất nước Việt Nam. Một số người là cán bộ cấp cao sở văn hóa cấp Tỉnh, họ nói rằng xây chùa và phục hưng chùa để thờ cúng tính ngưỡng dân gian. Họ đồng hóa chức năng chùa với đền, miếu giống nhau, vậy mà họ vẫn nắm giữ các chức vụ cao trong nghành văn hóa cấp Tỉnh. Chùa được xây dựng để hướng dẫn đạo đức làm người, hướng dẫn chân lý sống đạo đức Phật giáo chân chính, mở các khóa tu để hướng dẫn cho Phật tử tại gia tu học, chứ không phải như nhiều người lầm tưởng đền, chùa, miếu, phủ giống nhau như một. Chúng ta cùng nghe bài pháp đầu tiên sau khi thành đạo dưới cội Bồ-đề đức Phật dạy 5 anh em Kiều Trần Như:

Chúng tôi xin dẫn bài kinh đầu tiên Chuyển Pháp Luân, đức Phật dạy năm vị Tỳ-kheo trước kia đã từng theo Ngài tu khổ hạnh. Đó là bài kinh nói về Tứ diệu đế. Đây là bài kinh hết sức cụ thể, thực tế, không có gì khó hiểu hay huyền hoặc.

-KINH CHUYỂN PHÁP LUÂN

Tôi nghe như vầy, sau khi thành đạo, lần đầu tiên Đức Thế Tôn chuyển bánh xe chánh pháp tại Vườn Nai. Tại đây, Ngài dạy năm vị Tỳ-kheo đầu tiên rằng:

Này các Tỳ-kheo, có hai cực đoan mà người xuất gia không nên làm theo. Những gì là hai. Một là đam mê say đắm các dục lạc thấp hèn, có tính cách thô bỉ, phàm tục, không dẫn đến phẩm hạnh cao quý thánh nhân, làm xa rời mục đích tu tập. Hai là tự làm khổ mình bằng các lối tu khổ hạnh ép xác, không thích hợp với các phẩm hạnh bậc thánh, không dẫn đến mục đích giác ngộ, giải thoát.

Này các Tỳ-kheo, các vị phải loại bỏ và tránh xa hai cực đoan vô ích này. Hãy đi theo con đường Trung Đạo do Như Lai chứng ngộ, có khả năng đem lại pháp nhãn và trí tuệ thấy biết đúng như thật, dẫn đến sự an tịnh, thánh trí, giác ngộ và Niết-bàn.

Này các Tỳ-kheo, đây là Thánh đế con đường Trung Đạo diệt khổ, chính là tám phương pháp nhiệm mầu: quan điểm chân chính, tư duy chân chính, lời nói chân chính, hành vi chân chính, nghề nghiệp chân chính, nỗ lực chân chính, ý niệm chân chính và thiền định chân chính.

Này các Tỳ-kheo, sau đây là bốn chân lý cao quý vi diệu của cuộc đời:

Chân lý thứ nhất là thực tại đau khổ. Sinh là khổ, già là khổ, bệnh là khổ, chết là khổ, thương yêu mà phải xa nhau là khổ, thù ghét mà phải gặp nhau là khổ, mong cầu mà không toại nguyện là khổ, chấp vào thân năm uẫn là khổ và cuối cùng là sầu bi khổ não.

Chân lý thứ hai là nguyên nhân dẫn đến đau khổ. Đó là phiền não nhiễm ô, là tâm dính mắc ái dục, là sự tham đắm và chấp thủ về cái ta, cái của ta, là dục ái, hữu ái và phi hữu ái.

Chân lý thứ ba là Niết-bàn, tức là sự trừ diệt hoàn toàn gốc rễ của khổ đau và những nguyên nhân dẫn đến đau khổ. Đó là sự không còn chấp trước bởi đam mê say đắm ham muốn, biết buông xả và dẫn đến giác ngộ, giải thoát.

Chân lý thứ tư là con đường dẫn đến Niết-bàn, đó là tám phương pháp tâm linh mầu nhiệm, là con đường Trung đạo.

Này các Tỳ-kheo, mỗi hành giả cần phải thấu hiểu về thực tại khổ đau. Đó là điều trước đây ta chưa từng được nghe biết, nay ta đã khám phá, có khả năng đem lại pháp nhãn và trí tuệ thấu rõ mọi sự vật.

Này các Tỳ-kheo, mỗi hành giả cần phải trừ diệt hoàn toàn gốc rễ dẫn đến khổ đau. Đó là điều trước đây ta chưa từng được nghe biết, nay ta đã khám phá, có khả năng đem lại pháp nhãn và trí tuệ thấu rõ mọi sự vật.

Này các Tỳ-kheo, mỗi hành giả cần phải tu tập trọn vẹn con đường dẫn đến Niết-bàn. Đó là điều trước đây ta chưa từng được nghe biết, nay ta đã khám phá, có khả năng đem lại pháp nhãn và trí tuệ thấu rõ mọi sự vật.

Như vậy, này các Tỳ-kheo chỉ khi nào tri kiến tuyệt đối như thực của Như Lai về bốn chân lý vi diệu của cuộc đời dưới ba sắc thái, gồm mười hai khía cạnh đã trở nên hoàn toàn sáng tỏ, thì khi ấy Như Lai mới xác nhận với thế gian, gồm chư thiên, ma vương, Phạm Thiên, giữa các đoàn thể Sa-môn, Bà-la-môn, giữa loài trời và loài người rằng Như Lai đã chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Tâm Như Lai đã giải thoát và an tịnh tuyệt đối, đời sống này là cuối cùng, Như Lai không còn bị luân hồi sinh tử nữa. (Bản dịch Hòa thượng Minh Châu)

”Khổ Đế là một sự thật, khi những đau khổ về vật chất và tinh thần bất kỳ ai từ khi bắt đầu nhận thức đã buộc phải trải qua ở các mức độ khác nhau. Khi chúng ta chưa được giải thoát hoàn toàn khỏi sự khổ, tam chuyển vẫn có ý nghĩa lớn trong việc làm giảm bớt nỗi đau thế gian, nếu mỗi người đều biết nhận diện, ôm ấp vỗ về và chuyển hóa nỗi đau của chính mình và người xung quanh. Bước đầu tiên phải là công nhận có sự đau khổ đó, chúng ta mới thể giúp mình và giúp người khác vượt qua nó.

Tập Đế là căn nguyên gây ra sự Khổ, là do “ tham ái”, những ham muốn của chúng ta, thường là vì ta bám vào chính ta. Dục ái thể hiện những tham muốn khoái lạc qua năm giác quan, ví dụ như là ở trong cái gì mắt thấy đẹp thì ưa, tai nghe âm thanh êm dịu thì say mê, mũi ngửi mùi thơm thì vui, ăn thì thích món ngon, xúc chạm thì muốn sự thoải mái. Hữu ái là bị phụ thuộc lôi kéo bởi “tôi là” và những thứ “tôi muốn, tôi có, tôi nhất định phải có”. Phi hữu ái là bị khó chịu vì những thứ “không phải là tôi” và “tôi không chấp nhận được”. Bám víu vào “luyến ái” làm ta khổ. Mức độ tham ái càng cao, thì con người chúng ta càng xa con đường trí tuệ và càng sa lầy vào vũng bùn đau khổ.

Diệt Đế là diệt bỏ những căn nguyên gây ra sự khổ, không tham ái, không chấp trước, không dính vào thân tâm và hoàn cảnh. Sự buông bỏ chấp trước, giúp chúng ta tu tập về quán sát canh giữ tâm mình, để có cái nhìn khách quan về bản thân và ngoại cảnh, và không bị những ý thích chủ quan che mờ lý trí, từ đó sinh ra tâm không phân biệt, khởi đầu của trí tuệ giải thoát. Ngoài ra cũng có một số Sa-môn, Bà-la-môn khác xuyên tạc đức Phật một cách hồ đồ, họ bảo rằng: “Sa-môn Gotama chủ trương chủ nghĩa Hư vô, đề cao đoạn diệt, nhằm tiêu diệt các loài hữu tình”. Để trả lời những người này, đức Phật giải thích: “Này các Bà-la-môn, Ta chỉ nói lên sự khổ và phương pháp diệt khổ. Do vậy, nếu có người hủy báng, nhục mạ làm cho Ta tức giận, thì ở đây Ta không tức giận. Trái lại, nếu có người tôn kính, tán thán Ta, thì ở đây Ta không hãnh diện. Vì sao vậy? Vì Ta nghĩ rằng: pháp này đã có từ nghìn xưa, và đây là những bổn phận mà Ta phải thực hiện.”

Đạo Đế chỉ ra con đường đưa đến Khổ diệt, hay còn gọi là Bát chánh đạo, bao gồm Chánh kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm và Chánh định.

-KHỔ ĐẾ LÀ MỘT SỰ THẬT?

Khổ là sự khó chịu, bất như ý, không toại nguyện, là trạng thái tâm lý trái ngược lại với vui vẻ, sung sướng, hạnh phúc, thoải mái, dễ chịu, hài lòng, lạc quan và thỏa mãn... Nỗi đau đớn, buồn phiền, lo lắng, sợ hãi, bất mãn, thất vọng, tuyệt vọng, đau nhức... đều được xem là khổ.

Chúng ta thường nghe nói "có thân là có bệnh", hay nói cho rõ ràng hơn "có thân phải khổ vì thân”, chính vì thế ta cũng đừng trách tại sao phải như thế, con người đều khốn khổ vì mang thân bệnh. Khổ vì thân" có hai loại chính: bệnh khổ và tai nạn khổ, còn vô số cái khổ khác cũng làm cho con người ta điên đảo từ chuyện nhức đầu, đau răng, cảm mạo cho đến những bệnh nan y do ảnh hưởng ô nhiễm của môi trường độc hại gây ra.

Như vậy, ai làm người cũng khổ vì thân hay bệnh khổ là điều tất yếu trên thế gian này. Nhưng, những cái khổ đó chưa quan trọng bằng cái khổ bởi vô minh trong nhiều đời gây ra, có nghĩa là không phân biệt được đúng sai, chánh tà, phải quấy, tốt xấu. Một người bình thường nhìn thấy người khiếm thị hoặc tật nguyền, họ nghĩ rằng nạn nhân chắc là thống khổ lắm, nếu nạn nhân đó bị bẩm sinh thì họ cũng có cảm giác bình thường như bao người bình thường khác về thân thể. Nếu người đang mù bổng nhiên được chữa trị, cặp mắt sáng lại thì họ có cảm giác sung sướng hơn người đang bình thường.

Chính vì vậy một người đang sáng mắt và một bệnh nhân được chữa lành mắt sáng, cảm thọ của hai người khác nhau, là do sự tác động tâm lý mà có. Nếu thân vật lý không bị tác động bởi trạng thái tâm lý thì cái gọi là khổ của thân vật chất chưa hẳn là thật khổ.

Cuộc sống của chúng ta có quá nhiều nỗi khổ niềm đau, luôn luôn bám víu vào thân phận con người. Khổ về bản thân như đau ốm bệnh tật, già nua. Khổ vì người thân trong gia đình bị mất mát chia lìa. Khổ vì vợ chồng không cảm thông và tha thứ cho nhau nên dẫn đến ly dị. Khổ vì con cái bụi đời nghiện ngập hút sách bê tha hư hỏng. Khổ vì phải làm việc nhọc nhằn, vất vả để lo cho gia đình người thân: Như lo ăn, lo uống, lo mặc, lo chỗ ăn ở, lo nghèo giàu đủ thứ…

Khổ vì hoàn cảnh như chiến tranh, thiên tai lũ lụt, hạn hán, mất mùa, dịch bệnh. Khổ vì thi rớt, vì thất tình, vì của cải bị phá sản, vì thua bài bạc bán hết gia tài, vì bị giựt hụi mất hết một số tiền lớn .v..v. Luận về những nỗi khổ ở đời, thì bất cứ ai cũng có những nỗi khổ niềm đau của riêng mình. Khổ được biểu hiện qua phần thân và tâm. Cơ thể đau nhức là nỗi khổ ở thân này, chẳng hạn như cảm giác đau đớn do bệnh tật hay tai nạn, và cảm thấy khó chịu do nóng lạnh, đói khát. Tâm đau khổ như bất mãn, phiền muộn, buồn rầu, lo lắng, sợ hãi, bất an bởi những thứ không được hài lòng vừa ý.

“Ai không biết tu sẽ vui ít khổ nhiều.

Thế gian có mấy người được hạnh phúc trọn vẹn”?

-KHỔ ĐẾ GỒM CÓ HAI LOẠI VẬT CHẤT VÀ TINH THẦN:

a-Khổ đau khi mới sinh ra: Phật giáo đã du nhập vào Việt Nam trên hai ngàn năm nay, hầu như đã thấm nhuần trong lòng dân tộc về lẽ thật hư của cuộc đời. Chính là nhờ Phật giáo nói đúng lẽ thật, phù hợp với tinh thần khoa học hiện nay, giúp cho con người có nhận thức sáng suốt và hiểu biết đúng như thật, cho nên Phật giáo rất thực tế, không phải huyền hoặc.

Nhất là những người lớn tuổi không tìm hiểu đúng chánh pháp, do ảnh hưởng quá nhiều các tín ngưỡng dân gian, chính vì vậy mà một số người cho rằng đạo Phật là bi quan, yếm thế, chán chường. Đó chính là những nguyên nhân khiến cho Phật pháp đi đến suy tàn. Nếu chúng ta cứ để cái đà này như thế mãi, các thế hệ phật tử về sau, chắc chắn sẽ tránh xa đạo Phật, vì thấy đạo Phật không còn thích hợp với thời đại mới, với nền khoa học hiện đại.

Bây giờ chúng ta sẽ tìm hiểu tám loại khổ qua cách nhìn của đạo Phật: sinh khổ, già khổ, bệnh khổ, chết khổ, yêu thương xa lìa khổ, mong cầu không như ý khổ, oán ghét gặp nhau khổ, thân này thịnh hay suy cũng đều khổ.

Khổ đế, chữ “đế” nghĩa là chắc thật, không sai chạy. Như vậy cái khổ Phật đưa ra là một lẽ thật, không ai chối cãi được. Khổ có mấy thứ? Đầu tiên là khổ về thân. Thân này có sinh, già, bệnh, chết, bốn thứ đó Phật nói là khổ. Có người chưa chịu sanh là khổ, vì lúc mới lọt lòng mẹ có biết gì đâu mà khổ. Nói không biết gì hơi quá đáng, không biết, vậy chớ ai khóc? Biết khóc tức là có cảm giác khổ. Trăm đứa bé lọt lòng mẹ đều khóc, chứng tỏ chúng có cảm thọ khổ. Đó là khổ khi sinh.

Như vậy đời sống của chúng ta thường gặp khổ nhiều hơn vui. Khi lọt lòng mẹ đã có cảm giác khổ, rồi trong cuộc sống kéo dài mấy mươi năm cũng khổ. Vì vậy Phật nói sinh khổ, chúng ta không thể chối cãi được? Thế nhưng nhiều người lại cứ tưởng như vui, đó là vui trong tưởng tượng thôi chớ không có thật. Vậy mà thiên hạ cứ bảo cuộc đời là hạnh phúc bởi vì nó có nhiều thú vui làm cho con người ta đam mê say đắm dính mắc vào đấy mà chịu muôn vàn sự khổ đau. Thực tế hạnh phúc thì quá ít, còn đau khổ thì quá nhiều. Đó là khổ thứ nhất, sinh khổ.

Là nỗi khổ trong sự sinh ra. Loài người khi ở trong thai đã có tình thức. Do có tình thức nên có sự cử động cảm xúc. Khi mẹ ăn thức lạnh vào cảm thấy như ở trong giá băng; lúc ăn thức nóng vào cảm thấy như bị nung đốt. Thai nhi sống trong chỗ chật hẹp, tối tăm và nhơ nhớp, vừa lọt lòng đã kêu khóc oa oa. Rồi từ đó khi lạnh, nóng, đói, khát, muỗi, kiến cắn đốt, chỉ biết kêu khóc mà thôi. Huệ nhãn của Phật thấy rõ những chi tiết ấy, nên Ngài mới xác quyết rằng sinh là khổ. Sinh khổ theo tuệ giác của Thế tôn có 5 loại:

– Thọ thai: Lúc thần thức gá vào thai mẹ, ở trong bụng mẹ chật chội và dơ bẩn chịu nhiều bó buộc.

– Chủng tử: Sau khi thần thức gá vào tinh trùng của cha và noãn cầu của mẹ, thân thể sẽ tùy theo hơi thở của mẹ mà tồn tại, không được tự do thoải mái bởi do nghiệp lực chiêu cảm.

– Tăng trưởng: Thần thức, thân thể ở trong bụng mẹ, tăng trưởng mỗi ngày, dưới ruột non, trên ruột già, nằm ở giữa như ở tù sống nhờ thức ăn, thức uống của mẹ và sự hô hấp mà thai nhi phát triển theo từng giai đoạn.

– Khi được sinh ra: Trải qua gần 10 tháng thân hình đã phát triển đầy đủ, đây là thời điểm người mẹ chuyển dạ để sinh thai nhi. Suốt thời gian dài nằm trong bụng mẹ, sự sống hoàn toàn nương vào mẹ, được mẹ nuôi dưỡng, nâng niu, che chở. Những khi thai nhi rời khỏi bụng mẹ, thân thể với da thịt non mềm của bé phải tiếp xúc môi trường mới với khí trời lạnh, nóng, gió, mưa, các vật dụng xúc chạm… sẽ cảm nhận đau buốt như bị châm chích. Bé đau nhưng chưa nói được mà chỉ biết khóc, vì thế chúng ta cần phải có thao tác nhẹ nhàng với em bé mới sinh ra.

– Chủng loại: Tức mỗi thai nhi đều có một hình tướng thân mạng nam hay nữ của mình trước khi được sinh ra bởi tướng mạo đầy đủ, xinh đẹp hay khiếm khuyết, xấu xí…

Con người khổ trong sự sinh sống. Người ta khổ từ khi còn là bào thai trong bụng mẹ. Con phải nằm trong bụng mẹ chật hẹp, cũng là khổ. Mẹ phải mang nặng đẻ đau biết bao khó nhọc, đó là khổ. Sinh con ra rồi thì cha mẹ cũng khổ vì phải lo lắng cưu mang và cho ăn uống để duy trì mạng sống. Con người sống trên đời phải mưu kế sinh nhai, làm việc nhọc nhằn, vất vả cho nên khổ.

Sự sinh sống của con người có hai phần khổ: Khổ trong lúc mới sinh ra và kế tiếp là khổ trong đời sống. Khổ trong lúc sinh. Người sinh và kẻ bị sinh đều khổ cả. Khi người mẹ mới có thai là đã bắt đầu biếng ăn, mất ngủ, nôn ọe, dã dượi, bất thần, mệt mỏi... Thai mỗi ngày mỗi lớn, thì người mẹ mỗi ngày mỗi thêm mệt mỏi, nặng nề, đi đứng khó khăn, làm lụng chậm chạp.

Đến khi gần sinh, sự đau đớn hành hạ xác thân người mẹ không sao nói xiết, chỉ có những người từng làm mẹ mới cảm thông cho nỗi đau này. Dầu được thuận thai đi nữa, mẹ cũng phải chịu sự dơ uế cả tháng trời, yếu đuối nhiều tháng, vì tinh huyết hao mòn, ngũ tạng suy kém, nếu không có cha mẹ hai bên chắm sóc thì lại càng khỗ não nhiều hơn. Còn rủi bị nghịch thai, thì mẹ phải bị mổ xẻ, đau đớn trăm bề. Có khi sau một lần sinh bị giải phẩu, mẹ phải chịu tật nguyền suốt cả cuộc đời.

Còn con, từ khi mới đầu thai cho đến lúc chào đời, cũng phải chịu nhiều điều khổ sở. Trải qua chín tháng mười ngày, con bị giam hãm trong khoảng tối tăm, chật hẹp, còn hơn cả lao tù ngục tối! Mẹ đói cơm, khát nước, thì con ở trong thai bào lỏng bỏng như bong bóng phập phều. Mẹ ăn no thì con bị ép như bồng bột bị đè dưới thớt cối, khó bề cựa quậy. Đến kỳ sinh sản, thân con phải chen qua chỗ chật hẹp như bị đá ép bốn bể, nên khi vừa thoát ra ngoài, liền cất tiếng khóc vang: "khổ a! Khổ a!".

-Khổ trong đời sống. Về phương diện vật chất hay tinh thần, đời sống đều có nhiều khổ sở. Về vật chất, con người đòi hỏi những nhu cầu thiết yếu như món ăn, thức uống, đồ mặc, nhà ở, thuốc men.

Để có được những nhu cầu cần thiết ấy, con người phải siêng năng làm việc vất vả nhọc nhằn, đổ mồi hôi, sôi nước mắt, mới mua được chén gạo, bát cơm, manh quần, tấm áo và các phương tiện sống khác. Về phương diện nhà ở, thì có những gia đình phải thuê phòng trọ ở tạm qua ngày, vì không có khả năng tạo dựng được một ngôi nhà nho nhỏ.

Cuộc sống của con người chẳng phải đợi đến cảnh đói khát mới gọi khổ, ăn uống thất thường, thiếu thốn đủ mọi thứ cũng đã là khổ rồi. Đâu phải chỉ có những người nghèo hèn thiếu thốn khó khăn mới khổ đâu? Người giàu có sang trọng cũng vẫn khổ như thường. Muốn có tiền bạc vật chất dồi dào, tất nhiên họ phải thức khuya dậy sớm, buôn tảo bán tần, đầu tắt mặt tối trong công việc, đổ mồ hôi, sôi nước mắt mới có được.

Về phương diện tinh thần, đời người cũng có nhiều điều khổ tâm, có nhiều khi còn đau khổ hơn cả những thiếu thốn vật chất. Tóm lại, về vật chất hay tinh thần, sự sống mang theo nhiều cái khổ. Sinh khổ là như thế bởi vì có nó sự tiếp nối theo quy luật nhân quả, nên đời người khổ là lẽ đương nhiên.

b- Khổ đau khi tuổi già

Sự khổ trong lúc tuổi già. Con người khi già yếu, mắt mờ, tai điếc, gối mỏi lưng còng, chân tay run rẫy, ăn không có cảm giác ngon miệng, ngủ không ngon giấc, trí nhớ giảm sút đáng kể, làn da khô nhăn, răng thường đau nhức, rụng bớt. Dù cho thanh niên cường tráng, hay thiếu nữ khỏe mạnh, theo thời gian rồi cũng phải đối đầu với cái tuổi già yếu này. Người tuổi già thường hay lú lẫn, đây là nỗi khổ niềm đau của người già.

Chúng ta hồi tưởng lại cuộc đời của đức Phật, có một lần đi ra khỏi cổng thành, thái tử thấy một người già ốm o gầy mòn, dung nhan tiều tụy, đi phải dùng gậy chống đỡ, vừa đi vừa thở hỗn hễn rất là đau khổ. Thái tử thấy cảnh người già như thế mới quán xét và chiêm nghiệm, rồi đây mình sẽ già nua, yếu ớt và cũng tàn tạ như vậy. Càng chiêm nghiệm, càng thấm thía sâu sắc, cảnh người già khốn khổ thái tử nghĩ ngay rồi mình cũng sẽ già khổ nên cảm thương họ nhiều hơn.

Chúng ta bây giờ thấy người già mà không biết soi xét lại chính mình để có sự cảm thông và thương tâm những người già nhiều hơn. Thấy người khác già thì chúng ta cũng sẽ già, từ đó ta có sự tôn trọng, kính mến, quan tâm giúp đỡ những người già nhiều hơn. Đồng thời chúng ta quyết tâm sống và tu tập, biết cách làm chủ bản thân để thoát khỏi sự chi phối khổ sở của tuổi già.

Phật dạy: sinh già bệnh chết khổ đó là một sự thật của kiếp người. Già là khổ. Vì sao già lại khổ? Hiểu biết nhận thức giảm sút, mắt mờ tai điếc, đi đứng lọng cọng, gối mõi lưng còng, ăn uống khó khăn…. già như vậy quả thật là khổ. Rồi sao nữa bệnh là khổ, quý vị nào có vào bệnh viện sẽ thấy từ em bé sơ sinh cho đến người già bệnh mà không đủ chỗ nằm thậm chí phải nằm ngoài hành lang. Người già lại thường chậm chạp, luống cuống trong mọi sinh hoạt hằng ngày khi ăn uống, lúc đi đại tiểu tiện… và thường làm nhớp nhơ. Con cháu dù thân thương đến đâu cũng sanh nhàm chán, bực bội, xa lánh, sao nhãng bổn phận. Chính những hành động, thái độ thiếu hiểu biết, vô trách nhiệm của con cháu đã khiến người tuổi già chịu nhiều đau khổ.

Chỉ có những người con chí hiếu, thì dù ở vào hoàn cảnh nào cũng thương yêu, kính quí, chăm sóc chu toàn cho ông bà, cha mẹ. Quả thật tuổi già thật đáng buồn tủi, khổ sầu nếu không biết tu sửa. Thời thanh niên cường tráng đã qua, thời già nua suy yếu đến, mạng sống con người cứ rút ngắn theo thời gian và cuối cùng thể xác đi dần đến hư hoại. Có những người lớn tuổi già yếu rồi, nhưng khi ngồi với nhau nói toàn những chuyện quá khứ hào hùng của mình thuở trước như để khoe hay, khoe giỏi cho nên khi con cháu không đáp ứng nhu cầu cần thiết thì cau có, giận dỗi buồn phiền. Nhiều người bây giờ đã già mà vẫn không chịu biết mình đang già, nếu khéo nhìn lại, thấy mình đã già yếu.

Bây giờ chỉ dốc tâm tu tập, kiếm chút ít tư lương, tích tạo phước đức để ngày ra đi được an ổn, nhẹ nhàng. Chúng ta dám nhìn thẳng vào sự thật là đã biết cách học theo hạnh giác ngộ của đức Phật. Lúc còn trai tráng, thái tử đang là một người có đầy đủ tất cả quyền uy, thế lực, văn võ song toàn. Vậy mà khi thấy người già thì liền biết mình rồi cũng sẽ già nua và yếu ốm như người kia. Thấy rõ cuộc đời không có gì đáng để gọi là vui cho nên Ngài quyết chí xuất trần. Nhìn nhận, chiêm nghiệm và thấu tột được như vậy là chúng ta đã biết học theo cái nhìn của bậc giác ngộ.

Trong thực tế khi con người khi già rồi, các căn đều suy yếu, mắt mờ, tai lãng, lưng mỏi, chân run, ăn thấy kém ngon, ngủ không an giấc, trí nhớ chẳng còn minh mẫn, làn da khô nhăn, răng lần lần đau nhức chuyển rụng. Lắm kẻ tuổi già lờ lẫn, khi ăn mặc, lúc đại tiểu tiện đều nhớp nhơ, con cháu dù thương tiếc giúp đỡ, nhưng lâu ngày rồi cũng sanh nhàm chán muốn bỏ bê. Xét ra cái già thật không có gì là vui thú nếu chúng ta không biết tu tập chuyển hóa thì càng già, càng khổ hơn.

c-Khổ đau khi bệnh tật

Là sự khổ đau trong cơn đau bệnh. Có thân là có bịnh, từ những loại bệnh nhẹ thuộc ngoại cảm, đến các chứng bịnh nặng thuộc nội thương. Trong cuộc thế, có rất nhiều người vướng phải những bệnh nan y như: ung thư, lao, cùi, tiểu đường, tai biến... Vướng vào những bệnh nan y, tự thân cảm thấy đau đớn, lại tốn kém, hoặc không có tiền chạy chữa lại càng khổ hơn. Sự khổ lụy không chỉ riêng mình, mà còn khiến cho gia đình người thân bị ảnh hưởng theo. Bệnh khổ có 2 loại:

Thân bệnh: Thân bệnh là tất cả những chứng bệnh con người mắc phải, gánh chịu. những chứng bệnh này đều do tứ đại không điều hòa mà phát sanh, như địa đại không điều hòa, thì thân thể nặng nề; phong đại không điều hòa, thì thân thể bị tê cứng; thủy đại không điều hòa, thì thân thể bị phù thũng; hỏa đại không điều hòa, thì thân thể bị nóng bức..
Tâm bệnh: Trong lòng luôn ôm ấp những tâm lý khổ não, buồn thảm, bi ai, lo lắng bất an, sợ hãi, cô đơn trong tuyệt vọng...

Rồi một lần khác thấy một người bệnh đang rên đau, thái tử nghĩ, hóa ra con người ta cũng có khi phải bệnh đau như vậy! Cùng là thân người như nhau, nhưng người kia đang bị bệnh thì có lúc mình cũng phải bị bệnh như mọi người. Đã bệnh thì phải đớn đau, khổ sở trăm bề không có gì là vui hết. Từ đó thái tử thấy được sự tạm bợ của thân người và sự sống này không có gì bền chắc, ý chí xuất trần trong thái tử được nung nấu mạnh mẽ hơn. Chúng ta thấy được như vậy thì không còn nhầm tưởng thấy mình khỏe mạnh mãi để sanh tâm ngã mạn, xem thường người khác. Đồng thời chúng ta sẽ cảm thông, thương yêu người bệnh và tìm cách để vượt lên, không bị bệnh hoạn khổ đau chi phối.

Từ đó chúng ta sẽ có sự thông cảm, thương yêu bệnh nhân, tôn trọng mọi người, không thờ ơ hay xem thường một ai. Chúng ta thấy người khác bệnh thì liền biết rồi mình cũng sẽ bệnh như mọi người. Người đó bệnh đau, lo sợ, hoang mang thì đến lúc chúng ta bệnh, cũng có những nỗi đau và tâm trạng giống như họ vậy thôi.

Thấy người khác bệnh, biết mình rồi cũng sẽ bệnh. Từ đó thấy rõ thân này mong manh, giả tạm, không chắc thật, nên ta không bám víu dính mắc. Khi chúng ta không bám víu thân này, cảnh sống này thì các mê lầm, khổ não, rắc rối khác sẽ không có ra. Đồng thời, chúng ta sẽ cảm thông, thương yêu, tôn trọng người bệnh, từ đó thiện căn được tăng trưởng và giảm sự chấp ngã về thân này.

d-Chết là nỗi khổ ai cũng sợ hãi

Thứ tư là chết khổ. Như chúng ta thấy người thân khi sắp lâm chung đau đớn quằn quại rất thống khổ. Đó là chưa kể thần thức hôn mê, người sắp chết thấy những cảnh họ đã làm lúc hiện tiện, lòng họ hoảng sợ, kêu gào than khóc, thật là thảm thương. Ai cũng tham sống sợ chết muốn sống dai, sống già, sống thọ cho nên nhiều người tìm cách để luyện trường sanh bất tử nhưng cuối cùng rồi ai cũng phải chết. Và chết là một sự thật không tha bất cứ một ai, dù là đức Phật cũng phải xả thọ mạng này khi hết duyên đời. Mình muốn sống hoài mà không được, cho nên nếu ai không biết tu, gần chết rất khổ sở vì không biết mình sẽ đi về đâu.

Mọi người đều muốn sống an vui, chết nhẹ nhàng, nhưng việc ấy rất khó toại nguyện, mà phần nhiều thân thể con người luôn bị bịnh khổ hành hạ đau đớn cho đến khi chết. Thân đã bị bệnh khổ như thế, tâm lại càng hãi hùng, lo sợ, tham tiếc tài sản của cải mình tạo ra, luyến tiếc vợ con trước khi nhắm mắt lìa đời nên lại càng khốn khổ hơn. Chết, quả thật là rất khổ nên ai cũng sợ. Chết khổ có 2 loại:

Cơn bệnh kéo lâu dài, mạng sống hết phải chết. Chết do duyên bên ngoài đưa đến bất đắc kỳ tử: Gặp chuyện không may bị người giết hại hoặc bị tai nạn mà chết, bị chết nước, lửa thiêu... vì chiến tranh loạn lạc mà chết. Khi đi ra bốn cửa thành, thái tử thấy một người chết. Thấy vậy, thái tử liền nhìn lại và nhận ra rằng, người ấy chết rồi đến lúc mình cũng sẽ chết. Càng thấy rõ sự tạm bợ của kiếp người, chí xuất trần của thái tử càng nung nấu mãnh liệt hơn. Mới ngày nào đây còn liệt liệt, oanh oanh, sao bây giờ chỉ còn lại một tấm thân tàn ma dại, nằm bất động, ai làm gì cũng không biết. Chúng ta bây giờ tận mắt chứng kiến cảnh người chết, chúng ta mới thấy tấm thân này quá mỏng manh, kiếp người quá ngắn ngủi, cõi đời thật phù du, giả tạm.

Nếu chúng ta thấy rõ được sự mong manh của kiếp sống con người, thấy được khoảng thời gian sống và chết kề cận một bên thì chúng ta sẽ tỉnh giác mạnh hơn, không bao giờ có sự tranh cãi nhau nữa. Tranh cãi, giận dữ là do người kia không tự làm chủ được chính họ. Chính khi đang giận dữ họ cũng rất khổ sở chứ không sung sướng gì. Mình là người tỉnh táo làm chủ được mới thấy rõ nên thông cảm và thương họ, tội nghiệp cho người ta. Thấy được như vậy thì chúng ta sẽ thương được người hại mình, không tạo nghiệp khổ đau.

Phật nói thân hiện tại của chúng ta đây, mang tính chất đau khổ từ lúc mới sinh, cho đến khi trưởng thành rồi già, bệnh, chết đều phải trải qua nhiều thống khổ. Đó là một lẽ thật. Mới nghe người ta thấy đạo Phật như bi quan, nhưng thực tế đạo Phật rất lạc quan và yêu đời. Đạo Phật nói rõ lẽ thật của cuộc đời, để cho mọi người không lầm lẫn, biết cách làm chủ bản thân trên những khổ vui đó.

Như một ai đó, đang gánh một gánh nặng suốt một chặng đường dài lâu quá cảm thấy mỏi mệt, đuối sức nếu lúc đó để gánh nặng xuống vui hay khổ? Chắc chắn là vui. Còn gánh nặng trên vai thì khổ, để xuống hết nặng là vui. Sau khi biết khổ rồi mới thấy vui, chớ cái vui ấy không ngoài sự khổ. Cũng chính vì thế, đạo Phật nói rõ nguyên nhân của sự khổ đau để chúng ta biết cách chuyển hóa tiêu trừ, khi đó khổ hết thì vui đến.

-BỐN NỖI KHỔ TINH THẦN

a-Yêu thương xa lìa khổ

Kế đến còn bốn thứ khổ về tâm nữa, tổng cộng vừa thân tâm là tám thứ. Nếu kể tiếp theo thì thứ năm là “yêu thương xa lìa khổ”: khổ do thương mến nhau mà phải bị mất mát, xa lìa. Trong cái tình yêu thương giữa vợ chồng, con cái, anh em đang mặn nồng, thắm thiết mà bị chia ly, thì thật không có gì đau đớn hơn. Sự chia ly có hai loại: sanh ly và tử biệt.

Sanh ly khổ: Một gia đình đang sống trong cảnh đàm ấm vui vầy, bỗng bì hoàn cảnh bắt buộc, hay vì một tai họa thình lình xảy ra như giặc giã, bão lụt, hỏa hoạn... làm cho kẻ ở đầu này trông đợi, người ở góc kia nhớ chờ. Thật đau lòng xót dạ tiếc thương!

Điều này trong hoàn cảnh chiến tranh loạn lạc, ta càng thấy rõ. Biết bao thanh niên xa gia đình người thân dấn thân nơi chiến trận chết chóc đau thương không ngày gặp mặt. Người ở nhớ thương, kẻ đi sầu khổ não nề ... Ái nhiều thì khổ nhiều, nếu không có ái thì khổ không thành. Khổ này gốc từ tham ái mà ra. Do khao khát, mong muốn được sống gần người mình thương yêu mà phải xa lìa cho nên khổ. Đó là cái khổ của "Sinh ly".

Chết vĩnh biệt khổ: Nhưng mặc dù xa cách nhau người sống còn có ngày gặp gỡ,chứ chết rồi bao thuở mới được vum vầy! Chính vì vậy, đứng trước cảnh chết chóc đau thương, kẻ ở người đi thương tiếc ngậm ngùi. Do đó, lâm phải cảnh tử biệt này, có người đã xót thương rầu rĩ đến quên ăn, bỏ ngủ, có người đau đớn, khổ sở cho đến tuyệt vọng muốn chết theo người quá cố.

Trong bốn hiện tượng của vô thường; sinh, già, bệnh, chết thì "chết" là cái làm cho mọi người lo lắng sợ hãi nhất. Những người không được may mắn nên bị bịnh nan y như ung thư, bịnh hủi, sida sống thêm một ngày là khổ thêm một ngày, thế mà những người bạc phước ấy cũng vẫn muốn sống đời mà thôi. Chúng ta thấy một người bệnh khi hấp hối bị hành hạ xác thân đau đớn trong khổ sở rồi mới biết cái chết là đáng sợ. Người sắp chết, mệt mỏi thở không ra hơi, méo miệng, uốn mình, giăng tay, bẻ chân... Chúng ta thử rờ vào người chết, thì thấy lạnh ngắt như đồng, thân thể cứng đơ như khúc gỗ.

Con người đang trong cảnh thương yêu mặn nồng, chẳng ai muốn xa lìa nhưng hoàn cảnh trớ trêu kẻ ở người đi trong nỗi nhớ niềm thương! Cái khổ phải biệt ly đối với hai người thương yêu nhau như thế nào, thì cái khổ phải hội ngộ đối với hai người ghét nhau cũng như thế ấy.

b-Oán ghét gặp nhau khổ

Thứ sáu là “oán ghét mà gặp nhau hoài cho nên khổ”. Ngược lại với mến thương là oán ghét. Người mình ghét mà cứ hiện diện trước mặt hoài, ta rất bực bội khó chịu, muốn họ đi đâu cho khuất mắt. Nhưng ngặt nỗi, trên đời này người mình thương thì cứ phải chịu xa lìa, còn kẻ mình ghét thường hay gặp gỡ. Cái khổ oán ghét này gốc từ sân hận mà ra. Do sân hận nên chúng ta rất khổ sở khi làm việc chung với người mà mình oán ghét.

Chưa nói đến trường hợp những người xa lạ, ngay trong gia đình bà con quyến thuộc, giữa vợ chồng, anh em, khi vì một lý do gì đó, sanh ra bất hòa với nhau, cũng đã khổ rồi. Muốn lánh mặt nhau, mà mỗi khi đi ra đi vào lại phải gặp nhau mãi! Quyết không nói chuyện với nhau, mà nhiều khi bắt buộc nín không được, phải nói ra với sự ngượng ngùng khó chịu.

Oán tắng hội khổ, tức là đối với những người mình không ưa thích hay ghét cay ghét đắng, muốn tránh cho khuất mắt mà không thể tránh được, vì phải làm việc và sống chung với nhau. Trong cuộc đời ai cũng có người mến thương ưa thích, nhưng cũng có người thù hằn ghét bỏ vì một lý do nào đó.

Ngược lại với thương yêu là sự thù hằn, ghét bỏ. Không có gì đau khổ bằng thù ghét mà gặp nhau hoài. Thương và ghét là hai vế đối nghịch nhau, đã thương thì không ghét, đã ghét thì không thương; nhưng vì ta hay ích kỷ, hẹp hòi, nên khi thương không được thì sinh ra thù hằn, ghét bỏ, và từ sự ganh ghét đó mà mình có thể hãm hại người kia bằng mọi cách. Thù ghét sẽ làm cho ta xấu xí, khổ đau hơn, vì tâm niệm ích kỷ, oán giận, hờn mát trong lòng, nên lúc nào cũng mong muốn người ấy bị hại, bị khổ, bị mất mát, bị đau thương, thậm chí còn muốn người đó mau chết đi càng sớm càng tốt. Khi ta thù ghét ai, trước tiên ta khổ trước, vì thái độ bực tức không bằng lòng với hiện tại. Người kia chưa khổ, nhưng ta đã tự tàn phá sắc đẹp của mình, thậm chí có khi ta không giằng được cơn nóng giận, nên đánh đập, hành hạ người thân, vì không biết cảm thông và tha thứ. Ta cứ muốn người kia như bản sao của mình, khác đi một chút thì mình không chịu, mình bám víu, chấp trước, thậm chí nhiều khi mình còn ngoan cố, ép buộc người kia phải làm theo. Ta bây giờ đâu phải như đứa trẻ khi còn tấm bé, ta đang lớn khôn và trưởng thành, nên khi mất mát hay bị tổn thất vấn đề nào đó, ta phải biết bình tĩnh để suy xét, nhận định. Nhờ vậy, mình không bị mê mờ bởi thói quen ích kỷ, hẹp hòi mà sinh ra thù ghét.

Thế giới con người do không có tình thương chân thật, nên lúc nào cũng oán giận, thù hằn, ghét bỏ nhau mà sinh ra chiến tranh, binh đao, tàn sát, giết hại lẫn nhau không thương tiếc. Có khi ta nhân danh đấng thần linh thượng đế để trừng phạt thiên hạ, tạo ra biết bao nỗi khổ niềm đau, làm tổn hại cho nhau. Vì ta thương yêu trong ích kỷ, hẹp hòi do không có hiểu biết, nên mình dễ dàng hành hạ, đánh đập người thân khi không làm chủ được cơn sân giận. Ai có tâm niệm thù ghét như thế sẽ không bao giờ tìm được sự an lạc nội tâm, vì trong lòng lúc nào cũng chất chứa bao phiền muộn đau khổ.

Khi ta thương yêu, quý trọng lẫn nhau một cách chân tình, tình thương đó có sự bù đắp lâu dài, nên mình tìm cách bảo vệ và gìn giữ chúng, đến khi cảm thấy bị người phụ bạc, ruồng bỏ, tìm đến người bạn khác, mình cảm thấy bơ vơ, lạc lỏng giữa chợ đời yêu thương, nên tiếc nuối, khóc lóc, hờn giận và cuối cùng dẫn đến thù hằn, ghét bỏ. Một khi ai đã ôm cảm xúc đó vào lòng, thì giống như một lưỡi dao bén đang từ từ cứa vào thân thể, làm ta thất vọng, đau khổ đến tột cùng. Ta không còn sáng suốt nữa mà điên cuồng trong vô vọng. Nếu đã dùng hết cách mà không chuyển hóa được cảm xúc thù ghét, ta phải biết rằng, mình đang rơi vào hố sâu của ngục tù tội lỗi.

Ai dại gì phải chịu như thế trong khi ta có trái tim biết yêu thương, hiểu biết, trái tim tha thứ, biết cảm thông. Ta chỉ nhớ, biết mình như thế thì bao nhiêu cảm xúc oán giận, thù hằn, ghét bỏ không có chỗ ẩn núp. Như ta đã biết, mình là chủ nhân của bao điều họa phúc, mình có trái tim hoàn hảo và đẹp nhất, tại sao phải tự trói buộc lấy nhau vì tâm niệm thù ghét đó, để làm cho gia đình, người thân, bè bạn không có cơ hội gần gũi, sống yêu thương nhau. Một khi đã thù ghét nhau rồi thì thế giới bao la sẽ trở thành một góc trời đen tối, nhỏ hẹp. Gặp một người mà ta hằng oán ghét bấy lâu nay muốn tránh xa mãi lại cũng không sao tránh được. Hoàn cảnh này nếu nằm trong gia đình người thân thì lại càng thống khổ hơn nữa.

Thương và ghét là hai điều kiện có thể làm cho con người khổ đau hay hạnh phúc, thương quá sinh nhớ nhung bi lụy cũng khổ, ghét quá mà ngày nào cũng gặp càng khổ hơn. Đúng ra ta rất khó thương một người chưa từng thương mình, có khi họ thù ghét mình và đã làm cho mình đau khổ. Thương yêu là bản chất của con người, nhưng đa số chỉ thương yêu trong sự ích kỷ, hẹp hòi và có điều kiện, nên không bao giờ có lòng khoan dung, độ lượng, cảm thông và tha thứ. Chính vì sự thương yêu hẹp hòi đó mà dẫn đến ghen tuông, ganh ghét rồi làm khổ cho nhau.

Ai nắm được chiếc chìa khóa của sự yêu thương và ghét bỏ nhờ biết tin sâu nhân quả, tin chính mình là chủ nhân của bao điều họa phúc, sống thành thật, biết sẻ chia và quý kính, tôn trọng lẫn nhau bằng tình người trong cuộc sống, thì thế gian này sẽ là thiên đường của hạnh phúc.

c-Mong cầu không được như ý khổ

Thứ bảy là “mong muốn mà không được như ý khổ”. Những gì mình muốn mà không được thì khổ. Ví dụ đi thi mong muốn được đậu, mà lỡ rớt thì sao? - Khổ quá. Ngoài việc thi cử ra, còn bao nhiêu thứ cầu mong khác nữa. Như trong công việc làm ăn, trong tình cảm… nhiều người muốn tự vận vì cầu mong mà không được toại nguyện. Con người khổ khi không được toại nguyện, như ý do tham muốn, khao khát quá đáng những nhu cầu cần có của bản thân. Chẳng hạn như lúc đói thì muốn có cái ăn cái mặc đầy đủ, lúc no lại muốn giàu sang phú quý có kẻ hầu người hạ.

Ngoài ra còn có những nỗi khổ trong cuộc sống. Ở đời nếu được những việc như ý thì người ta vui, không như ý thì buồn, buồn tức là khổ. Mỗi người chúng ta thử nhìn lại cuộc đời mình xem được nhiều điều như ý hay bất hạnh khổ đau? Người có diễm phúc thì điều bất như ý ít hơn, nhưng tất cả đều có gặp việc bất như ý. Đã bất như ý thì khổ hay vui? Đương nhiên là khổ. Con người chịu khổ khi phải tiếp xúc với những thứ mà không thích hoặc oán ghét. Người ta ở đời, hễ hy vọng càng nhiều thì thất vọng càng lắm. Bất luận trong một vấn đề gì, số người được toại nguyện thì quá hiếm hoi, mà kẻ bất như ý, thì không sao kể xiết. Muốn được kết quả tốt đẹp, người ta phải vận dụng không biết bao nhiêu năng lực, lao tâm, tổn trí, mất ăn, bỏ ngủ, chỉ mong sao cho chóng đến ngày thành công. Thế rồi, chẳng may những điều mong ước ấy không thành, sự đau khổ không biết đâu là bờ bến. Dưới đây, xin nêu lên vài thí dụ về những thất vọng mà người đời thường gặp nhiều nhất.

Thất vọng vì công danh: Trong đời, danh vọng thường là một miếng mồi ngon mà phần đông người đời ưa thích. Nhưng miếng mồi ấy, phải đâu dễ giành giật được? Không nói gì đến những kẻ nhảy dù, muốn làm quan tắt, nên phần nhiều hay thất bại, chỉ nói đến trường hợp những kẻ mong cầu danh vọng một cách chánh đáng, bằng năng lực, tài trí, học hỏi của mình. Đối với những hạng người này, cũng phải nếm bao mùi thất bại, cuối cùng mới được thành công.

Thất vọng vì phú quý: Số người thất vọng vì công danh đã nhiều. Nhưng số người thất vọng vì phú quý cũng không phải ít. Muốn cho mau giàu, nhiều người tìm mưu này chước nọ để lừa phỉnh người ta; nhưng rồi mưu gian chước lận đỗ bể ra, tài sản bị tịch thu, bản thân bị tù tội, gia quyến bị nhục nhã theo, thực là khổ!

Thất vọng vì tình duyên: Tình duyên cũng là một điều làm cho bao người phải điêu đứng, khổ sở. Trong trường tình ái, thử hỏi đã mấy ai được toại nguyện? Nhan nhãn trên báo chí hằng ngày, những câu chuyện tình duyên trắc trở đưa đến sự quyên sinh, thật không sao kể xiết. Đấy là "Cầu không được cho nên khổ".

d-Thân năm ấm không hòa hợp nhau khổ

Điều thứ tám là ngũ ấm xí thạnh khổ, tức sự khổ về năm ấm hưng thịnh. Năm ấm là: sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Sắc ấm thuộc về thân, bốn ấm kia thuộc về tâm hay còn gọi là phần tinh thần.

Điều thứ tám này bao quát bảy món khổ trước: thân thì sanh, già, bịnh, chết, đói, khát, nóng, lạnh, vất vả nhọc nhằn; tâm thì buồn giận, thương ghét, phải quấu, tốt xấu, đúng sai, trăm điều phiền lụy. Khổ do thân năm ấm này chung hợp lại. Vì sự chung hợp này được kết nối bởi các nhân duyên có khuynh hướng trái nghịch, bên trong luôn mâu thuẫn, chống trái nhau. Vì vậy mà khổ. Nhiều người còn trẻ nghe nói thân này khổ không tin, vì họ nghĩ đến tương lai hạnh phúc, làm sao khổ được? Có người nói rằng khi nào xúc chạm phải những điều trái ý mới khổ, nếu xúc chạm những điều như ý thì đâu có khổ.

Phật nói thân này là gốc của khổ. Tại sao? Tại vì thân này vô thường đổi thay nên rồi ai cũng sẽ già, bệnh và cuối cùng là chết. Quý Phật tử khi ba mươi tuổi ít ai nhớ rằng mình sẽ già chết, mà cứ nhớ hồi còn mười tám, hai mươi. Phật nói thân này biến hoại vô thường cho nên khổ, chớ không có cái vui lâu dài. Thật ra Phật dạy khổ không có nghĩa để chúng ta ôm ấp nỗi khổ đó suốt đời. Phật nói khổ để mình biết rõ nguyên nhân để tìm cách chuyển hóa nỗi khổ niềm đau thành an vui, hạnh phúc.

Khổ không phải tự dưng mà có, chính tập đế là những cội gốc của phiền não, là tập nhân tạo thành nên quả khổ. Cội gốc phiền não đó còn được gọi là căn bản phiền não. Có sáu thứ: tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến. Sáu thứ này là nhân tạo thành quả khổ cho con người. Nếu ai diệt hết sáu thứ đó sẽ hết quả khổ.

Cho đến ngã mạn tức thấy ta cao, ta quan trọng. Do thấy như thế nên khi sắp mất rất khổ. Bây giờ nếu thấy ta là hư giả, tạm bợ thì có phách lối với ai không, thân này sắp hoại có khổ không? Sở dĩ chúng ta khinh người là vì thấy mình cao quí quá, quan trọng quá. Bây giờ thấy mình là tạm bợ, giả dối thì đâu có gì quan trọng. Không trọng mình nên đâu có khinh người. Rõ ràng chỉ cần chúng ta có một chút trí tuệ thấy đúng như thật, thì khổ về sinh già bệnh chết từ từ sẽ giảm bớt.

Nếu lý giải bằng trí tuệ thì thật thân này không có gì quan trọng hết. Chẳng qua chỉ là một nhóm nhân duyên tụ hội lại chớ có gì đâu. Nhiều người thường vỗ ngực xưng tôi, nhưng hỏi cái gì là tôi thì trả lời không chạy. Nếu da thịt là tôi thì khi nó bệnh bác sĩ mổ bỏ đi, cái tôi đó thành gì? Chỉ cần da thịt có vết thương hôi thối, lúc đó mình quí hay muốn bỏ? Khi còn lành lặn ta thấy quí, khi nó hư hoại xem không ra gì, bỏ đi không chút thương tiếc. Rõ ràng cái ta không phải những gì mình đang mang đây.

Lúc nào mình cũng thấy cái ngã là quí là thật nên khổ vì nó. Nếu chúng ta biết cái ngã không thật, không quí thì bỏ nó một cách dễ dàng, không đau khổ tí nào hết. Còn ngã mạn vì thân là còn đau khổ, hết ngã mạn mới hết đau khổ. Đó là năm ấm xí thạnh khổ. Con người vì lòng ham muốn quá mức như giếng sâu không đáy, khi chưa được thì muốn cho bằng được, khi được rồi thì lại sanh nhàm chám muốn tìm thứ khác. Người biết tiết chế được lòng tham thì cuộc sống an nhàn và thảnh thơi không bị cuộc sống ràng buộc.

Từ nghiệp nhân ngu si mê muội, mà nhân loại đã tạo ra từ vô thủy kiếp đến nay nếu chúng ta không có duyên và may mắn gặp được thầy lành bạn tốt thì cuộc đời của ta có thể rơi vào ngõ cụt, đó là một sự thật. Do si mê, tham đắm chấp thân-tâm làm ngã, từ đó muốn chiếm hữu về mình nên suy nghĩ, hành động sai lầm, thấy có ta, người và muôn loài, muôn vật nên bám chấp vào đó. Ý là đầu dây mối nhợ của phiền não, nó thường hay suy tư, nghĩ ngợi nên gọi là ý nghĩ; nó hay nhớ nghĩ về quá khứ hoặc hiện tại gọi là ý niệm; nó hay tưởng tượng, mơ mộng hão huyền nên gọi là ý tưởng và nó có công năng phân biệt, hiểu biết nên gọi là ý thức.

Do phân biệt, hiểu biết sai lầm nên ý thức không rõ được thực tướng của các pháp là vô ngã, không chủ thể cố định, từ đó sinh ra thấy biết sai lầm mà chấp ta, người, chúng sinh. Sự bám víu vào “cái ta” rồi đến “cái của ta” như vợ ta, con ta, nhà ta, tài sản của ta, đất nước của ta. Dưới cái nhìn của người thế gian như thế đâu có gì sai quấy, thế gian này nếu không bám víu vào “cái ta” và “của ta” thì con người sẽ sống ra sao?

Thân này sinh già bệnh chết, mà chúng ta muốn nó không già bệnh chết làm sao được? Chúng ta thường xuyên quán chiếu về thân như thế và luôn sẵn sàng giúp đỡ mọi người khi có nhân duyên, nhờ vậy những tâm niệm tham sân si dần dần rơi rụng bớt theo thời gian cho đến khi, ý không còn suy nghĩ xấu nữa mà hay làm các điều thiện lành và không bám víu vào việc làm tốt đó, thì thành tựu viên mãn công hạnh Bồ tát.

-TẬP ĐẾ LÀ NGUYÊN NHÂN DẪN ĐẾN CÁC KHỔ ĐAU

Cái nguyên nhân chính là dục tức là lòng ham muốn không có giới hạn như biển sâu không đáy. Con người khổ vì ham muốn sống đời không chết nên cố luyện trường sanh bất tử, ham muốn chiếm đoạt, ham muốn khoái lạc về vật chất lẫn tinh thần, ham muốn tình cảm, nói tóm lại con người ham muốn đủ thứ hết dù phải rơi vào vòng tội lỗi. Tham, sân, si, mạn, nghi và ác kiến là những nguyên nhân dẫn đến khổ đau của kiếp người.

a-Tham muốn khác với mong muốn

Có hai loại muốn mà ai cũng có thể bị nó chi phối là tham muốn và mong muốn. Tham muốn là sao? Là nhất quyết muốn cho bằng được, nếu không được thì bất mãn, tức tối, khó chịu; phiền muộn, giận dỗi phát sinh và tìm cách chiếm đoạt. Do đó, tham muốn càng nhiều thì càng phát sinh các thứ phiền não vì tham muốn mà không được như ý, nếu được thì tham càng thêm tham, nếu tham không được thì sinh ra giận hờn, khó chịu rồi tìm cách trả thù.

Như chúng ta đã biết, ít ai trong cuộc đời này sống không tham muốn. Có sự sống là có tham muốn, nhưng tham muốn nhiều hay ít là tùy theo sở thích của mỗi người mà thôi. Tham có nghĩa là tham lam, ích kỷ, nhỏ mọn, làm cái gì cũng muốn đem về cho riêng mình, dù có của dư thà để mục nát chứ không dám đem ra giúp đỡ một ai. Mong muốn có nghĩa là mong cầu, ước mơ, nếu có cũng được, không có cũng không sao. Tham muốn và mong muốn khác nhau ở chỗ đó, một đàng muốn cho bằng được, nếu không được thì nổi giận, oán hờn, tìm cách trả đũa và quyết tâm chiếm đoạt cho mình nên bất chấp luân thường đạo lý, có khi cũng phải giết người để thỏa mãn lòng tham muốn. Trong cuộc sống này chúng ta có quyền ước mơ, mong muốn chớ đừng nên tham muốn quá đáng mà làm khổ đau cho nhau.

Khi tham muốn được rồi lại muốn nhiều thêm nữa, muốn mà không được thì sinh ra sân hận tìm cách trả thù. Con người khi thiếu thốn quá cho rằng đó là khổ, bởi thiếu thốn nên ta mong muốn có được đầy đủ, nhưng mong muốn mà không được như ý là khổ, được rồi lại mất càng khổ hơn, mọi đau khổ ở đời đều do nguyên nhân chính là dục. Thân xác chúng ta luôn luôn có những nhu cầu cần được thoả mãn như: ăn no, mặc ấm, ngủ nghỉ thoải mái, vui chơi giải trí nhà cao cửa rộng là những điều kiện mà ta cho là hạnh phúc, rồi đến các nhu cầu sinh hoạt khác như hưởng thụ khoái lạc, danh vọng, chức tước và quyền lực.

Vì cuộc sống này như vậy nên chúng ta không thể làm khác được, còn sự sống là còn có tham muốn, nhưng ta phải tham muốn thế nào cho phải lẽ. Ở đây Phật vì lòng từ bi chỉ cho ta biết thân-tâm này không thật ngã để mọi người bớt luyến ái, chấp trước mà làm khổ cho nhau. Thật ra, đã làm người khó có ai muốn ít biết đủ, chỉ một bề mong cầu được nhiều mà không bao giờ nhàm chán. Tham muốn càng nhiều thì tội lỗi càng phát sinh, càng gây ân oán, hận thù cho nhau không có ngày thôi dứt.

Do vô minh mà sinh ra vọng động. Do có vọng động mà sinh ra vọng thức. Do có vọng thức mà sinh ra phân biệt có đủ thứ ta, người, chúng sinh. Do có sự phân biệt ta người, mà sinh ra xúc chạm. Do có sự xúc chạm mà sinh ra cảm thọ. Do có cảm thọ mà sinh ra tham ái, luyến tiếc, và từ đó bám víu, dính mắc vào sự hiện hữu của nó, nên sống chết, khổ não, ưu sầu, buồn lo đủ thứ.

Chữ sân trong Hán cổ biểu hiện một môi trường sống, như khi con người cảm thấy không hài lòng, vừa ý, bực tức, xung đột, bất bình dẫn đến mâu thuẫn đối kháng, gây hận thù và làm khổ đau cho nhau. Sự tức giận của con người có nhiều cấp độ khác nhau, như nói lời mỉa mai, cay cú, hằn học, mắng chửi, giận dữ, quát tháo, hờn mát, oán thù, đánh đập, chửi bới, hù dọa, triệt tiêu và hủy diệt nhau.

Sân hận là âm Hán Việt, là từ ngữ chỉ chung cho loại phiền não có tính cách bốc lửa. Sân có nghĩa là nóng giận, mỗi khi có sự việc bất bình không được hài lòng, vừa ý là nó bộc phát mạnh ra bên ngoài. Hận có nghĩa là hờn mát âm ỉ sôi sục bên trong, nói cho đủ là giận hờn.

Một khi con người sân hận, cộng với giận hờn mà không đủ khả năng hóa giải, thì lâu ngày trở thành thù ghét, do đó lúc nào cũng muốn tìm cách trả thù hay rửa hận. Giận là lời nói tắt của từ nóng giận, hờn là từ nói tắt của chữ hờn mát, gọp chung lại là giận hờn.

Sân hận có nghĩa là giận hờn. Khi chúng ta giận hờn ai đó mà cứ ghìm mãi trong lòng thì lâu ngày trở nên thù hằn, ghét bỏ, âm ỉ tìm cách trả thù thích đáng, khi có cơ hội là ra tay liền. Giận hờn là một thói quen xấu có tính cách hại người, hại vật, dù nặng hay nhẹ thì chắc chắn cũng làm tổn hại đến những người xung quanh. Không phải ai khi đã thức tỉnh chỉ một lúc là các tập khí, thói quen xấu dứt trừ được hết. Kết quả còn tùy theo sự huân tập tật xấu nhiều hay ít của mỗi người.

Trong khi đó, Phật dạy thân này do bốn chất đất, nước, gió, lửa hòa hợp lại mà thành, nên không có gì là thực thể cố định cả. Cái được gọi là ta, là của ta, nó cũng không thật, ai chấp vào đó thì sinh ra luyến ái, bám víu mà lầm tưởng là thật ta, nên mới chấp ngã rồi từ đó sinh ra chiếm hữu, ai nghĩ và làm như vậy tức là người vô minh nên lúc nào cũng sống trong đau khổ lầm mê.

Ý thức được khổ đau do sự si mê chấp ngã gây ra, mà con người đành lòng nhẫn tâm giết hại lẫn nhau để bảo tồn cái thân vô thường bại hoại này. Chúng ta thử lắng dừng tâm tư một chút, để nhìn thấy rõ cuộc đời là một dòng trôi chảy biến thiên, không dừng hẳn ở một phút giây nào, không đứng mãi một vị trí nào.

Quan niệm cố giữ và chiếm hữu, là nguyên nhân của sự thấy biết sai lầm do sự si mê chấp ngã mà ra. Thân này rồi cũng phải già nua mà chúng ta muốn trẻ mãi không già, thân này bệnh hoạn đau nhức mà chúng ta muốn sống hoài không bệnh, thân này thở ra mà không còn thở vào thì coi như bị ngủm cù đeo mà chúng ta muốn sống hoài không chết. Một sự thật quá rõ ràng mà ít ai nhìn thấy, chúng ta thử quán chiếu cuộc đời này với những cái có hình tướng, coi nó có mãi trường tồn hay không.

Khi chúng ta mưu cầu tìm kiếm hạnh phúc cá nhân, tất nhiên ta phải đụng chạm đến nhiều người khác cũng đang tìm như ta vậy. Sự ham muốn quá đáng làm cho ta mù quáng, do đó chúng ta chỉ muốn hưởng thụ trên sự đau khổ của kẻ khác."Chiến thắng mười vạn quân còn dễ hơn chiến thắng lòng mình, chúng ta tự thắng được mình là chiến công oanh liệt nhất".

Tương lai của chúng ta luôn là sự kết tinh với hiện tại, ngay tại đây và bây giờ ta được bình yên, hạnh phúc thì tương lai cũng sẽ hưởng được nhân quả tốt. Khi rơi vào trạng thái khổ đau quá lớn, ta hay trách móc người thân yêu, để rồi gặm nhấm nỗi đau mà than thân trách phận chứ không tự tìm ra lối thoát. Ta tự chấp nhận mình là kẻ khổ đau nhất trên đời này, chứ không chịu cho ai kéo mình thoát khỏi vực thẳm đen tối ấy.

Khi còn nhỏ dại và không đủ nhận thức sáng suốt thì em bé dễ hờn dễ khóc, nhưng chỉ cần người khác vỗ về đôi chút là em bé trở lại trạng thái bình thường. Vậy nên ta muốn có ánh sáng bình minh, muốn vượt thoát cơn khổ đau tuyệt vọng thì ta phải làm mới lại chính mình, bằng cách làm chủ bản thân từ thân miệng ý. Cây khô mọc theo triền núi một khi đã sống rồi thì dù có phong ba bão táp cũng không thể làm nghiêng ngã được. Ta cần phải sống lại con người chân thật thuở ban đầu như trẻ thơ hồn nhiên suốt năm tháng khi còn nhỏ.

Chúng ta phải dám nhìn nhận sự thật mới thấy thân tâm này là vô thường tạm bợ nên bớt tham đắm luyến ái mà tạo ra nỗi khổ niềm đau cho mình và người. Chúng ta hãy thường xuyên quán chiếu như vậy nên thấy rõ mạng sống trong hơi thở là giảm bớt tham muốn quá đáng.

Vậy mà chúng ta cứ cắm đầu lo hết việc này đến việc khác, còn việc làm sao để gạn lọc thân tâm cho được trong sáng, tốt đẹp bớt tham sân si thì ta ít quan tâm tới. Phần nhiều Phật tử đi chùa học Phật, chỉ muốn tu để đời sau được sung sướng hơn, đẹp đẽ hơn, nhiều của cải vật chất hơn, chớ không muốn được giác ngộ, giải thoát hoàn toàn. Nhân quả báo ứng theo ta như bóng với hình, nổi khổ niềm đau sẽ theo ta từ đời này cho đến kiếp khác không có ngày thôi dứt, chính vì sự sống của mình mà chúng ta phải giết hại các loài vật.

Người tin theo truyền thống có ông trời tạo ra, cuộc đời của ta do trời sắp đặt, mọi sự thăng trầm nên hư thành bại đều do trời quyết định, con người không có khả năng và quyền lực gì cả, cuối cùng chấp nhận số phận đã an bài.

Học thuyết này chỉ phù hợp khi con người còn ăn lông ở lỗ, chưa có kiến thức nhận định đúng sai nên mới tin rằng có một đấng sáng tạo và con người bị điều hành, sai sử bởi đấng này. Ai tôn thờ và nương theo đấng quyền năng ấy thì có được cuộc sống tốt đẹp, hạnh phúc, còn ai không theo sẽ bị đọa đày, đau khổ. Con người chỉ có con đường duy nhất, theo thì nên, không theo thì hư. Vậy học thuyết đó có đúng hay không?

Ngày nay, nhờ sự tiến bộ của khoa học, con người dễ nhận ra nguyên lý sống của vũ trụ, tất cả mọi hiện tượng sự vật đều do nhiều yếu tố hợp lại mà thành, không có gì là do một nhân mà có thể tồn tại trên thế gian này. Thời xa xưa, những hiện tượng như mưa gió bão bùng, sấm sét long trời lở đất, người ta cho rằng, đó là do thần linh hay thượng đế muốn răn dạy con người bớt làm các việc xấu ác. Nếu có ai chẳng may là nạn nhân của các hiện tượng này thì họ phương tiện nói rằng, có đấng quyền năng tối cao trừng phạt người làm việc xấu ác. Từ đó, lâu ngày thành ra phong tục, tập quán, rồi người ta cứ chấp chặt vào đó mà lung lạc lòng người, họ quên đi những điều rất thực tiễn gieo nhân nào thì được quả nấy.

Thường thì con người thế gian lấy bản ngã làm tâm điểm, nhân danh đấng thần linh thượng đế, để tạo ra sự bất công và muốn chiếm hữu, nên đã gây ra nhiều tội lỗi cho muôn loài vật. Tất cả những điều này là do cái thấy biết sai lầm của một số người thế gian, họ lạm dụng sự thiếu hiểu biết của nhân sinh mà áp đặt số mệnh, để con người phải chấp nhận phục tùng một cách mù quáng như một tín đồ, mà không có quyền góp ý xây dựng trên tinh thần yêu thương, đùm bọc, giúp đỡ, sẻ chia, để cùng nhau sống với trái tim hiểu biết.

Từ cái thấy thân kiến là cái thấy sai lầm về thân, tức chấp vào sự hiện hữu của cơ thể con người là tôi, là của tôi, nên từ đó bắt đầu chiếm hữu. Ai đụng đến cái tôi này thì có sự phản kháng mãnh liệt, do đó dấy khởi phiền não tham sân si, mà dẫn đến tranh đấu giành phần thắng lợi về cho riêng mình để loại trừ lẫn nhau.

Quan niệm về thân kiến này sẽ trường tồn mãi mãi và chỉ có hai con đường để ta chọn lựa, một là lên thiên đàng hưởng phước báo tối cao, hai là xuống địa ngục chịu khổ đau lâu dài. Đó là cái thấy sai lầm do không có sự thể nghiệm thực tế, không có sự trải nghiệm bản thân, mà làm cho con người mất hết quyền làm chủ chính mình trong cuộc sống hiện tại.

Biên kiến là cái thấy một bên, nghĩa là có một linh hồn bất tử sống đời không thay đổi, tức là thường còn mãi mãi và quan niệm chết là hết, tức là không còn gì nữa, chỉ có một đời sống hiện tại mà thôi. Linh hồn bất tử là cái hồn sáng không bao giờ mất, nói như vậy có phù hợp với chân lý hay không?

Trên đời này có hai hạng người. Một hạng cho rằng, sau khi chết là hết, chỉ có một đời sống hiện tại, làm ác hay làm thiện gì cũng đều chung một số phận như thế. Đến khi nhắm mắt xuôi tay, từ giã cõi đời, thân thể trở về cát bụi và sự thấy nghe hay biết cũng không còn gì nữa, coi như hoàn toàn mất hẳn.

Hạng người thứ hai cho rằng có một linh hồn bất tử. Sau khi chết, thân thể tan rã, bại hoại, nhưng linh hồn vẫn còn mãi theo thời gian, nên người chết sinh người, trời chết sinh trời, thú vật chết sinh thú vật, trước sau như một không thể đổi thay. Vậy chết là hết hay sao? Làm gì có chuyện đó được! Nếu không hết thì làm sao mất hẳn? Chết không phải là hết, mà chỉ là thay hình, đổi dạng, để có một đời sống mới tiếp theo, tùy sự gieo tạo nghiệp nhân tốt hay xấu ngay nơi hiện tại mà cho ra kết quả ở tương lai. Nghiệp lực tuy không có hình tướng cụ thể, không ai có thể trông thấy được, nhưng nó có sức mạnh chi phối, cuốn hút, hấp dẫn lạ thường. Cũng như gió, tuy không thấy hình tướng ra sao mà nó có thể làm nên phong ba bão táp, cuốn trôi tất cả khi đủ nhân duyên. Nghiệp lực cũng lại như thế.

-DIỆT ĐẾ CHẤM DỨT MỌI KHỔ NÃO

Diệt đế tức là tiêu diệt, trừ diệt dục vọng lòng tham muốn quá đáng. Đế có nghĩa là lý lẽ chắc thật, đúng đắn do trí tuệ sáng suốt soi thấu một cách rõ ràng không có mờ mịt, trừu tượng, ảo tưởng bằng ý thức. Diệt Đế không phải là một cảnh giới siêu hình như các nhà học giả thường lầm tưởng, khi một người đã đoạn diệt lòng tham muốn và các ác pháp thì người đó sẽ thể nhập Niết Bàn, chứ không phải tìm cầu đâu xa.

Diệt đế là trạng thái tâm đã hoàn toàn lắng trong không còn chút bợn nhơ, trong trạng thái này con người làm chủ sống chết an nhiên tự tại trong mỗi hoàn cảnh. Đức Phật gọi Diệt Đế là một trạng thái tâm lý thật sự không còn khổ NÃO của kiếp người. Niết-bàn có nghĩa là vô sinh. Thế cho nên, Diệt đế là Niết-bàn, là cảnh giới không còn đau khổ luân hồi sống chết. Diệt đế là cuộc sống toàn thiện, chân thiện, thánh thiện. Diệt đế là cuộc sống độc cư trọn vẹn nhưng vẫn làm lợi ích cho cuộc đời mà không toan tính. Diệt đế không phải là cảnh giới siêu hình để người tu hành chết được sinh vào đó. Diệt đế không phải là cảnh giới mơ hồ, trìu tượng, tưởng tượng hão huyền do sự tưởng tượng mà ra. Diệt đế là trạng thái chấm dứt khỗ não hoàn toàn.

Danh từ để chỉ Niết-bàn hay Diệt đế, có khi gọi là Phật tính, Chân như, Bản thể, Bản lai diện mục, Ông chủ. Thế cho nên, Niết bàn không phải là cảnh giới đến được mà là trạng thái tâm thường biết rõ ràng nói không thể đến. Khi chúng ta dừng tất cả mọi tham muốn lo âu, sợ hãi, giận hờn, ganh tỵ, tật đố đam mê thì ngay đó chính là Niết-bàn.

-BÁT CHÁNH ĐẠO CON ĐƯỜNG DIỆT KHỔ HOÀN TOÀN

Trong cuộc sống, nếu ta biết xem xét, chiêm nghiệm và áp dụng tám nguyên tắc trên trong mọi hoàn cảnh, ta sẽ thấy rõ ràng sự liên hệ nhân quả mật thiết, tương quan giữa những nguyên tắc ấy. Chúng ta hãy xem xét cho tường tận nguyên tắc thứ nhất là hiểu biết chân chính, tức là sự thấy biết đúng như thật, thì hành động mới tốt đẹp, không làm tổn hại cho ai. Do đó, chánh kiến là rất cần thiết trong việc chọn lựa nghề nghiệp. Nhưng ta phải làm thế nào để thấy biết đúng?

Chi thứ nhất trong Bát Chánh Đạo là chánh kiến, có nghĩa là sở kiến, kiến giải, ý kiến, quan điểm. Chánh kiến ở đây không phải là sự thấy đơn thuần như mắt nhìn thấy các hình ảnh sự vật, mà phải là cái thấy đúng như thật, có nghĩa là thật biết thật, giả biết giả. Người có chánh kiến luôn luôn lúc nào cũng biết phân biệt và kiểm soát chặt chẽ các mặt hoạt động của thân và tâm, như suy nghĩ chân chính về lời nói, việc làm, mạng sống và sự nỗ lực tinh tấn, để đạt được chánh niệm nhờ có định lực sâu dày.

Hiểu biết chân chính là cái nhìn mọi hiện tượng, sự vật dưới nguyên lý duyên khởi, vô thường và vô ngã, tức không có chủ thể cố định, không có nguyên nhân đầu tiên của thế giới, không có thượng đế ban phước giáng họa, tất cả đều biến thiên, thay đổi, không thực thể.

Nếu sự tu tập đó được bắt nguồn từ chánh kiến, chánh tư duy, thì ắt hẳn chúng ta sẽ có lời nói chân chánh, không nói lời giả dối để lường gạt người. Ngược lại, nếu như không có chánh kiến mà là tà kiến, sẽ dẫn đến suy nghĩ bất chính và làm những việc xấu ác, cuối cùng sẽ gặt lấy quả phiền muộn, khổ đau. Theo lời Phật dạy, sự thấy biết đúng như thật không phải do sự học hỏi trong sách vở hay suy tư, phân tích bằng trí thức. Sự thấy biết đúng như thật là kết quả của sự trải nghiệm, và nhờ vào sự chứng ngộ của bản thân do tu tập đúng pháp.

Muốn thành tựu con đường trung đạo, ta phải biết áp dụng Bát Chánh Đạo, như sự liên hệ tương quan, tương duyên mật thiết với nhau, bồi đắp cho nhau, mà không thể thiếu nhau. Tám nguyên tắc hành động này lúc nào cũng làm nhân và quả để hỗ trợ cho nhau, nếu mất một chi thì không thành tựu con đường trung đạo.

Thế nào là chánh kiến? Phật nói, khi ta hiểu lý nhân quả, không còn nghi ngờ, tức là chánh kiến; tức là thấy biết tất cả mọi hành động lành hay dữ, sẽ cho ra kết quả tốt hay xấu của mình. Đời trước, chúng ta có khi làm lành, có khi làm dữ, nên thân này có khi được vui vẻ, hạnh phúc, có lúc bị phiền muộn, khổ đau. Khi ta đã biết thân tổng báo này chịu ảnh hưởng nhân quả, nghiệp báo đời quá khứ, nên hiện tại mình phải nỗ lực tu hạnh lành, để chuyển hóa và thay đổi những nghiệp xấu ác trước nhẹ bớt. Ai thấy biết như thế là chánh kiến.

Chánh là ngay thẳng, đúng đắn. Kiến là nhận thấy, nhận biết. Nói cho đầy đủ, chánh kiến là thấy, nghe, hay, biết một cách đúng đắn, công minh, đúng với sự thật khách quan, mọi sự vật, hiện tượng như thế nào thì thấy rõ như thế đó. Người có chánh kiến lúc nào cũng thấy đúng chân lý, thật biết thật, giả biết giả, không thấy trắng thành đen, không thấy tốt thành xấu, thấy rõ ràng như vậy, tuy không phân biệt mà vẫn thường biết rõ ràng. Chánh tư duy là chi thứ hai trong Bát Chánh Đạo, có nghĩa là suy nghĩ, nghiệm xét, suy tư, bằng sự ý thức của mình.

Chánh tư duy là sự suy nghĩ hợp lý. Suy nghĩ hợp lý có nghĩa là, tất cả mọi hiện tượng sự vật như thế nào thì chúng ta suy nghĩ như thế ấy, tức là suy nghĩ của mình và thực tế cuộc sống phù hợp nhau. Chánh tư duy là suy nghĩ chân chính, đúng với lẽ phải, do có nghiệm xét, có nghĩa là suy tư phù hợp với nguyên lý duyên khởi, vô thường, vô ngã, như việc mình muốn có một cái nhìn chính xác về tình trạng xã hội hiện giờ đang tiến bộ hay bị tha hóa về mặt đạo đức tâm linh. Chánh tư duy là sự suy nghĩ chân chính. Muốn vậy ta phải xem xét, soi rọi, quán chiếu, chiêm nghiệm, không trái với sự thật mà vẫn phù hợp chân lý và đem áp dụng vào trong đời sống hằng ngày có lợi ích thiết thực cho mình và người khác. Chúng ta thường suy tư, quán chiếu tại sao con người phải chịu nhiều phiền muộn, đau khổ, bất hạnh trong đời, nguyên nhân vì sao? Nhờ thường xuyên suy nghiệm như vậy, ta biết do chấp ngã là ta, là của ta, nên muốn chiếm hữu và tham-sân-si từ đó phát sinh, làm cho người khác phiền muộn, khổ đau. Nhờ có chánh tư duy, ta mới sáng suốt, biết phân biệt những điều hay lẽ phải trong cuộc đời.

Đây là chi thứ 3 trong giáo lý Bát Chánh Đạo, được gọi là chánh ngữ, hay lời nói chân chính, đúng đắn. Lời nói chân chính bao gồm nhiều khía cạnh như nói lời thành thật, không nói lời giả dối nhằm mục đích để lường gạt mọi người; không nói lời nặng nề, thô lỗ, chát chúa, móc méo, mắng chửi làm người oán giận, thù hằn, mà sinh ra phiền muộn, khổ đau; không nói lời gây chia rẽ làm hai bên hiểu lầm nhau mà ganh ghét, tạo ra oan gia trái chủ, chống đối lẫn nhau; không nói lời mê hoặc để dụ dỗ người khác, không nói tán dóc đầu trên xóm dưới, và những điều không có lợi cho cộng đồng xã hội. Tuy nhiên, cuộc sống của chúng ta cùng sự diễn biến của xã hội con người rất phức tạp và nhiều mâu thuẫn, nên mình cần phải ăn nói thận trọng, nên nói và làm tương ưng với mục đích mình đang đeo đuổi.

Thế cho nên, dân gian có câu, “học nói ba năm, nhưng thực hành cả đời chưa chắc đã xong”. Ai hoàn thiện được lời nói chân chính, Phật giáo gọi là chánh ngữ. Lời nói chân chính bao hàm nhiều khía cạnh; Khi chúng ta muốn phát biểu một vấn đề gì, ta cần phải cân nhắc vào vấn đề cần nói, coi lúc này đã hợp thời chưa. Khi nói, ta cần phải xem xét lại vấn đề mình muốn nói đó có đúng với sự thật hay không, nếu chưa biết chính xác thì không nên nói. Có hai cách thể hiện lời nói của mình là, chúng ta nên dùng cách nào cho phù hợp, nên cứng rắn, mạnh mẽ, hay khéo léo, uyển chuyển, nhẹ nhàng. Trước khi muốn phát biểu lời nói nào, ta cần phải cân nhắc xem lời nói ấy có lợi ích, hay ảnh hưởng không tốt trong hiện tại và mai sau hay không. Có hai cách thể hiện lòng mình qua lời nói, ta nói với lòng từ bi, thương xót, hay vì lòng ganh ghét, oán giận, thù hằn.

Nói lời thành thật là người sống có nhân cách đạo đức, là chất liệu của sự yêu thương chân thành, thuốc đắng dã tật, lời thật mất lòng, nhưng giúp ta có cơ hội sửa sai và chuyển hóa được lỗi lầm. Ngược lại, lời nói êm tai, ru ngủ rất được lòng người, nhưng đó là lời giả dối, nịnh bợ, ta gọi đó là ngọt mật chết ruồi, dễ làm hại người. Để đạt được những tình cảm qua lời ăn tiếng nói, thể hiện sự thành thật, chân tình, ta cần phải kiềm chế các cảm xúc tiêu cực như nóng nảy, giận dữ, để được sống vui vẻ, hài hòa với người thân yêu.

Ta không nên nói lời giả dối để lường gạt hoặc hại người, mà cần nói lời thành thật với nhau bằng trái tim yêu thương, hiểu biết. Để cuộc sống ngày càng thăng hoa tâm linh, ta cần phải biết chọn lời hay ý đẹp mà nói, nói lẽ phải, tôn trọng sự thật. Sống trung thực giúp ta nâng cao phẩm chất đạo đức, làm lành mạnh các mối quan hệ gia đình, nên xã hội được tốt đẹp.

Có những lời nói thốt ra làm cho tan nhà nát cửa, mất nước, hại dân, nhưng cũng có những lời nói làm chúng ta biết sống yêu thương bằng trái tim hiểu biết. Chính vì vậy, ta cần phải có chánh kiến, và biết tư duy để soi xét mọi sự vật để thấy đúng như thật. Cho nên, ta chuyện không nói không, chuyện có nói có, không nói dốc láo, nói lời bịa đặt, nói lời móc họng, nói lời hằn học, mắng chửi, không nói lời dụ dỗ, nói xấu sau lưng, làm cho mọi người nghi kỵ, thù địch nhau.

Chánh ngữ là lời nói hợp với chánh pháp, có lợi ích, đem lại an vui, hạnh phúc, bình yên cho nhiều người. Ta phải cẩn thận giữ gìn lời nói, nói lời chân thật, không nên nói lời vô nghĩa. Trong kinh Phật dạy, “nói một lời đúng chánh pháp giúp cho người nghe cảm thấy an ổn, nhẹ nhàng, hơn là nói tràng giang đại hải mà không có lợi ích gì cho ai”.

Người biết nói lời chân chính luôn luôn thận trọng, dè dặt khẩu nghiệp, không bao giờ nói sai sự thật, không xuyên tạc, không thiên vị, không nói lời dụ dỗ, không nói lời hằn học, mắng chửi, không nói lời vu oan giá họa. Lời nói chân chính luôn giúp mọi người sống an vui, hạnh phúc, ngược lại là lời nói làm tan vỡ hạnh phúc gia đình người khác, đó là lời nói thêm bớt, thêm mắm thêm muối, thay trắng đổi đen, làm sự việc trở nên căng thẳng, làm mọi người hiểu lầm nhau mà gây ra oán giận, thù hằn.

Chi thứ 4 trong bát chánh đạo là chánh nghiệp, hay còn gọi là nghề nghiệp chân chính. Trong đó, bao gồm các thứ như nghề nghiệp, sự nghiệp, gia nghiệp, chức nghiệp, thương nghiệp, nghiệp vụ. Nói một cách dễ hiểu là nghề nghiệp, hay phương cách làm ra tiền để nuôi sống bản thân và gia đình. Có khá nhiều cách để kiếm tiền sinh sống, nhưng ở đây, Phật giáo muốn đề cập đến những nghề nghiệp chính đáng, hợp pháp, không làm tổn hại cho người và vật, nghề đó được gọi là nghề nghiệp chân chính.

Chánh nghiệp là việc làm chân chính, đúng đắn, phù hợp với lẽ phải, đúng với chân lý; ở đây cũng có nghĩa là việc làm phù hợp nguyên lý duyên sinh, nên lúc nào cũng được lợi ích cho mình và người. Ai biết thận trọng, giữ gìn mọi hành động thuận theo lý duyên sinh, chắc chắn sẽ đem lại kết quả tốt, không làm tổn hại đến quyền lợi, hạnh phúc của người khác.

Nghề nghiệp chân chính là những nghề nghiệp nuôi mạng sống con người như làm ruộng, trồng hoa màu, các loại cây ăn trái, làm ra thức uống tinh khiết, nghề giáo dục, bác sĩ, bác học, khoa học, tâm linh. Ngược lại, dối trá, lừa đảo bằng nhiều hình thức để mưu cầu lợi ích cá nhân, mặc kệ sự tác hại của nó về lâu, về dài, là những nghề nghiệp làm tổn hại cho nhân loạị.

Chánh mạng là chi thứ 5 trong giáo lý Bát Chánh Đạo, hay còn gọi là cuộc sống chân chính. Nếu nói chánh nghiệp là việc làm không ảnh hưởng và tổn hại đến người vật, nên nghề nghiệp chân chính và cuộc sống phải phù hợp với lý duyên sinh. Sự khác biệt trong hai chi này là giữa việc làm và cuộc sống, nhưng nó sẽ hỗ trợ cho nhau, tạo nên nghề nghiệp và cuộc sống chân chính.

Chánh mạng là nỗ lực chân chính, một nghề nghiệp lương thiện, đó là mạng sống chân chính. Nhưng thế nào là một nghề nghiệp được coi là lương thiện? Điều này cũng chỉ có thể trả lời bằng sự nhận xét về xã hội trên nguyên lý duyên sinh. Những phương tiện sinh sống không gây tai họa, khổ đau cho kẻ khác trong hiện tại cũng như trong tương lai, những phương tiện sinh sống không lừa đảo, không gieo rắc lầm lạc, không bóc lột kẻ khác, không vi phạm quyền tự do và bình đẳng của kẻ khác, không phá hoại môi trường sinh hoạt của con người, đó là chánh mạng.

Chánh mạng là mạng sống chân chính, có nghĩa là con người sinh sống một cách chính đáng, có đời sống lương thiện, ngay thẳng, trong sạch, có tính đóng góp, phục vụ lợi ích cho tất cả mọi người. Người biết giữ gìn chánh mạng là người biết sống một đời có ý nghĩa, không bao giờ biết làm tổn hại cho ai. Sống bằng sự lao động chân tay hoặc trí óc thánh thiện, biết tôn trọng lẽ phải, biết tôn trọng quyền bình đẳng của con người và luôn sống đóng góp, sẻ chia, giúp đỡ nhân loại bằng tình người trong cuộc sống.

Chánh tinh tấn là chi thứ 6 trong Bát Chánh Đạo, có nghĩa là tinh tấn, nỗ lực, cố gắng đúng theo chánh pháp; hay nói cách khác là sự nỗ lực chân chánh, có ý nghĩa, lợi ích cho mình và người. Thế nào là sự nỗ lực chân chánh? Mục đích giáo dục của đạo Phật là tìm kiếm sự an lạc, hạnh phúc, giác ngộ và giải thoát, nhờ ta siêng năng dứt trừ các điều ác từ trong ý nghĩ, hay làm việc thiện ích để giúp đỡ tha nhân.

Chánh tinh tấn là nỗ lực chân chính tức là sự cố gắng liên tục trên mọi lãnh vực làm việc và tu tập. Đây cũng là một phương pháp quan trọng liên kết trong Bát Chánh Đạo, nếu thiếu một chi nào thì cũng khó mà thành tựu đạo pháp. Nếu ta nỗ lực không theo nguyên lý duyên sinh thì không được gọi là chánh tinh tấn. Những nỗ lực nào hướng đến tham lam ích kỷ, oán giận, thù hằn, hay si mê, dại dột, làm đều bất chính, thì không được gọi là chánh tinh tấn, bởi những kết quả của sự nỗ lực này có thể làm mọi người phiền muộn, khổ đau, và không dẫn đến mục đích chính đáng.

Tinh tấn nỗ lực là hành động kiên trì, củng cố vững chắc cho sự tu tập hằng ngày của chúng ta, nhằm mục đích ngăn ngừa, tránh xa những điều tội lỗi, lại còn hay tăng trưởng các việc làm lợi ích để mang lại sự an lạc, bình yên trong cuộc sống. Tinh tấn mà không có trí tuệ thì không đạt được mục đích mong muốn. Tinh tấn có trí tuệ sẽ giúp ta lần hồi chuyển hóa phiền não tham-sân-si thành vô lượng an lạc, hạnh phúc và trí tuệ, từ bi.

Ai siêng năng tinh cần, nỗ lực không biết mệt mỏi trong việc tu tập, sẽ có được năng lực chuyển hóa để tự mình thoát khỏi những cám dỗ có tính cách làm tổn hại người vật, và giúp mình thoát khỏi xiềng xích ngục tù của tội lỗi. Tinh tấn là nền tảng căn bản giúp ta biết cách từ bỏ sự nản chí, bất mãn, lười biếng, nhờ vậy các việc xấu, tội lỗi không có cơ hội phát triển. Tinh tấn là sự rèn luyện tâm linh cao thượng qua những việc làm chân chính, bởi vì đó là những hành động mang lại an vui, hạnh phúc cho bản thân, gia đình và xã hội.

Chánh tinh tấn là không làm các điều ác mà hay làm các việc thiện lành, tốt đẹp. Một ý nghĩ ác, một lời nói ác, một hành động ác, dù nhỏ nhặt đến đâu ta cũng quyết chí không làm, nếu đã lỡ làm thì tìm cách sám hối và dứt trừ. Ta không làm điều ác và hay làm các việc lành, hay giúp đỡ người khác để làm vơi bớt nỗi đau bất hạnh.

Chánh niệm là chi thứ 7 trong Bát Chánh Đạo, hay nói cho đầy đủ nghĩa lý hơn là cột tâm, hay chú tâm vào một đối tượng nào đó, được gọi là chánh niệm. Như niệm Phật, Bồ Tát, quán sổ tức, quán hơi thở.

Phật dạy, “này các Tỳ-kheo, thế nào là các công việc đáng phải làm hơn hết? Chúng ta phải biết chánh niệm tỉnh giác từng tâm niệm của mình, khi đi tới, khi đi lui đều tỉnh giác; khi nhìn thẳng, khi nhìn quanh đều tỉnh giác; khi co tay, khi duỗi tay đều tỉnh giác; khi mặc y, ôm bình bát đi khất thực đều tỉnh giác; khi ăn uống đều tỉnh giác; khi đi đại tiểu tiện đều tỉnh giác; khi đi đứng, nằm, thức, ngủ, nói năng hay yên lặng đều tỉnh giác”.

Tu theo phương pháp chánh niệm tỉnh giác, ta nhận biết rõ ràng từ ý nghĩ, lời nói, hành động, như thế nào mình biết như thế ấy; ta tham ta biết ta tham, ta si ta biết ta si, không khởi tâm bám víu chạy theo, không khởi tâm buông xả, ta chỉ nhìn thấy và quán sát chúng tường tận như vậy.

Chúng ta phải thực tập chánh niệm trong đời sống hằng ngày, ta biết mình đang nghĩ gì, nói gì và làm gì? Ta cần phải biết cách làm chủ bản thân trong đời sống và không bị lôi kéo bởi những hoàn cảnh xấu dữ, làm ảnh hưởng đến sự tu tập chánh niệm tỉnh giác.

Đây là một phương pháp tu tâm siêu tột để dẫn đến viên mãn của đạo Phật. Phương pháp này không bắt đầu bằng sự phân biệt những ý niệm thiện ác mà bằng sự quán sát sự sống của bản thân mình. Có nhiều người tuy sống mà thật ra không sống, bởi họ không có ý thức về sự sống của mình như thế nào là tốt, là xấu. Sống trong sự quên lãng, tự để mình bị kéo theo ngày tháng và hoàn cảnh mà không tự chủ được, không thấy được mình đang sống, không thấy được sự sống là mầu nhiệm, đó không phải là sống có ý thức, mà là trôi lăn trong dòng sinh tử, luân hồi. Khi đang ăn, ta biết mình đang ăn, khi đang ngồi, ta biết mình đang ngồi, và cứ như thế mọi việc đều như vậy.

Nói tóm lại, ta phải ý thức được mỗi giây phút trong đời sống mình. Ta phải biết làm thế nào để sống ngày hôm nay cho an lạc, hạnh phúc; ta đừng để cho những tên giặc tham lam, giận hờn, si mê, ganh ghét, tật đố và vội vàng, hối hả đến quấy phá, cướp mất đi 24 giờ quý báu của ta trong ngày. Chánh niệm là sự nhớ nghĩ chân chính. Chúng ta đừng lầm hai chữ chánh niệm với chánh tư duy. Tư duy là sự suy tưởng, trong khi niệm là sự nhớ nghĩ, trái với sự quên lãng. Chánh niệm là một phương pháp tu luyện rất mầu nhiệm của đạo Phật.

Chánh định là chi cuối cùng của giáo lý Bát Chánh Đạo, là sự định tĩnh, tinh thần trong sáng, thanh tịnh. Như vậy, ý nghĩa của từ này là một loại định chân chánh, thấu rõ mọi hiện tượng, sự vật. Nếu như chi thứ 7 là chánh niệm, mang ý nghĩa cột tâm vào một đối tượng nào đó, thì chi thứ 8 là chánh định, chi này có trách nhiệm làm cho đối tượng càng được thông suốt rõ ràng hơn; từ chuyên môn gọi là Thiền Quán, có nghĩa là soi sáng mọi sự vật mà không bị sự ngăn ngại. Đó là sự khác biệt giữa chánh niệm và chánh định.

Chánh định nghĩa là tập trung tư tưởng vào một vấn đề gì để thấy cho rõ ràng, nói cách khác là tập trung tư tưởng vào một vấn đề chính đáng, đúng với chân lý, có lợi ích cho mình cho người. Chánh định là phương pháp thiền định chân chính. Thiền định là sự tập trung ý thức cao độ để đạt tới chánh kiến tức là cái thấy chân chính. Định ở đây không có nghĩa là tư duy hay suy tưởng, mà là những phương pháp tập trung tâm ý và thiền quán, nhằm phát khởi trí tuệ thấy biết đúng như thật. Những phương pháp này không nhắm đến sự tu luyện thôi miên, pháp thuật và trường sinh, mà nhắm đến sự phát triển trí tuệ giác ngộ, giải thoát, nên gọi là chánh định.

-VUA A XÀ THẾ VÀ HỌC THUYẾT TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC

Vua A Xà Thế vốn là vị vua có tài, nhờ Phật chuyển hóa mà nhận ra sai lầm, biết sám hối, ăn năn, làm mới lại chính mình, làm lại cuộc đời. Bằng những việc làm thiết thực Ngài đã giúp dân an cư lạc nghiệp theo tinh thần Phật dạy, biết quy hướng Tam bảo, trọn đời gìn giữ 5 điều đạo đức, sống gương mẫu, biết hy sinh vì mọi người, lấy niềm vui thiên hạ làm niềm vui chính mình.

Trong kinh có một câu chuyện xảy ra làm đau lòng mọi người khi đức Phật còn tại thế. Một người vì quá tham tàn, bạo ngược, bất chấp cả tình cha con, chính là thái tử A Xà Thế khi bị mê hoặc bởi sa môn Đề Bà Đạt Đa. Việc cướp ngôi bị bại lộ không thành, vua cha Tần Bà Sa La thay vì giết đi đứa con phản nghịch thì lại thoái vị, nhường ngôi cho thái tử.

Ngài làm như thế để thái tử không mang tội cướp ngôi, nhưng vì bản tính hung hăng, tàn bạo, thái tử đáp lại tấm chân tình ấy bằng cách ra lệnh nhốt vua cha vào ngục tối, sau khi chính thức lên ngôi.

Ông cấm không cho một ai được quyền mang thức ăn vào, chỉ ngoại trừ hoàng hậu Vi Đề Hy là mẹ Ngài được quyền vào thăm. Vì sợ chồng chết đói nên bà tìm đủ mọi cách giấu thức ăn mang vào trong ngục nhưng đ iều bị Vua A Xà Thế phát hiện. Bà rất khổ tâm vì có đứa con ngang tàn, bạo ngược nên bèn tắm rửa sạch sẽ rồi trét bơ sữa lên người, ấy vậy mà bà cũng bị phát giác.

Tàn nhẫn hơn nữa, A Xà Thế cho người vào gọt da chân vua cha rồi trét muối, hơ lửa cho đến chết trong oằn oại, đau thương. Khi cái chết đang dần hành hạ vua cha trong ngục tối , đúng ngay lúc ấy đứa con đầu lòng của vua A Xà Thế chào đời, ông vội vàng chạy đi tìm mẹ để tâm sự với lòng thương yêu trìu mến !

Thưa mẹ hiền, con vừa được tin hoàng nhi chào đời, trong lòng con giờ đây trào dâng niềm thương yêu vô hạn, một niềm cảm xúc dạt dào xưa nay con chưa từng biết đến. Dạ thưa mẹ, n gay bây giờ con yêu hoàng nhi hơn chính bản thân con, không biết ngày xưa phụ hoàng có yêu con như vậ y hay không ?

Nghe đến đây mẫu hậu Vi Đề Hy nghẹn ngào, tức tưởi, “Sao con hỏi mẹ điều ấy? Mẹ dám chắc trên cõi đời này không ai giàu lòng nhân ái như cha con khi còn tại vị . Cha con lúc vừa nghe tin mẹ có thai, đã vui mừng tột độ dẫn đến quên ăn mất ngủ để chăm sóc cho mẹ .

Rồi mẹ bỗng dưng thèm máu của cha con mà không dám nói ra vì sợ Ngài buồn . Thấy mẹ càng ngày càng xanh xao, gầy yếu, cha con tìm cách an ủi, vỗ về. Mẹ mới thú thật cùng cha con như vậy.

Cha con liền trách sao mẹ không nói sớm để đến nỗi thế này. Nói xong cha liền cắt tay cho mẹ nếm máu, kể từ đó mẹ ăn uống lại bình thường. Do điềm ấy mà các nhà tiên tri phỏng đoán con sau này có thể giết cha để cướp ngôi vua, nên mới đặt tên cho con là A Xà Thế, tức “kẻ thù trong bào thai”.

Nghe đến đây mẹ vô cùng sợ hãi nên định phá thai nhưng cha con không chịu, và con chào đời trong niềm vui mừng vô hạn của cha con , mẹ thì trong lòng lo lắng vô cùng , vì sợ điềm ấy sẽ trở thành sự thật ”.

Vua A Xà Thế nghe đến đây trong lòng cảm thấy nghẹn ngào xúc động, hai hàng nước mắt tuôn trào trong khóe mắt , ông ngồi đơ người ra như kẻ mất hồn.

Hoàng hậu Vi Đề Hy mới kể tiếp: Con biết không, thuở nhỏ có lần con bị mụn nhọt nơi ngón tay đau đớn không chịu nổi, con gào thét rất nhiều khiến cho vua cha động lòng chịu không nỗi .

Đang họp cùng triều thần nhưng cha con vội bãi trào để vào cung ôm chầm lấy con, ngậm ngón tay vào miệng cho con đỡ đau nhức mà yên giấc ngủ ngon lành . Ngờ đâu mụn nhọt bị vỡ ra khiến máu và mủ tuôn trào, sợ con tỉnh giấc nên cha con đã nuốt hết vào bụng. Nghe đến đây vua A Xà Thế liền hoảng hốt kêu la thất thanh, “quân bây đâu, quân bây đâu, mau thả cha ta ra liền lập tức!” Vua A Xà Thế miệng la, chân chạy như kẻ mất hồn để tìm đến ngục tối , nhưng khi đến nơi vua Tần Bà Sa La đã chết từ lâu rồi .

Ôi cha chết, hai tiếng buồn thê thảm.
Giờ ăn năn, thì đã quá muộn rồi.
Ôi trần thế, con tìm cha đâu nữa.
Khi làm cha mới quý tình phụ tử .

Tình đời là thế đó! Khi lòng tham lam, ích kỷ con người khởi lên thì lý trí, lương tâm bị mê mờ. Được vua cha tha tội chết vì nghĩ con còn non dại và sẵn sàng nhường ngôi báu, ấy vậy mà đứa con vẫn ngang tàng, ngỗ nghịch, không hiểu luân thường đạo lý là gì, nên đã hành hạ cha cho đến chết.

Vậy mà vua Tần Bà Sa La sau khi chết đi , vẫn về báo mộng cho đứa con bất hiếu người đã được sanh Thiên nên dặn con cứ an lòng và đừng đau buồn nữa. Vua Tần Bà Sa La đúng là người cha nhân từ, đức độ có một không hai trên thế gian này .

Trước đó vài năm, thái tử Sĩ Đạt Ta vượt thành xuất gia cầu đạo, nghe nói thành Vương Xá đất nước Kiều Tát La là nơi có đời sống tâm linh cao độ nên N gài đã tìm đến nước này để học đạo giác ngộ, giải thoát .

Vua Tần Bà Sa La nghe tin mới tìm đến gặp thái tử, ông sẵn sàng chia nửa giang sơn để cùng N gài giúp dân chúng an cư lạc nghiệp. Thái tử vốn không màng đến danh lợi, quyền quý cao sang nên đã nói, “tôi đã bỏ hết tất cả cung vàng điện ngọc, vợ đẹp con xinh để ra đi t ìm cầu chân lý mong ngày thành tựu đạo quả bồ đề, để cứu độ tất cả chúng sinh, xin bệ hạ thông cảm và lượng thứ dùm cho ”.

Biết không thể nào thuyết phục được thái tử, vua Tần Bà Sa La nói, “khi nào Ngài thành đạo, xin N gài nhớ về độ tôi cùng gia quyến!” Sau khi thành đạo dưới cội bồ đề, trước tiên Phật độ 5 anh em Kiều Trần Như, kế tiếp Ng ài độ 3 anh em Ca Diếp, sau đó Ng ài về thành Vương Xá độ vua Tần Bà Sa La và quyến thuộc .

Từ khi vua Tần Bà Sa La tiếp nhận giáo p háp của Như Lai, ngài không còn thiết tha việc triều chính nữa mà chỉ vì thái tử còn quá nhỏ. Biết A Xà Thế có dã tâm muốn cướp đoạt ngôi vua N gài cũng không buồn lòng.

Đọc lịch sử chúng ta h iếm thấy có vị vua nào được như vậy, vinh hoa phú quý sờ sờ trước mắt nhưng N gài vẫn không đắm nhiễm, chỉ coi ngai vàng như dép rách, một lòng giữ đạo chân ch í nh, không phiền muộn, oán than một điều gì. Chúng ta chẳng có gì để buông mà cứ dính mắc hoài, thật là hết sức hổ thẹn cho hàng hậu học sau này !

Giáo dục gia đình là nền tảng quan trọng để tiếp cận cộng đồng xã hội. Cha mẹ là vị thầy đầu tiên của con cái xưa nay. Mẹ thì mang nặng đẻ đau, cha thì cung phụng, nuôi dưỡng, mong con sau này khôn lớn tiếp tục kế thừa truyền thống tốt đẹp của gia đình.

Vua A Xà Thế vì quá tham tàn, bạo ngược nên đã đành đoạn giết cha một cách tàn nhẫn, đến khi đứa con đầu lòng chào đời ông mới biết trân quý tình cha con; dù rất ăn năn, hối hận cũng đã muộn, có làm cha mới quý tình phụ tử, mới cảm thông nỗi lòng cha mẹ đối với con cái .

Còn cha gót đỏ như son
Đến khi cha chết gót con đen sì.

Nếu vua A Xà Thế không vì một phút si mê dại dột thì giờ đây không hạnh phúc nào bằng , khi có người cha làm thái thượng hoàng hướng dẫn cho mình những kinh nghiệm quý báu để ích nước lợi dân, đỡ phải hao công tốn sức nhiều.

Câu chuyện trên răn dạy một bài học nhớ đời về cách đối nhân xử thế sao cho phù hợp đạo lý làm con đối với cha mẹ, nếu luận về tội thì không tội nào nặng bằng tội giết cha, dù bị đọa đày suốt đời suốt kiếp cũng chưa gội rửa hết.

Chính vì vậy mà vua A Xà Thế lúc nào cũng bị ám ảnh dày vò khi nhớ tới vua cha chết dần chết mòn trong lao tù ngục tối. Trong cơn sầu đau não nề, quả báo xảy đến làm toàn thân ông đầy ghẻ lở.

Các danh y nổi tiếng cả nước được dời đến chữa trị nhưng tất cả đều bó tay xin chào thua . Trong cơn đau tưởng chừng như tuyệt vọng, ông than thở cùng bà Vi Đề Hy , con nay thân tâm đều khốn khổ, phụ hoàng hiền lương, đức độ mà con đành lòng giết hại.

Con từng nghe nói tội giết cha là một trong 5 tội lớn sẽ bị đọa địa ngục và chịu nhiều thống khổ liên tục…vì nghĩ như vậy nên vua A Xà Thế lúc nào cũng bi lụy, sầu khổ vì nỗi ám ảnh giết cha.

Sau nhờ quan ngự y Kỳ Bà khuyên nhủ, “bệnh tình của bệ hạ chỉ có đ ức Phật mới có thể cứu khỏi. Thần xin cam kết lấy thân mạng mình bảo đảm điều này. Đức Phật là bậc giác ngộ hoàn toàn giải thoát, Ngài lúc nào cũng từ-bi-hỷ-xả, khoan dung và độ lượng. Bệ hạ nên nghe theo lời hạ thần, trong tối nay phải đến nhờ Phật cứu chữa”.

Vua sợ quá nói, “Kỳ Bà, ông có điên không? Ông không nhớ sao, lúc trước ta đã cho sa môn Đề Bà Đạt Đa mượn voi say để giết Phật, ta còn mặt mũi nào đến nhờ Ngài chữa trị? Phật làm sao có thể tha thứ cho ta được.”

Kỳ Bà nói: “Không sao đâu, bệ hạ cứ yên tâm, Ngài là bậc giác ngộ hoàn toàn có một không hai trên thế gian này, vì thế Ngài mới chinh phục được ba anh em Ca Diếp nổi tiếng nhất thành Vương Xá, ngay đến hai nhà Bà La Môn thông thái như Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên cũng đầu phục làm đệ tử Ngài. Hung tợn như tên tướng cướp Ương Quật Ma La một thời làm náo lọan đất nước Kiều Tát La, từng giết hại hàng ngàn người không gớm tay mà giờ đây cũng quy y đầu Phật”.

Vua A Xà Thế mới hỏi : “có phải tên giết người chặt ngón tay làm xâu chuỗi để đeo không?” “Dạ muôn tâu bệ hạ, đúng thật là như thế! Tên cùng hung cực ác như Ương Quật Ma La cũng nhờ Phật nhiếp phục, sau khi hồi đầu do siêng năng tinh tấn tu hành nên đã chứng quả A La Hán, huống hồ là bậc anh tài như bệ hạ”.

Ngay đêm ấy, vua cùng Kỳ Bà đến chùa Kỳ Viên, Phật biết trước nên ra cổng đón, “thưa đại vương, ngài đến chùa trong đêm khuya thế này chắc có việc gì quan trọng?”

Vua A Xà Thế nghe Phật nói vậy mới cảm động và khâm phục trước tấm lòng bao dung của Ngài, quả thật lời quan Kỳ Bà nói không sai, nghĩ vậy hồi lâu vua mới lấy lại bình tĩnh và thú thật, “con chính là vua A Xà Thế trị vì đất nước Ma Kiệt Đà thành Vương Xá, con đã lỡ lầm giết chết người cha vô cùng hiền lương, đức độ, vì thế ngày nay thân tâm con đều đau khổ tột cùng. Con kính mong Phật mở lượng hải hà một lòng từ bi thương xót giúp con vượt qua tội lỗi. Từ ngày phụ hoàng mất đi , con chưa một giây phút nào được thảnh thơi, lúc nào con cũng thấy hình bóng phụ hoàng rên la thảm thiết”.

Phật nói : “này đại vương nên biết, trên đời có 2 hạng người có thể đạt được hạnh phúc chân thật. Hạng người thứ nhất từ nhỏ đến lớn chưa từng làm điều xấc ác, lại hay giúp người cứu vật. Hạng người thứ hai đã từng gây tạo tội lỗi mà biết ăn năn hối cải, sám hối hứa chừa bỏ không tái phạm. Cả hai đều có khả năng giác ngộ như nhau.”

“ Vua A Xà Thế mới phân trần n hưng con đã phạm tội giết cha.” “Đành rằng nhân quả không sai, gieo gió ắt gặt bão, giết người phải đền mạng, nhân quả lúc nào cũng công bằng khi đủ nhân duyên sẽ cho ra kết quả. N hưng nói như vậy , vô tình cái gì cũng trở thành cố định hết thì trên đời này đâu c ó ai còn tu được nữa , thành ra người ác sẽ ác mãi, không thể làm mới lại chính mình .

Nếu đại vương cứ một bề hối tiếc, mặc cảm thì rốt cuộc không làm gì được cả mà còn làm cho thân tâm này bi lụy .” “Vậy Thế Tôn có thể giúp cho con sám hối lại lỗi lầm bằng cách nào?”

“Người đã chết không bao giờ sống lại được, nếu đại vương cứ ưu sầu, thương xót thì cũng không lợi ích gì, chi bằng hiện tại đại vương phát nguyện sám hối, dứt khoát không làm các điều ác mà hay làm các điều lành, giúp dân chúng an cư lạc nghiệp, ổn định đời sống dài lâu, luôn thương yêu, đùm bọc, giúp đỡ mọi người trên tinh thần vô ngã, vị tha, lấy tình thương chuyển hóa hận thù, luôn từ bi, độ lượng, bao dung và tha thứ”.

Sau khi được Đức Phật khai thị, vua A Xà Thế đã bình tâm, hoàn hồn, không còn ưu sầu nữa và liền phát nguyện quy y Tam bảo, nương tựa 3 ngôi báu Phật-Pháp-Tăng, đời đời kiếp kiếp khuyên mọi người gìn giữ 5 điều đạo đức và làm 10 việc thiện.

Vua A Xà Thế từ khi tiếp nhận giáo pháp của Như Lai tâm tình trở nên cởi mở, quyết tâm gầy dựng lại cuộc đời theo lời Phật dạy, lấy tình thương xóa bỏ hận thù, xây dựng cuộc sống dân giàu nước mạnh trên tinh thần từ-bi-hỷ-xả, coi thần dân như con đẻ của mình.

Nhờ vậy, trong triều đại vua A Xà Thế đã làm được những việc không thể ngờ. Một ông vua ngang tàng, bạo ngược, nhờ gặp đức Phật mà thay tâm đổi tánh, từ một người giết cha để cướp đọat ngôi vua trở thành một vị vua nhân từ, đức độ, hướng dẫn mọi người sống theo lời Phật dạy trên tinh thần đoàn kết, yêu thương, giúp đỡ lẫn nhau.

Kinh A Xà Thế là một triết lý sâu sắc về tình người mà đức Thế tôn đã giáo hóa cho những ông vua, bà hoàng trong thời đại phong kiến. Rất nhiều vị vua đã quy hướng về Tam Bảo như vua Tần Bà Sa La, vua Ba Tư Nặc và kẻ đã từng âm mưu cùng Đề Bà Đạt Đa hại Phật để thống trị thiên hạ. Tuy nhiên Phật vẫn mở rộng bàn tay để độ vua A Xà Thế vì đức Thế tôn không thấy ai là kẻ thù mà chỉ có người chưa thông cảm.

Trong bài kinh có hai vế mà người hậu học chúng ta đáng quan tâm và suy gẫm, nhân vật chính mà đức Phật muốn giáo hóa kẻ tội đồ giết cha là Vua A Xà Thế ngay nơi cuộc đời này, bằng những hành động thiết thực có lợi ích cho mình và nhiều người khác.

Nhân vật phụ là bà Vi Đề Hy là những người có thể thừa hưởng ân sủng tối cao muốn gì được nấy với cương vị là Hoàng thái hậu. Ngược lại, bà rất đau khổ tột cùng khi vua Tần Bà Sa La là chồng bà bị đứa con ngỗ nghịch giam vào ngục tối và không cho ăn uống gì để bị chết dần mòn thể xác lẫn tinh thần.

Bà tìm đủ mọi cách để đem thức ăn vào cho chồng nhưng đều bị A Xà Thế phát giác và cấm đoán nghiêm ngặt. Đứng vào hoàn cảnh của bà trong thời điểm hiện tại, bà cảm thấy đau khổ vô cùng tận, chính vì nỗi khổ niềm đau này mà bà khởi lên tư tưởng trên đời này có còn cõi nào không bao giớ có đau khổ?

Phật biết được tâm ý của bà nên phương tiện giúp cho bà bớt khổ bằng cách nói có một cõi Cực lạc do Phật A Mi Đà làm chủ với bảy báo trang nghiêm, toàn là bậc thượng thiện nhân cư trú, nhờ vậy bà bớt khổ được vui trong kiếp sống hiện tại.

Bà Vi Đề Hy là một hoàng hậu với đầy đủ kẻ hầu, người hạ muốn gì được nấy là chỗ thiên hạ ai cũng mong muốn. Ấy thế mà, cuộc sống của bà rơi vào hoàn cảnh éo le, thật là khổ não bởi đứa con tham tàn bạo ngược. Thân thì sống trong cung vàng điện ngọc nhưng tâm bà vô cùng đau đớn và tuyệt vọng, nỗi khổ niềm đau thương chồng vì bị đứa con bức tử hành hạ thân xác trong từng phút giây. Người làm cho bà đau khổ đến tột cùng là đứa con trai duy nhất do mình đẻ ra, bà cảm thấy chơi vơi lạc loài với tâm trạng tuyệt vọng, nên bà khởi lên mong muốn có cõi nào không khổ đau? Đức Phật biết được tâm ý của bà nên nói ở Phương tây có cõi cực lạc, ai được sinh về cõi này thì sẽ hết khổ. Sau đó Phật dạy pháp lục niệm, niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm Giới, niệm Thiên và niệm Thí. Nhờ tin lời Phật dạy bà chuyên niệm nên tâm ý không còn bấn loạn, do đó bớt khổ đau mà an trú trong giây phút hiện tại. Đây là phương tiện thiện xảo đối với những người đang bị khổ đau cùng cực. Trong hoàn cảnh này, chồng bà là vua xưa nay muốn gì được nấy mà bị chính con ruột mình giam cầm và bỏ đói, nhiều lần bà dấu thức ăn đem vào đều bị giữ lại. Có lần bà phải tắm rửa sạch sẽ rồi trét bơ sữa đây người để vào thăm chồng. Bà đau khổ tột cùng vì hai bên đều là những người thân thương nhất của bà. Phật phương tiện để bà thoát qua cơn tuyệt vọng, khi con người tuyệt vọng có thể dẫn đến quyên sinh tự tử. Đức Phật là vị đạo sư biết rõ được tâm ý của từng con người, từng hoàn cảnh sống nên đã được vô số người quy hướng về chính mình mà sống đời đạo đức.

Chúng sinh ở cõi dục bản chất là tham lam mong cầu quá đáng, làm ít mà muốn hưởng thụ nhiều nên một số người đã lợi dụng bài ra có một đấng tối cao ban phước giáng họa để dễ bề cai trị và sai khiến con người. Người tin theo truyền thống có ông trời tạo ra, cuộc đời của ta do trời sắp đặt, mọi sự thăng trầm nên hư thành bại đều do trời quyết định, con người không có khả năng và quyền lực gì cả, cuối cùng chấp nhận số phận đã an bài.

Học thuyết này chỉ phù hợp khi con người còn ăn lông ở lỗ, chưa có kiến thức hiểu biết nhận định đúng sai nên mới tin rằng có một đấng sáng tạo và con người bị điều hành, sai sử bởi đấng này. Ai tôn thờ và nương theo đấng quyền năng ấy thì có được cuộc sống tốt đẹp, hạnh phúc, còn ai không theo sẽ bị đọa đày, đau khổ. Con người chỉ có con đường duy nhất, theo thì được lên thiên đàng, không theo thì bị xuống địa ngục. Con người vì thiếu hiểu biết và si mê nên phải tin theo như một tín đồ. Vậy học thuyết đó đến giờ này có đúng hay không? Nếu sai, sau một số nơi vẫn còn tồn tại thậm chí con người vẫn tin theo nhiều hơn. Nhà Phật nói cái gì huân tập và làm theo lâu ngày sẽ trở thành thói quen, thói dù tốt hay xấu dù đúng hay sai thì rất khó dứt bỏ. Đơn giản nhất là thói quen hút thuốc lá thôi, nó đâu có giá trị thực, vậy mà khi đã lỡ nghiện rồi ngàn người ,vạn người khó bỏ khó dứt trừ.

Ngày nay, nhờ sự tiến bộ của khoa học, con người dễ nhận ra nguyên lý sống của vũ trụ, tất cả mọi hiện tượng sự vật đều do nhiều yếu tố hợp lại mà thành, không có gì là do một nhân mà có thể tồn tại trên thế gian này. Thời xa xưa, những hiện tượng như mưa gió bão bùng, sấm sét long trời lở đất, người ta cho rằng, đó là do thần linh hay thượng đế muốn răn dạy con người bớt làm các việc xấu ác. Nếu có ai chẳng may là nạn nhân của các hiện tượng này thì họ phương tiện nói rằng, có đấng quyền năng tối cao trừng phạt người làm việc xấu ác. Từ đó, lâu ngày thành ra phong tục, tập quán, rồi người ta cứ chấp chặt vào đó mà lung lạc lòng người, họ quên đi những điều rất thực tiễn gieo nhân nào thì được quả nấy.

Vua A Xà Thế trong quá trình văn tư tu ứng dụng năm giới, mười điều lành cho mình và người khác

Đạo Phật dạy người tu hành chân chính bắt đầu từ văn, tư và tu, gọi là tam học. Văn có nghĩa là học hỏi từ sách vở hoặc nghe quý thầy giảng dạy, là những người nghe giáo lý để tu học. Chúng ta khi nghe giảng dạy về nhân quả, khi nghiên cứu, khi thảo luận và thưa hỏi, tức là ta đang thực tập về văn học.

Khi nghe, chúng ta phải có thái độ cởi mở, phải thao thức muốn hiểu biết rõ ràng và muốn được thực hành những lời hướng dẫn ấy, như thế mới gọi là người biết nghe. Còn nếu chúng ta nghe chỉ để đàm luận hơn thua, nghe để phê phán, chỉ trích người khác, nghe như vậy chỉ chất chứa thêm kiến thức mà sinh cống cao ngã mạn tự thấy mình giỏi hơn thiên hạ.

Tư có nghĩa là suy gẫm, quán chiếu, nghiệm xét những điều mình được đọc lại từ các kinh sách hoặc học hỏi từ lời dạy của quý thầy. Phật dạy khi ta nghe một điều gì, dù lời dạy đó từ một vị đạo sư nổi tiếng nói ra chúng ta cũng phải xem xét, tư duy, phân tích mổ xẻ một cách thấu đáo, biết rõ mục đích rõ ràng, khi ấy ta mới bắt đầu tu.

Khi nghe và tư duy về điều đó, giống như ta đã gieo hạt giống trí tuệ vào lòng, bắt đầu ta thực tập hạt giống trí tuệ đó để buông xả tham lam, sân giận và si mê. Nếu sau khi nghe rồi mà không đem ra thực tập thì việc nghe không có lợi ích gì cả, bởi gì ta chỉ nghe suông. Trong quá trình văn, tư, tu về con đường chuyển hóa nỗi khổ niềm đau do thấy biết sai lầm mà gây ra nhiều tội lỗi cho mình và người khác.

Nhờ quá trình văn, tư và tu mà chúng ta ai cũng có thể thấy rõ ràng nguyên nhân dẫn đến khổ đau luân hồi sống chết vô cùng tận, do si mê tham ái và sự chấp ngã của thân tâm này. Từ đó ta sẽ suy nghĩ, nói năng và hành động của ta không làm tổn thương đến người và vật. Vua A Xà Thế khi nghe lời Phật dạy đã biết tư duy, nghiệm xét về những lời dạy đó và thành tâm sám hối ăn năn, quy hướng về Tam bảo với lòng thành của mình mà phát nguyện sống đời đạo đức và giúp cho dân chúng an cư lạc nghiệp bằng mười điều lành.

Mục đích chính của bản kinh là giáo dục nhân quả cho con người có đủ niềm tin bằng sự hiểu biết của chính mình, thông qua phương pháp văn, tư, tu nghe rồi suy gẫm tư duy và áp dụng tu tập để dứt trừ phiền não khổ đau. Nhờ vậy mà đức Phật mới độ được ông Vua A Xà Thế, đầu tiên là nhờ nghe lời khuyên của Kỳ Bà thuyết phục đến gặp đức Thế tôn, sau đó được sự chỉ dạy của Ngài mà sau này trở thành vị vua Phật tử, có rất nhiều đóng góp lớn lao trong công cuộc hoằng truyền chánh pháp “tốt đạo đẹp đời”.

Ngài là vị vua đầu tiên đứng ra bảo trì kết tập Kinh điển Phật giáo lần thứ nhất tại núi Kỳ Xà Quật. Sau khi Phật viên mãn, ngài đứng ra phân chia Xá Lợi Phật cho 8 nước. Đọc chuyện xưa để chúng ta cùng nhau suy gẫm! Một ông vua hung tàn, bạo ngược nếu không gặp Phật thì biết bao chuyện lầm than đã xảy ra cho dân chúng đất nước Kiều Tát La .

Thường những vị vua hung bạo đều có tài, nếu biết sử dụng tài đúng chỗ, đúng nơi sẽ giúp muôn dân sống an vui, hạnh phúc bằng tình người trong cuộc sống. Nếu sử dụng sai lầm sẽ làm thiên hạ khổ đau vì mộng bành trướng bá quyền, thôn tính xâm lăng, mở mang bờ cõi, gây bao tang tóc, đau thương cho nhiều người.

Vua A Xà Thế vốn là vị vua có tài, nhờ Phật chuyển hóa mà nhận ra sai lầm, biết sám hối, ăn năn, làm mới lại chính mình, làm lại cuộc đời. Bằng những việc làm thiết thực N gài đã giúp dân an cư lạc nghiệp theo tinh thần Phật dạy , biết quy hướng Tam bảo , trọn đời gìn giữ 5 điều đạo đức, sống gương mẫu, biết hy sinh vì mọi người, lấy niềm vui thiên hạ làm niềm vui ch ính mình.

Nhà vua thường khuyên mọi người hạn chế tối đa việc giết hại chúng s i nh và hay phóng sinh cứu người cứu vật, luôn sống chân thật, không dùng quyền hạn để bóc lột của người hay cướp giật của kẻ khác, khuyên người bố thí cúng dường, cung kính hiếu dưỡng ông bà cha mẹ và các bậc trưởng thượng, giúp đỡ chia sẻ khi gặp người bất hạnh, không ủng hộ quan điểm chồng chúa vợ tôi, khuyên bảo mọi người sống chung thủy một vợ một chồng, không nói dối hại người và luôn nói lời chân thật, không dùng rượu quá chén hay vui chơi quá đáng mà tác hại đến đời sống con người. Vua nhờ tiếp nhận giáo pháp của Như Lai nên một đời giúp dân chúng an cư lạc nghiệp theo tinh thần Phật dạy, đoàn kết, thương yêu, giúp đỡ lẫn nhau vì lợi ích chúng sinh bằng tình người trong cuộc sống.

-HỌC THUYẾT TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC VÀ THỂ NGHIỆM TÂM NGAY NƠI THÂN NÀY

Đứng trên phương diện thực tế trong cuộc sống, chưa có ai từng biết rõ thế giới Tây phương cực lạc ra sao? Và cũng chưa có ai dám xác định rõ ràng hoặc đã từng sinh hoạt ở cõi đó? Một ví dụ rất thực tế, tôi chưa từng đến đất nước Ấn Độ, nhưng tôi có thể biết qua phim ảnh sách báo hoặc truyền thông Internet toàn cầu. Nhờ vậy tôi có thể biết rõ đất nước Ấn Độ mà không cần đến nơi, đó là một sự thật không ai có thể phủ nhận được. Tuy nhiên, nếu quan niệm thế giới Cực lạc là thế giới lý tưởng, thìchúng ta phải y cứ vào kinh văn do đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết giảng hơn ba mươi ngàn bài kinh. Từ đó chúng ta có thể đối chiếu và so sánh, để tìm ra tiếng nói chung và đây là suy nghĩ của riêng cá nhân chúng tôi. Sau đây chúng tôi trích nguyên văn trong Kinh A Di Đà ở phẩm Điện kiện vãng sanh:

-Điều kiện vãng sinh: Này Xá-lợi-phất, bất luận nữ nam, muốn được vãng sanh, thì hãy chuyên cần, khởi lòng khát ngưỡng, nhớ nghĩ không quên, thực tập quán niệm, “nhất tâm bất loạn,” trong vòng một ngày, cho đến bảy ngày. Trong giờ phút này, tâm ý người ấy phải thật yên tĩnh, như vào thiền định, không còn tán loạn, đảo điên mộng tưởng. Đến lúc qua đời, Phật A-di-đà, thánh chúng hà sa, dang tay tiếp dẫn, khiến được vãng sanh, dự hàng chúng thánh, không hề chia phân. Này Xá-lợi-phất, vì nhìn thấy được lợi lạc hà sa do niệm Di-đà, ta khuyên các vị, hãy nên chuyên tâm, niệm Phật vãng sanh.

Lời bàn: Trong phần này nội dung chính để quyết định vãng sanh đó là câu”nhất tâm bất loạn” Có lẽ các nhà Phật học cũng đã từng bàn luận về câu này rất nhiều tức là một tâm không loạn. Một tâm không loạn phải từ một ngày cho đến bảy ngày thì Phật A Di Đà và Thánh chúng sẽ rước về cõi Tây phương Cực lạc? Một câu hỏi được đặt ra, tâm không loạn là gì? Các nhà nghiên cứu thường lầm lẫn chỗ này, tâm không loạn và nhất niệm tương ưng khác nhau một trời một vực. Một đàng là còn niệm, một đàng là vô niệm, tuy vô niệm nhưng vẫn thường biết rõ ràng nói không thể đến. Nhất niệm tương ưng tức là câu niệm Phật đó đã thành phiến, thành đá rồi tức là còn niệm, nhưng mà thuần nhất chỉ một niệm. Chữ niệm ở đây có hai nghĩa, một là nhớ, một là niệm danh từ đại khái giống như đọc thần chú vậy! Mà còn niệm là còn luân hồi, vô niệm tức vô sinh an nhiên tự tại trong mọi hoàn cảnh vì không còn đến đi.

Giải thích ý nghĩa Cực lạc tức là không còn khổ còn vui, như vậy sẽ đồng nghĩa với Niết-bàn tức vô sinh. Vô sinh là không còn khổ vui mà vẫn thường biết. Ai biết? Thì rõ ràng đây là cảnh giới Niết-bàn chứ không phải là cõi nước nữa….Học Kinh Phật chúng ta biết ý sâu xa ở chỗ nào? Nếu luận trên ngôn ngữ thì càng bị ngôn ngữ trói buộc, các nhà Phật học cần phải thoát ra….

-Kế đến chúng ta sẽ luận về tâm, tâm thì có hai phần tâm vọng và tâm chơn. Tâm là một danh từ ai cũng có thể nói được, nhưng tâm là gì thì chẳng ai biết rõ ràng. Cái gốc của Phật pháp chính là tâm. Người học Phật pháp phải biết rõ nguồn gốc đó chính là tâm của mình chứ chẳng phải tìm cầu nơi khác mà được. Trong thực tế cuộc sống, Phật giáo là nền giáo dục nhân bản, giúp cho con người nhận ra tâm pháp để giác ngộ, giải thoát và thành Phật ngay nơi thân này.

Nhưng tâm chia ra làm hai phần: Tâm chơn còn gọi là tâm thường biết rõ ràng, tâm vọng còn gọi là tâm phân biệt hư dối. Tâm chơn thì không thể dùng lời nói luận bàn, hay ý thức suy nghĩ mà được, chỉ thấy nghe hay biết mà không vọng động, hình ảnh sự vật như thế nào thì biết rõ như thế đó. Tâm vọng hư dối là hay suy nghĩ phân biệt tốt xấu, đúng sai, ta người…..

Tâm vọng hư dối là "cái hiểu biết phân biệt tốt xấu, đúng sai", hay còn gọi là phần tinh thần. Tâm không có hình tướng dài, ngắn, vuông, tròn, hay có màu sắc xanh, đỏ, vàng, trắng, đen, nâu. Chúng ta không thể dùng con mắt mà thấy được tâm; cũng không thể dùng tay chơn sờ mó rờ đụng được tâm; chỉ thấy cái tác dụng của nó qua mắt tai mũi lưỡi thân ý, nên biết có tâm.

Tâm chân thật được hiển lộ qua sự thấy và nghe, khi thấy chỉ là thấy mà vẫn thường biết rõ ràng mọi hình ảnh sự vật, màu sắc xanh, trắng, đỏ, vàng. Khi nghe chỉ là nghe mà không dính mắc vào âm thanh lớn nhỏ, dễ chịu hay không dễ chịu, nhờ vậy ta luôn sống với tính nghe thường hằng.

Cũng như "điện", người ta không thể thấy nghe hay rờ mó được điện; chỉ do thấy cái tác dụng của nó mà biết có điện. Như cho điện vào bóng đèn thì thấy đèn sáng, cho điện vào quạt thì thấy quạt xoay, cho điện vào bàn ủi thì thấy nóng, cho điện vào tủ lạnh thì thể lỏng đông đặc lại v.v…. Chính vì vậy mà người ta biết là có điện. Tâm Phật cũng lại như thế, vì nó có tác dụng thấy, nghe hay biết nương nơi mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý mà không dấy niệm phân biệt tốt xấu, đúng sai v.v… nên chúng ta biết là có tâm Phật sáng suốt ngay nơi thân này.

Đây mới là vấn đề quan trọng trong việc tu hành, ai có tu sẽ có lúc thể nhập được tâm Phật ngay nơi thân của mỗi người. Chỗ này người tu thiền gọi tâm đang tan hòa vào hư không mà vẫn thường biết rõ ràng. Hành giả chuyên tu thiền sẽ thể nhập chỗ này rất nhiều, nhưng chỉ lóe lên rồi hết hoặc chỉ là một thời gian ngắn vài ba phút…..? Ở đây Phật dạy phải nhất tâm bất loạn từ một ngày đến bảy ngày thì Phật sẽ rước về Cực lạc….? Cho đến tận bây giờ chưa có ai dám xác nhận cõi Cực lạc ở đâu, trong văn kinh nói vô số ức kiếp về hướng Tây. Nhưng thể nhập tâm trong vài ba phút hoặc một hai giờ thì các hành giả tu thiền….có thể trải nghiệm được. Bàn đến đây chúng ta đã tìm ra yếu chỉ của một tâm không loạn. Hành giả tu thiền muốn tâm không loạn phải làm sao?

-Đối chiếu kinh Lăng Nghiêm: Mắt của chúng ta thấy tất cả mọi hình ảnh sự vật, biết được rõ ràng các màu sắc xanh, đỏ, trắng, đen, nâu, vàng v.v… Cái biết này không thuộc về con mắt mà nương nơi mắt để thấy biết rõ ràng hình ảnh màu sắc một cách không lầm lẫn, sự vật như thế nào thì biết rõ như thế đó, nên gọi là nhãn thức, cái biết nương nơi mắt, tai mũi lưỡi thân ý cũng lại như thế.

Trong Kinh Lăng Nghiêm vua Ba-tư-nặc đứng dậy bạch Phật: Con xưa nay chưa từng nghe sự chỉ dạy của Phật, gặp bọn Ca-chiên-diên, Tỳ-la-chi-tử đều nói: “Thân này sau khi chết không còn gì nữa, gọi là Niết-bàn.” Nay con tuy gặp Phật vẫn còn hồ nghi “làm sao phát huy chứng biết chỗ tâm này chẳng sanh chẳng diệt”?

Phật hỏi: Đại vương! Sắc thân hiện tại của ông là thường trụ chẳng hoại hay là biến hoại? Vua thưa: Bạch Thế Tôn! Thân con hiện nay sinh diệt thay đổi liên tục. Phật bảo: Đại vương! Ông chưa từng diệt làm sao biết nó diệt? Vua thưa: Bạch Thế Tôn! Thân biến hoại vô thường của con tuy chưa từng diệt, song con xem hiện tiền niệm niệm đổi dời luôn luôn chẳng dừng, như lửa tàn thành tro dần dần tiêu mất, nên con có thể biết thân này sẽ từ từ bị tiêu diệt.

Phật bảo: Đại vương! Đúng thế. Nay ông đã già đi theo thời gian, nhan mạo đâu giống lúc còn trẻ? Vua thưa : Bạch Thế Tôn! Thuở xưa con còn trẻ da dẻ tươi nhuận, đến lúc trưởng thành khí huyết sung mãn, nay con già cả suy yếu hình sắc khô khan, tinh thần mờ tối, tóc bạc mặt nhăn không còn bao lâu sẽ chết, làm sao sánh được với lúc khỏe mạnh sung mãn?

Phật bảo: Đại vương! Hình dung của ông đâu có thể già liền? Vua thưa: Bạch Thế Tôn! Nó thầm biến hóa đổi dời thật con chẳng biết, nóng lạnh đổi thay dần dần đến như thế. Vì sao? Khi con hai mươi tuổi tuy nói còn trẻ, hình tướng mặt mũi đã già hơn lúc mười tuổi, đến ba mươi tuổi lại suy hơn hai mươi tuổi, nay con đã sáu mươi hai tuổi rồi nhìn lại khi mới năm mươi tuổi rõ ràng cường tráng khỏe mạnh.

Kính bạch Thế Tôn! Sự thầm đổi dời tuy đặt thời hạn mười năm, song con suy xét kỹ nó biến đổi đâu những mười năm hai mươi năm, mà thật dời đổi từng năm; đâu chỉ từng năm, mà dời đổi từng tháng, đâu những từng tháng mà dời đổi từng ngày. Nhưng nếu suy xét chín chắn tế nhị hơn thì khoảng mỗi sát-na, mỗi niệm luôn đổi dời. Vì thế, nên con biết thân này trọn theo sự biến diệt.

Phật bảo: Đại vương! Ông thấy sự biến hóa đổi dời chẳng dừng, ngộ biết thân ông tiêu diệt; cũng chính khi diệt đó, ông biết trong thân có cái chẳng diệt chăng? Vua chấp tay bạch Phật: Thật con chẳng biết.

Phật bảo: Nay tôi chỉ cho ông biết cái tánh chẳng sanh diệt đó. Đại vương! Ông khi mấy tuổi được thấy sông Hằng? Vua thưa: Khi con được ba tuổi mẹ bồng đi yết kiến Thần Kỳ Bà Thiên ngay nơi sông này, khi ấy con mới biết sông Hằng.

Phật bảo: Đại vương! Như ông đã nói, khi hai mươi tuổi già hơn mười tuổi, cho đến sáu mươi tuổi, năm tháng ngày giờ niệm niệm đổi dời, ắt khi ông ba tuổi thấy sông Hằng đến năm mười ba tuổi thấy sông Hằng, vậy cái thấy ấy ra sao?

Vua thưa: Như lúc ba tuổi rõ ràng không đổi, cho đến hiện nay sáu mươi hai tuổi cái thấy ấy vẫn không có khác. Phật bảo: Nay ông tự lo tóc bạc mặt nhăn, quyết định mặt nhăn hơn lúc còn trẻ, song hiện nay ông thấy sông Hằng cùng với cái thấy sông Hằng thuở xưa có trẻ, có già chăng?

Vua thưa: Kính bạch Thế Tôn! Dạ không ạ. Phật bảo: Đại vương! Mặt ông tuy nhăn, song tánh thấy của ông chưa từng nhăn; nhăn thì biến đổi, chẳng nhăn thì không biến đổi; biến đổi thì bị sanh diệt, cái không biến đổi vốn không sanh diệt, tại sao ở trong ấy chịu sanh tử với ông, mà ông dẫn lời Mạc-dà-lê... đều nói thân này sau khi chết là diệt hết?

Rồi cũng trong kinh Lăng Nghiêm Phật ở trong đại chúng đưa tay lên nắm lại xoè ra, nắm lại xoè ra, hỏi A-nan: "Nay ông thấy cái gì?" A-nan thưa: "Con thấy bàn tay trăm báu của Như Lai ở trong chúng xòe nắm". Phật bảo A-nan: "Ông thấy tay ta ở trong chúng xòe nắm, hay cái thấy của ông có xòe nắm"? A-nan thưa: "Tay trăm báu của Thế Tôn ở trong chúng xòe nắm, con thấy tay Như Lai tự xòe nắm, chẳng phải tánh thấy của con có xòe nắm". Phật hỏi: "Cái nào động, cái nào tịnh”? A-nan thưa: "Tay Phật động, tánh thấy của con còn không có tịnh, huống là động". Phật khen: "Đúng thế".

Khi đọc đoạn kinh trên, chúng ta thấy Phật chỉ rõ ràng ngay nơi thân này cái nào sanh diệt, cái nào chẳng sanh diệt. Thân là dòng biến động thay đổi từng phút giây, từ khi mở mắt chào đời cho đến khi khôn lớn trưởng thành rồi già, bệnh, chết tức là thân này không thật có cho nên vô thường hoại diệt. Tánh thấy nương nơi mắt xưa nay chưa từng thay đổi, thì làm gì có vô thường hoại diệt, bởi vì khi thấy mọi hình ảnh sự vật như thế nào, thì biết rõ như thế ấy mà vẫn thường biết rõ ràng.

Kinh Lăng Nghiêm Phật bảo ngài A Nan đánh tiếng chuông rồi hỏi ngài có nghe không, ngài A Nan trả lời có. Đợi khi tiếng chuông im bặt một hồi lâu, Phật hỏi lại: “Ông có nghe không?”. Ngài A Nan trả lời: “Không nghe!”, liền bị Phật quở: “Tại sao ông quên mình theo vật?” Phật nói tiếp: “khi có tiếng, nghe có tiếng, khi không tiếng, nghe không tiếng”. Tính nghe luôn thường hằng nên có tiếng biết có tiếng, không tiếng biết không tiếng, vậy mà chúng ta không chịu thừa nhận nên luôn sống trong đau khổ lầm mê bởi vì chạy theo âm thanh lớn nhỏ, vừa ý hay không vừa ý.

Trong cái thấy biết mọi hình ảnh sự vật, chúng ta chạy theo phân biệt là gốc vô minh; trong cái thấy biết, thấy chỉ là thấy không phân biệt là Niết-bàn. Đó À là con đường trở về thể tánh chân thật hằng tri, hằng giác. Đó là sự chỉ dạy trong kinh Lăng Nghiêm và các thiền sư đồng một điểm, không có chỗ nào sai khác.

-Đối chiếu thiền sư: Thiền sư Sùng Tín là con nhà bán bánh bao gần chùa, mỗi ngày đem bánh đến cúng dường Thiền sư Đạo Ngộ. Mỗi lần nhận bánh, thiền sư Đạo Ngộ để lại một cái cho sư và nói: "Ta cho ngươi lại một cái, để dành ân huệ cho con cháu về sau." và cứ như thế một thời gian dài. Thầy rất ngạc nhiên nên mới hỏi thì được thiền sư trả lời: "Bánh của ngươi đem đến, ta cho lại ngươi một cái, có lỗi lầm gì"?

Sùng Tín từ đó mới thắc mắc mà không tìm ra đáp số, một hôm ông đến tìm gặp thiền sư hỏi cho biết rõ sự thật. Thiền sư nói: Nếu nhà ngươi muốn biết thì hãy phát tâm xuất gia học đạo đi, ta sẽ vì ông nói. Sùng Tín nghe nói vậy thu xếp việc gia đình xong xuôi, sau đó xuất gia học đạo. Tuy nhiên khi vào Thiền viện đã hơn 3 năm mà sư phụ chẳng chỉ dạy điều gì, làm cho ngài càng thêm thắc mắc hơn, nên tâm mới thành một khối?

Một hôm sư thưa: "Từ ngày con đến đây chưa từng được thầy chỉ dạy tâm yếu". Đạo Ngộ đáp: "Từ ngày ngươi đến đây, ta chưa từng chẳng dạy ngươi". Sư hỏi lại: "Chỉ dạy ở chỗ nào"? Đạo Ngộ bảo: "Ngươi dâng trà, ta vì ngươi mà tiếp. Ngươi bưng cơm đến, ta vì ngươi mà nhận. Ngươi xá lui, ta gật đầu. Chỗ nào chẳng chỉ dạy tâm yếu"? Sư cuối đầu lặng thinh giây lâu. Đạo Ngộ bảo: Thấy thì thẳng đó liền thấy suy nghĩ liền sai. Nghe câu nói này sư có chút tỏ ngộ, rồi lại hỏi thêm: "Con làm sao gìn giữ"? Đạo Ngộ bảo: "Mặc tính tiêu dao, tuỳ duyên phóng khoáng, chỉ hết tâm phàm, chẳng có thánh giải khác". Ngay nơi câu nói này thầy triệt ngộ. Sau thầy đến trụ tại Long Đàm, dạy đồ chúng tu học.

Nói tánh thấy tức là chỉ cái thấy biết thường xuyên ngay nơi mắt chúng ta, khi chưa khởi niệm phân biệt để so sánh đẹp xấu, hơn thua. Thiền sư Sùng Tín lúc còn cư sĩ mỗi ngày phát tâm cúng dường mười cái bánh bao, khi nhận xong thiền sư cho lại Sùng Tín một cái, làm cho ông cư sĩ này phải thắc mắc và ấp ủ trong lòng vì sao có chuyện kỳ lạ như thế! Ngài tự nghĩ thầm, chắc có ý chỉ cao siêu gì đây? Sau nhiều lần gặp thiền sư mong được giải đáp thắc mắc trên, nhưng thiền sư không trả lời mà chỉ nói: “Bánh ngươi cúng, ta cho lại một cái có lỗi lầm gì”?

Hằng ngày ông ta làm bánh bao vừa bán, vừa cúng dường, chúng ta lưu ý, cái gì thấy mà biết là bánh bao. Chính chỗ này, thiền sư muốn chỉ tánh thấy nương nơi mắt để ông nhận ra ông chủ của mình là chơn tâm Phật tính mà sau này chỉ dạy lại cho con cháu về sau. Khi Sùng Tín nhận lại một cái bánh bao, cái gì thấy, cái gì biết, thấy biết cái bánh bao mà chưa khởi niệm phân biệt, vậy ngay khi ấy là gì? Thiền sư quá từ bi cho nên dồn đệ tử vào đường cùng, bắt buộc đệ tử phải chú tâm cao độ vào đó mà không còn nhớ những chuyện gì khác, nhờ vậy lâu ngày trở thành một khối.

Và một giải pháp cuối cùng muốn biết được điều đó thì anh cư sĩ này phải xuất gia. Nhưng khi được xuất gia rồi ông thầy bắt làm thị giả mà chẳng có lời nào chỉ dạy. Mỗi khi hỏi đến thì thiền sư gạt ngang chẳng thèm trả lời. Đây là chiêu thuật của các thiền sư muốn làm cho đệ tử chỉ thắc mắc một vấn đề đó thôi, nhờ vậy bao nhiêu tạp niệm khác, lần hồi rơi rụng theo thời gian vì sự chuyên nhất vào một chỗ.

Đợi cho đến lúc vị đệ tử của mình quá khát khao, thiền sư chỉ nói: Ta lúc nào cũng chỉ dạy tâm yếu? Ông cúng dường bánh cho ta! Ta cho lại ông một cái đó, ông mắt thấy tai nghe rõ ràng như vậy chỗ nào không phải là tâm yếu? Đến chỗ này thì trời đất mênh mông vô cùng tận cũng không ngoài cái thấy biết thanh tịnh như như.

Cho đến khi chúng ta mở hay nhắm mắt, nó cũng luôn luôn hiển lộ. Nó không lệ thuộc hoàn toàn vào mắt, cơ quan mắt tốt thì nó hiện sáng tỏ, cơ quan mắt xấu thì nó hiện lu mờ, cho đến cơ quan mắt hoại nó cũng không bị hoại theo. Người bị mù thì nhắm mắt thấy tối, đồng như người sáng mắt vào trong nhà tối đều vẫn thấy như nhau.

Đó là đặc tính thường biết rõ ràng nói không thể đến của tánh thấy nương nơi mắt, thiền sư Sùng tín nhận được tâm yếu từ tánh thấy, nên sau này giáo hóa mọi người cũng bằng phương pháp này.Cũng trong Kinh Lăng Nghiêm Phật dạy: "sáu căn là gốc luân hồi, sáu căn cũng là gốc Niết-bàn". Người muốn trở về chân tánh thường biết rõ ràng, không có cách nào khác hơn là phải nương vào mắt tai mũi lưỡi thân ý. Sáu căn là gốc luân hồi sinh tử, sáu căn cũng là gốc giải thoát, nguyên nhân vì sao lại có sai biệt như thế? Trong cái thấy biết mọi hình ảnh sự vật, chúng ta chạy theo phân biệt là gốc vô minh; trong cái thấy biết, thấy chỉ là thấy không phân biệt là Niết-bàn. Đó là con đường trở về thể tánh chân thật hằng tri, hằng giác. Đó là sự chỉ dạy trong kinh Lăng Nghiêm và các thiền sư đồng một điểm, không có chỗ nào sai khác.

-MUỐN ĐẠT ĐƯỢC NHẤT TÂM BẤT LOẠN PHẢI ĐẦY ĐỦ GIỚI ĐỊNH TUỆ

Giới định tuệ: Giới như ngọn đèn sáng hay phá tan tối tăm, mờ mịt. Giới như sức mạnh hay dựng đứng những gì đã ngã. Giới như ánh sáng trí tuệ hay chuyển hóa các phiền muộn, khổ đau. Giới là phương thuốc nhiệm mầu, Chữa lành các bệnh khổ đau ở đời.

-Không trực tiếp sát sinh hại vật, xúi bảo người khác giết hại hoặc vui vẻ đồng tình khi thấy người khác giết hại. Người có tâm sát sinh hại vật thì không bao giờ có thể Thiền định, vì trong các nghiệp xấu ác nặng nhất là tội giết hại. Kẻ giết người cùng kẻ bất hiếu với cha mẹ cũng không thể Thiền định. Muốn tu Thiền được kết quả tốt đẹp chúng ta phải từ bỏ giết hại, bởi khi giết vật mắt thấy, tai nghe chúng giãy giụa đau thương nên chủng tử đó huân tập vào tàng thức, lâu ngày ta thấy con vật la khóc đến đòi nợ.

-Người giết hại nhiều hay lo lắng, sợ hãi, bất an nên trong tâm lúc nào cũng day dứt, khó chịu. Người tại gia vì gia đình, người thân nên phải làm việc để có nguồn thu nhập, vẫn phải ăn mặn để đủ sức khoẻ mà dấn thân đóng góp, phục vụ; nhưng nên ăn mặn theo Tam tịnh nhục, không trực tiếp giết hại, không xúi bảo người khác giết hại, không vui vẻ đồng tình khi thấy người khác giết hại. Ta có quyền mua thịt cá đã làm sẵn hoặc đã nấu chín, nếu mua thịt cá mần sẵn thì phải để ý kiểm tra, đừng mua đồ ương thối tuỳ theo kinh nghiệm mỗi người. Người hay sát sinh hại vật tức làm khổ chúng sinh nên không có lòng từ bi, do đó khó mà Thiền định được kết quả tốt đẹp.

-Không gian tham trộm cướp, lấy tài sản của cải người khác. Trộm là lén lấy, cướp là công khai lấy. Muốn Thiền định mà trong tâm cứ tính toán làm sao để lấy của người khác thì chắc chắn không bao giờ tâm an định. Nhân trộm cướp quả hiện đời bị tù tội và nghèo khổ, thiếu thốn. Cho nên, người tại gia tu Thiền mà còn bệnh này tức lòng tham lam, ích kỷ quá nhiều, do đó không thể đạt kết quả như ý muốn.

-Người hay tà dâm cũng vậy, vì lòng dục nặng nề thích đắm sắc mê hoa nên lúc nào cũng toan tính, tìm cách chiếm đoạt để hưởng thụ khoái lạc dục tính. Muốn được như vậy trước nhất người tà dâm phải nói dối “tôi không hạnh phúc” hay “tôi bị bắt buộc”, cốt để làm sao cho người khác phái tin mình. Tham lam, dối gạt để hưởng thụ cho riêng mình là thói quen xấu nhiều đời nhất của đấng mày râu. Dù có vợ đẹp con xinh nhưng vẫn muốn kiếm thêm, vẫn ham thích của lạ để chứng tỏ khả năng chinh phục. Báo chí vừa qua cũng đã đăng tin các đại gia bỏ tiền mua dâm với một số người mẫu, hoa hậu với số tiền quá cao trong một lần quan hệ. Quan niệm chồng chúa vợ tôi, trai năm thê bảy thiếp là tập tục trọng nam khinh nữ phát xuất từ thời phong kiến. Vua có quá nhiều cung phi mỹ nữ nên ít có ông nào sống thọ. Vậy muốn tu Thiền có kết quả tốt chúng ta phải biết tiết chế trong sinh hoạt tình dục bằng cách sống thuỷ chung “một vợ một chồng”. Người quá nặng tính dục sẽ giảm sức khoẻ, tinh thần không sáng suốt nên ngồi Thiền khó an định, do đó tâm niệm cứ lăng xăng dính mắc “ta-người-chúng sinh”.

-Người hay nói dối để lường gạt hoặc hại người cũng khó lòng Thiền định vì tâm tư lúc nào cũng tính toán hơn thua, tìm cách sén bớt của người. Tâm không ngay thẳng, hay nghĩ điều tà dại như nói dóc, nói láo để lường gạt, khoe khoang, nói lời mắng chửi nặng nề tức tâm nóng giận, thù hằn chất chứa nhiều trong lòng. Hạng người như vậy cũng khó mà Thiền định an ổn. Cho nên, muốn tu Thiền đạt được kết quả phải buông xả phiền não tham-sân-si, phải giữ giới không nói dối hại người hoặc nói lời hằn học, mắng chửi.

-Uống rượu hoặc dùng các chất kích thích, ăn uống đồ độc hại, hút chích xì ke ma tuý thì càng không thể Thiền định vì tinh thần mê muội, thân thể bất an, không có tinh thần tự chủ. Khi ta tiêu thụ những thứ trên quá nhiều sẽ làm tàn hại thân tâm, bệnh hoạn, si mê, cuồng loạn; làm hại mình, hại gia đình, người thân và xã hội. Hạng người như thế lúc nào cũng tìm cách lường gạt của người khác, nếu làm có tiền cũng tiêu tốn hết vào đó. Gia đình nào có những con người như thế sẽ khổ đau vô cùng cực vì làm khổ chính mình lẫn gia đình, người thân. Nếu ghiền những thứ đó mà không có tiền thì phải trộm cướp, lường gạt của người khác bằng mọi cách. Một xã hội có nhiều con người như vậy trước sau cũng sẽ tan nhà nát cửa, đất nước loạn lạc, khủng hoảng nhân cách đạo đức làm mất tính người. Biện pháp duy nhất giúp cho con nghiện là sống cách ly xã hội, được hướng dẫn đạo đức tâm linh để tin sâu nhân quả, được tạo công ăn việc làm tại chỗ, sống đơn giản, đạm bạc thì hoạ may mới cứu chữa được; bằng không xã hội phải xây cất nhiều trung tâm thần kinh và trung tâm cai nghiện để chứa những con người này, dần hồi nhà tù sẽ được mở rộng để dung nạp nhiều kẻ lường gạt, trộm cướp, biếng nhác, ăn không ngồi rồi. Hiện nay xã hội chỉ chữa bệnh tạm thời trên phần ngọn nên tốn kém, mất mát, hao hụt quá nhiều; muốn giúp thế gian giảm bớt tệ nạn xã hội chỉ có cách duy nhất làm sao hướng dẫn mọi người tin sâu nhân quả, gieo nhân tốt gặt quả tốt, gieo nhân xấu gặt quả xấu.

Đất nước chúng ta đang trên đà phát triển toàn diện về mọi mặt, nếu con người không ý thức và có hiểu biết chân chính thì chỉ được lợi ích vật chất bên ngoài. Trong bối cảnh hiện nay chúng ta đang sống chung với ô nhiễm môi trường, ô nhiễm văn hóa phẩm đồi truỵ, ô nhiễm thực phẩm đồ ăn thức uống, hầu như đại đa số mọi người đều dùng những hoá chất độc hại đưa vào cơ thể do nhu cầu sự sống. Ngành quản lý chức năng cần hạn chế cấp giấy phép một số hoạt động có tác hại lớn như các quán nhậu, các làng nướng, vũ trường… đang mọc lên như nấm mà không có giờ giấc hạn chế. Cơ sở giáo dục chưa phù hợp với sự hiểu biết của con người nên không có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa học tập, làm việc và tu dưỡng đạo đức tâm linh. Việc thay đổi, phát triển, mở mang là điều tốt nhưng phải dựa theo trình độ dân trí, nếu phát triển quá nhanh sẽ làm con người không theo kịp, thành ra phản tác dụng và làm tổn hại trở lại. Có tiện nghi vật chất đầy đủ mà không có tinh thần sáng suốt, cùng hiểu biết chân chính thì nguy hiểm vô cùng vì sẽ đưa con người vào hố sâu tội lỗi.

Theo sự hiểu biết của chúng tôi, muốn mọi người sống thương yêu đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau trên tinh thần vị tha, biết cảm thông và tha thứ, biết bao dung và độ lượng, hay san sẻ và nâng đỡ bằng tình người trong cuộc sống thì trước nhất ta phải tin sâu nhân quả, tin nhân quả luôn theo ta như bóng với hình, dù trăm kiếp ngàn đời vẫn không mất, khi hội đủ nhân duyên quả báo hoàn tự hiện. Ta tin tâm mình là Phật, siêng năng cố gắng làm lành, buông xả tâm niệm về hành động xấu ác. Ta tin bản thân có khả năng làm được tất cả mọi việc trên thế gian mà không phải cầu khẩn, van xin một đấng quyền năng nào đó. Chính ta là chủ nhân ông của bao điều hoạ phúc.

Ngày xưa khi ta chưa biết tu thì ý nghĩ xấu phát sinh ra lời nói, dẫn đến thân giết hại, trộm cướp, lường gạt của người khác; bây giờ biết tu rồi ta suy nghĩ điều thiện, miệng nói lời từ ái, chân thật, sống bao dung, giúp đỡ người khác. Chúng ta chỉ cần thay đổi nhận thức thì nhân quả xấu sẽ từ từ thay đổi theo chiều hướng tốt đẹp, nhưng ta phải bền chí, kiên trì, đừng ham mau lẹ mà trở thành tham lam. Mình mới tu Thiền chỉ có vài năm mà muốn có kết quả liền thì không thể được vì vô số kiếp khi chưa biết tu ta đã huân tập biết bao nhiêu thói hư, tật xấu; nay biết tu rồi chỉ cần kiên trì, bền bỉ lâu dài thì việc gì cũng có thể làm được; ví như tấm gương sáng lâu ngày bị bụi bám đầy, ta chỉ cần lau bụi phiền não tham-sân-si, ganh ghét, tật đố, ích kỷ, mê muội chất chứa hại người cho đến khi nào bụi hết thì gương tự trong sáng.

Thiền mà chúng tôi đang hướng dẫn ở đây là đi vào đời sống gia đình và xã hội, ai muốn sống tốt, không làm tổn hại người khác thì ngay bây giờ phải biết tu tâm sửa tánh để quay về con người tâm linh của chính mình. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sau khi tu Thiền thành tựu đã giáo hoá 49 năm không biết mệt mỏi, nhàm chán vì Ngài không thấy ai là kẻ thù mà chỉ thấy người chưa thông cảm với nhau mà thôi. Dù bị người hãm hại đủ mọi cách nhưng Phật vẫn không buồn phiền mà còn thương họ nhiều hơn vì Ngài đã sống được với tâm thanh tịnh, sáng suốt. Người không biết tu Thiền khi gặp việc xấu sẽ tìm cách trả thù trở lại nên nhân quả vay trả, trả vay không có ngày thôi dứt.

_Miệng niệm hơi thở hay biết vọng không theo hoặc niệm Phật Bồ-tát, tai chú tâm lắng nghe từng tiếng một rõ ràng, nhờ vậy không bị thất niệm, do đó dễ dàng định tâm. Hành giả Thiền Chỉ một thời gian, nhờ chú tâm nên lâu ngày dẫn đến nhất niệm, chỉ nghe âm thanh niệm Phật Bồ-tát một cách rõ ràng. Hành giả tu đến đây đã được định nên tâm an trú vào câu niệm Phật Bồ-tát.

_Nếu có định mà không có tuệ thì không thể buông xả hết phiền não tham-sân-si và phát tâm giúp đỡ hay san sẻ với mọi người. Do đó, bước thứ hai hành giả phải tu Thiền Quán. “Quán” có nghĩa là xem xét, tìm tòi, soi sáng thân tâm và hoàn cảnh để tìm ra lẽ thật-hư của nó. Trước nhất hành giả quán sát về thân xem có “thật ngã” hay không; sau đó quán sát tâm suy tư, nghĩ tưởng của mình có thật hay không; kế đến là quán sát mọi hiện tượng, sự vật trên thế gian này xem có thật hay không. Khi quán sát như vậy hành giả thấy tất cả đều do nhân duyên hoà hợp mà thành, không có gì là thực thể cố định nên thân tâm, hoàn cảnh đều vô thường hoại diệt, nhờ vậy buông xả hết tâm niệm cố chấp xưa nay khi cho thân tâm này là “thật ngã”.

Hai pháp Thiền Chỉ và Thiền Quán phải được hỗ tương lẫn nhau, có khi hành giả dùng Thiền Chỉ để dừng vọng niệm, có khi dùng Thiền Quán để phát sinh trí tuệ thấy biết đúng như thật. Có định mà không có tuệ gọi là “si định”, có tuệ mà không có định thì vọng niệm mãi lăng xăng.

_Khi hành giả Thiền trong mọi hoàn cảnh và đã định tâm và phát sinh trí tuệ thì sanggiai đoạn bảo trì tính giác, nương nơi mắt thì thấy biết rõ ràng không lầm lẫn, thấy chỉ là thấy nhưng không dính mắc vào sự thấy nên tâm thanh tịnh, sáng suốt; giống như chiếc gương lâu ngày bị bụi bám, bây giờ bụi không còn nữa nên chiếc gương tự sáng trở lại. Giai đoạn này hành giả từ từ chuyển hoá tập khí, thói quen nhiều đời còn xót lại cho đến khi nào vọng niệm hết sạch thì gương trong sáng hoàn toàn, không tỳ vết. Tai có tiếng thì nghe có tiếng, không tiếng nghe không tiếng. Tất cả âm thanh lớn nhỏ đều nghe nhưng không bám dính vào một âm thanh nào, nhờ vậy hành giả thành tựu được tánh nghe. Mũi-lưỡi-thân-ý cũng lại như thế. Đến giai đoạn này hành giả không cần trụ tâm vào Chỉ hay Quán nữa mà chỉ cần nhận diện rõ ràng từng vọng niệm của mình, nó như thế nào thì biết như thế đó thì vọng niệm từ tan hoà vào hư không.

Sau khi niệm Phật Bồ-tát hay quán hơi thở và biết vọng không theo đã thuần thụctức là đang tu thiền chỉ, chúng ta dùng pháp quán chiếu - tức Thiền quán xem xét, soi sáng các pháp duyên sinh vô ngã, vô thường ngay nơi thân tâm, hoàn cảnh; nhờ vậy hành giả biết được lẽ thật của các pháp không thực thể cố định nên dễ dàng buông xả tâm dính mắc “ta-người” và hoàn cảnh bên ngoài; do đó hằng sống với tâm thanh tịnh sáng suốt, không nhơ, không sạch.

Muốn vậy Bồ-tát phải quán trí tuệ rộng lớn để chuyển hóa tối tăm, si mê và sống với tính biết sáng suốt, nương nơi mắt thấy tai nghe không lầm lẫn, thấy chỉ là thấy, nghe chỉ là nghe, mũi-lưỡi-thân-ý cũng lại như thế; từ đó phát khởi lòng từ bi rộng lớn đi vào đời cứu độ chúng sinh mà không thấy mình ban cho, người được cho và vật đã cho.

Thiền chỉ là bước đầu để cột tâm con khỉ ý thức của chính mình, xưa nay chúng ta quen chạy rong ruỗi đầu này đầu kia, muốn cho tâm an định thì phải chú tâm vàoPhật Bồ-tát, hoặc niệm hơi thở hay biết vọng không theo, chú tâm vào mọi oai nghi đi-đứng-nằm-ngồi, nhờ vậy mới từ từ đánh bạt những vọng niệm lăng xăng khác. Thiền Chỉ lâu ngày thuần thục thì phát sinh định tĩnh, nhưng trụ vào đây mãi sẽ trở thành si định vì không có trí tuệ nên không đủ sức hoá giải phiền não tham-sân-si.

Thiền Quán để thấy rõ thực chất thân tâm và hoàn cảnh. Nhờ xem xét, quán chiếu, ta thấy thân này không thật có, do bốn chất đất-nước-gió-lửa hợp thành bởi tinh cha, huyết mẹ cùng với thần thức một chúng sinh. Nếu thân này thiệt thì trước sau như một không biến chuyển, đổi thay, bởi nó giả nên phải già-bệnh-chết. Rồi hằng ngày ta phải vay mượn các thức ăn uống để nuôi thân, mượn vô rồi phải trả ra, cứ như thế hết vay mượn lại trả ra, cho đến khi nào không còn vay mượn nữa thì mạng sống chấm dứt. Nhưng chết không phải là hết, chết chỉ là thay hình đổi dạng, nếu trong đời này ta không biết tu tâm sửa tánh để sống có nhân cách đạo đức và giúp đỡ người khác thì mình khó có cơ hội làm người trở lại khi mất thân này.

Đức Phật có tầm nhìn và sự hiểu biết sâu rộng hơn, nhờ trải qua hai lối sống thái quá, nên Ngài biết cách tìm về con đường trung đạo, nhằm giúp bản thân hoàn thiện, cùng nâng đỡ, sẻ chia, để mọi người cùng đạt đến sự an lạc, hạnh phúc trong cuộc sống hiện tại.

Chính vì vậy, ai biết tu Thiền sẽ sống một đời bình yên, hạnh phúc trong hiện tại và mai sau. Ai không biết tu Thiền khi phước hết hoạ đến sẽ trả quả xấu ác, lúc này dù có ăn năn hối hận cũng đã muộn. Phật dạy “giống như con rùa mù 100 năm mới trồi lên trong biển cả, để tìm được bọng cây chui vào rất khó”. Cũng vậy, nếu ngay trong hiện đời ta không biết gieo trồng phước báo thì khó có cơ hội được làm người trở lại. Người tại gia phải cố gắng gia công Thiền định trong bốn oai nghi cho đến khi nào tâm dứt hết các tạp niệm phải quấy, hơn thua, buồn thương, giận ghét mà lặng lẽ, thanh tịnh mới thật là an nhiên, tự tại. Thật ra không phải vậy, người tu bỏ những niệm lăng xăng tạp loạn để tập trung vào một việc thì sáng thêm chớ làm sao ngu được.

Khi làm việc cũng vậy, nếu buông hết chuyện tạp, tập trung, chú tâm vào công việc thì kết quả sẽ tốt hơn. Khi ta càng buông lại càng nhớ, nhớ một cách tự nhiên, trong sáng nên mọi việc hiện ra rất rõ ràng, phân minh. Chúng ta thử nghiệm xét lại xem khi nào mình rối mà việc này, việc kia cứ dồn dập đến thì mình quên trước, quên sau, không có đầu đuôi gì hết. Khi ấy chúng ta chỉ cần ngồi Thiền, tập trung lại một chút sẽ nhớ rõ ràng trở lại, chính vì vậy nhiều người mới tập tu Thiền. Nhiều người nói không nhớ gì hết nhưng sao đến lúc ngồi Thiền lại nhớ nghĩ đủ chuyện trên đời.

Lúc chưa Thiền ta không có thời gian định tâm nên việc này việc kia chồng chéo lên nhau nên mình không nhớ, khi ngồi Thiền tâm an tịnh nên ta nhớ biết rõ ràng đủ thứ chuyện. Xưa nay ta lãng quên không biết ứng dụng Thiền vào cuộc sống nên thấy khó tu, giờ đã tu nên khi ngồi lại thấy rõ ràng từng vọng niệm thương ghét phát sinh nhưng không dính mắc theo, chỉ nhìn chúng rõ ràng thì tự động chúng lặng xuống, ta khỏi cần phải xua đuổi hay đối trị gì hết.

- TÂM PHẬT VÀ NIẾT BÀN:

Ngày xưa khi Đức Phật ngồi Thiền dưới cội bồ-đề và chứng được Túc Mạng Minh, Ngài nhớ lại vô số kiếp trước đã làm gì, ở đâu như nhớ chuyện ngày hôm qua. Khi buông hết các tạp niệm lăng xăng ta tưởng như quên hết mọi việc nhưng trái lại càng Thiền càng nhớ rõ nhưng tâm không dính mắc, việc gì cần nhớ thì nhớ, không cần thì thôi. Hiểu như vậy ta mới thấy tâm mình là kho chứa đựng các thứ buồn thương, giận ghét, tốt xấu, phải quấy, hơn thua. Những thứ cần biết thì ta không biết, những thứ không cần biết ta lại tìm tòi để dính mắc vào đó nên sinh ra phiền muộn, khổ đau.

Chúng ta nên nhớ việc gì đáng lo thì mình lo, việc gì không đáng lo thì đừng bận tâm đến. Người khéo tu Thiền trong mọi hoàn cảnh lúc nào cũng nhớ quay lại chính mình, nhận ra và sống được với Phật tính sáng suốt; ngoài ra tất cả đều là vô thường hư ảo nên không cần chú tâm đến làm gì, như thế các tạp niệm lăng xăng từ từ không có chỗ bám víu, sẽ tan hoà vào chân tâm. Đến đây thì,

Ở đời vui đạo hãy tuỳ duyên,

Đói đến thì ăn, mệt ngủ liền.

Trong nhà có báu thôi tìm kiếm,

Đối cảnh không tâm chớ hỏi thiền.

Đây là bài kệ của vua Trần Nhân Tông khi còn làm Thái Thượng Hoàng. Ở giữa cuộc đời này mà ta luôn sống làm tròn trách nhiệm, bổn phận đối với gia đình người thân và còn đóng góp lợi ích cho xã hội. Sống và làm việc như vậy mà không bị dính nhiễm bụi trần nên thân tâm an ổn, nhẹ nhàng. Người đã thể nhập chân lý không còn lo toan, bận bịu một thứ gì. Việc gì cần làm thì làm, làm trong vui vẻ, an nhiên; cho nên đói thì ăn mà không thèm khát, khi mệt thì đi ngủ một giấc ngon lành như Lục tổ nói, “duỗi thẳng hai chân ngủ”.

Ngay nơi thân này mình đã sống với ông Phật của chính mình nên đâu cần tìm cầu, tìm kiếm nơi khác, khỏi phải lăng xăng chạy tìm Phật pháp ở phương nào. Ý nghĩa câu kệ cuối cùng rất quan trọng, khi làm việc, tiếp xúc, đối duyên chạm cảnh thì tâm hằng biết mà không tính toán so đo, do đó bình an, tự tại nên không cần phải hỏi tới Thiền. Tâm không vướng mắc với trần cảnh, thấy tức là biết mà không dính vào hình ảnh sự vật, như vậy không phải Thiền là gì? Còn đi tìm kiếm, còn hỏi Thiền là dư rồi, tới đó trong nhà đã có báu nên thôi tìm kiếm, đối cảnh đã vô tâm nên không phải hỏi Thiền.

Như vậy, quyền cao chức trọng, địa vị danh vọng, nhà lầu xe hơi, tiền bạc dư dã, vợ đẹp con xinh, những thứ này người thế gian ai cũng ước ao mong muốn; nhưng vị vua Thiền sư Trần Nhân Tông tuy có đầy đủ mà dám bỏ hết để lên núi tu hành và thành tựu đạo pháp. Gương sáng của Phật hoàng Trần Nhân Tông là ông vua thiền sư đã biết áp dụng Thiền khi làm Thái thượng hoàng, đã truyền mãi đến bây giờ hơn 700 năm, chúng ta may mắn là người dân đất Việt nên được thừa hưởng trực tiếp tinh ba của ngài nhờ biết Thiền trong cuộc sống.

Vua Trần Nhân Tông đã biết áp dụng “Thiền” trong cuộc sống, nên khi xuất gia lên núi Yên Tử tu hành chỉ trong thời gian ngắn đã sáng đạo. Thiền sư xuống núi khuyên dạy mọi người giữ năm giới, tu mười điều thiện và phá bỏ những tập tục mê tín có tính cách làm tổn hại nhân loại. Nhờ vậy Phật giáo đời Trần là một nét son vàng chiếu sáng khắp toàn thể nhân gian nước Việt, phát triển tinh thần làm chủ bản thân nhờ biết “thiền” trong gia đình và cuộc sống.

Chỉ cần mọi người chúng ta noi theo gương hạnh của người xưa qua sự hướng dẫn của chư Tăng ni trong thời hiện tại. Chúng ta có đầy đủ lòng kính trọng Tam bảo vàtin tâm mình là Phật mà cố gắng kiên trì, bền bỉ, dù không thành tựu trọn vẹn trong kiếp này, ta vẫn là người tốt trong hiện tại và mai sau vì đã ta có chất Thiền trong người.

Muốn được thành tựu viên mãn ta phải dùng cây cung Thiền định và lưỡi kiếm trí tuệ để quét sạch mọi ma mị trong tâm, cho đến khi nào thanh tịnh, sáng suốt, lặng lẽ mà hằng chiếu soi muôn sự vật. Cảnh là cảnh, vật là vật, ta là ta cùng hoà hợp nhịp nhàng với nhau bằng tình người trong cuộc sống với trái tim yêu thương và hiểu biết. Mỗi hành giả tu Thiền nên lấy bài kệ của Thiền sư Huyền Giác để nghiệm xét chính mình:

Tỉnh tỉnh lặng lặng phải,
Vô ký lặng lặng sai,
Lặng lặng tỉnh tỉnh phải,
Loạn tưởng tỉnh tỉnh sai.

“Tỉnh tỉnh lặng lặng phải” là sao? “Tỉnh tỉnh” có nghĩa là chúng ta thường biết rõ ràng, “lặng lặng” có nghĩa là không vọng niệm lăng xăng, cho nên “tỉnh tỉnh lặng lặng” là thành tựu viên mãn. Phật đã sống được như vậy trọn vẹn nên không có gì làm cho Ngài dao động, suốt 49 năm giáo hoá bị người mắng chửi, vu oan giá họa bằng mọi thủ đoạn nhưng Phật vẫn an nhiên, tự tại mà chứng minh sự trong sáng của mình. “Vô ký lặng lặng sai” là sao? Ở đây ý nói người tu Thiền nhờ chú tâm vào một chỗ nên tâm an định nhưng không có trí tuệ, do đó rơi vào hôn trầm, không biết gì. “Lặng lặng tỉnh tỉnh phải” cũng giống như đã nói, còn “loạn tưởng tỉnh tỉnh sai” ý nói chúng ta xử dụng Thiền quán nhiều mà phát sinh trí tuệ, nhưng có trí tuệ mà cứ nhớ hoài Thiện pháp, không buông xả được nên khi đó chúng là vọng niệm lăng xăng, tức loạn tưởng. Chỉ có “tỉnh tỉnh lặng lặng” là đúng, coi như thành tựu Phật đạo mà bình thản, an nhiên, tự tại.

Cái biết ai cũng có

Ngay nơi thân mọi người

Chỉ vì ta không nhận

Nên đành chịu khổ đau.

Khi mê thì Phật độ

Khi biết thì tự độ

Đó là lý nhiệm mầu

Của tất cả chư Phật.

Bây giờ chúng ta hãy nghe ông vua thiền sư Trần Thái Tông, ông Tổ của Phật hoàng Trần Nhân Tông lên núi xin Quốc sư Trúc Lâm làm Phật. Quốc sư ân cần nắm tay vua bảo: “ trong núi vốn không có Phật, Phật ở trong tâm ta, nếu tâm lắng lặng thường biết rõ ràng thì đó chính là tâm Phật. Bệ hạ giác ngộ được tâm ấy thì tức khắc thành Phật, không cần phải khổ nhọc tìm cầu bên ngoài”. Ngay nơi đây mọi hành giả tu thiền sẽ nhận lại cái sẵn có nơi mình, cái đó rỗng rang sáng suốt nhiệm mầu nói không thể đến. Trong nhà Phật có nhiều danh từ để chỉ ra cái biết sáng suốt của mình. Để nói lên sự bình đẳng của một chúng sinh Phật đã từng xác quyết rằng “ ta là Phật đã thành, chúng sinh là Phật sẽ thành”. Phật là danh từ chung, ai cũng có quyền sống với cái biết sáng suốt của mình nương nơi mắt tai mũi lưỡi thân ý hay còn gọi là Phật tánh.

Như ngài Thần Quang trước khi gặp Tổ Bồ-Đề-Đạt-Ma là ông tổ của Thiền tông, hành giả Thần Quang dù có ngồi Thiền cả ngày mà tâm niệm vẫn cứ lăng xăng, loạn động. Cho nên một hôm gặp được Tổ, Ngài thưa hỏi pháp yếu liễu thoát sinh sử!

Ngài Thần Quang thưa rằng: “tâm con không an, xin thầy chỉ dạy”. Tổ bảo, ngươi đem tâm ra đây ta an cho. Theo thói quen hằng ngày, ai cũng thấy tâm của mình là thật có, cho nên tôi suy nghĩ, tôi tính toán mọi đúng sai trong cuộc đời, và tôi là tất cả… Ở đây, bằng diệu thuật trong nhà thiền Tổ không nói cái gì cao siêu mà chỉ bảo rằng, “ông đem tâm ra ta an cho”. Ngài Thần Quang quay lại tìm tâm không thể được vì tâm có lúc ẩn, lúc hiện không rõ ràng, nên khi nhìn lại không thấy tâm ở đâu, do đó Ngài thưa với Tổ: Con tìm tâm không thể được. Tổ bảo: “Ta đã an tâm cho ngươi rồi”.

Như vậy, an tâm là ở chỗ nào? Chỗ này quý vị phải nhìn kỹ lại mới thấy rõ ý sâu xa của nó. Đây là diệu thuật của Tổ Bồ-Đề-Đạt-Ma, “pháp an tâm” của Tổ rất đơn giản và bình thường, bình thường đến nỗi ta khó mà chấp nhận được. Khi có niệm tham khởi lên, ta biết ta đang tham, biết một cách rõ ràng, không nhầm lẫn, đó là “pháp an tâm”. Khi biết như vậy niệm tham tự nhiên biến mất, ngay khi đó không phải an tâm là gì? An mà không có chỗ để an, chỉ đơn giản vậy thôi.

Một hôm, tổ Huệ Khả sau thời gian nhận pháp an tâm, rồi đến trình Tổ sư: Con đã dứt hết các duyên. Tổ nói: Coi chừng rơi vào không. Huệ Khả thưa: Không rơi được. Tổ hỏi lại: Làm sao con biết? Con rõ ràng thường biết, nói không thể đến. Tổ bảo: Đây là chỗ truyền của chư Phật, xin chớ có hoài nghi.

Đến đây, ông tổ thiền tông ấn chứng cho tổ Huệ Khả đã sống trọn vẹn với pháp an tâm. Cái chỗ con tìm tâm không thể được mà vẫn thường biết rõ ràng đó, ai biết? Khi mắt chúng ta nhìn thấy mọi hình ảnh sự vật, đen biết đen, đỏ biết đỏ, sự vật như thế nào biết rõ như thế đó, thấy chỉ là thấy, thấy tức là biết, biết tức là tâm, tâm tức Phật.

Thân là cây Bồ Đề
Tâm như đài gương sáng
Luôn luôn siêng lau chùi
Chớ để dính bụi bặm.

Ngài Thần Tú ví thân này như cây Bồ đề cũng đúng, nếu không có thân làm sao mình có cơ hội làm những điều thiện ích. Do đó, ngài Thần Tú nói “tâm như đài gương sáng”. Thân và tâm không thể tách rời nhau, thân làm việc tốt hay xấu là do tâm điều khiển, chỉ đạo. Mặc dù tâm như đài gương sáng, trong sạch, tinh khiết, thuần nhất nhưng nếu ta cứ để cho lòng tham lam, ích kỷ, hờn giận, si mê, ghen ghét, hận thù chen vào thì sẽ dẫn đến tranh đấu, giành giựt, tìm cách sát phạt, triệt buộc lẫn nhau để vơ vét về cho riêng mình mà làm tổn hại cho người và vật. Tâm si mê, mù quáng do thấy biết sai lầm nên đưa thân đi tới những hành động nông nổi, thấp hèn mà tạo nghiệp tày trời làm khổ đau nhân loại. Tâm nóng giận, hờn mát dẫn đến ăn không tiêu, khó ngủ, lâu ngày phát sinh bệnh suy nhược thần kinh. Bởi vậy, tâm là chủ nhân của bao điều họa phúc, thiện ác, nên hư, thành bại trong cuộc đời.

Chính vì thế, muốn thân đứng vững mà không làm các việc xấu ác để sống lâu dài thì phải an tâm. Tâm an thì họa trở thành phúc, ngu trở thành trí, khổ đau phiền muộn trở thành an lạc hạnh phúc. Tâm không an thì họa khổ đau sẽ làm cho thân dễ bị nghiêng ngã. Cho nên từ xưa đến nay các bậc hiền thánh đều tu tâm trước rồi mới lập thân, nhờ đó mà thân đứng vững vàng để đi vào đời làm lợi ích cho tha nhân mà không bị dòng đời cuốn trôi. Ngài Thần Tú cũng vì thế mới chỉ dạy phải luôn luôn dọn dẹp phiền não tham-sân-si, muốn vậy ta phải siêng năng lau chùi bụi bặm bám dính đầy nơi thân.

Lời dạy của ngài Thần Tú phù hợp với số đông nên dễ hành trì vì chúng sinh nghiệp tập sâu dày. Bản chất của tâm được ví như đài gương sáng nhưng vì bị bụi phiền não dính vào, ta chỉ việc lau chụi bụi bám dính trên mặt gương, khi bụi hết gương sẽ trong sáng trở lại. Bài kệ của ngài Thần Tú khi được viết trên vách khi được Ngũ tổ đọc xong liền nói chỉ để lại một bài kệ này cho mọi người đọc tụng, thọ trì y như bài kệ này mà tu hành khỏi bị đọa vào ba đường ác địa ngục, quỷ đói, súc sinh. Những ai y bài kệ này mà tu hành thì lợi ích rất lớn. Tất cả mọi người trong chùa khi tụng đọc bài kệ thảy đều khen hay. Rõ ràng, nếu nhìn ở chiều có sự quán chiếu thực thể hai mặt, kẻ si mê chấp thân là thật ta, rồi đến của ta. Ngược lại với kẻ si mê là những người trí tuệ, tuy biết thân này giả có, không thực thể cố định nhưng không vì thế mà họ bi quan, chán nản. Họ biết lợi dụng thân này để tu tập chuyển hóa, nhờ vậy biết kết hợp nhuần nhuyễn tu thân-miệng-ý, do đó đạt được lợi ích thật sự. Kẻ mê thì bám víu vào thân để gây tạo những điều tội lỗi, người trí tỉnh giác nương nơi thân để làm những việc thiện lành, tốt đẹp mà giúp người, cứu vật. Trong Kinh Pháp Cú Phật dạy:

Trong các pháp do tâm làm chủ
Tâm dẫn đầu tạo đủ các duyên
Tâm mê tạo nghiệp chẳng lành
Như xe lăn bánh, khổ liền theo sau.
Tâm giác tạo nghiệp thiện lành
Như hình với bóng, vui liền theo sau.

Đức Phật nói tâm làm chủ, tức là nói đến cái biết của con người; cái biết phân biệt do ý thức và cái biết thường hằng, tức là cái thường biết rõ ràng. Bài kệ xác định tâm làm chủ tạo ra các duyên tốt hay xấu, nếu biết cách vận dụng nó chúng ta sẽ thoát khỏi khổ đau luân hồi-sinh tử, bằng không sẽ sống trong đau khổ lầm mê. Một số người cho rằng thân là thật và quan trọng hơn hết. Ngược lại, Phật cho rằng nghiệp ý là quan trọng. Khi ý suy nghĩ, miệng nói năng rồi thân mới hành động. Cho nên, đức Phật nói tâm làm chủ, tâm tạo tác tất cả. Chính yếu của sự tu hành là tu ngay nơi thân-miệng-ý mà tâm là chính vì sự tu hành của chúng ta phát xuất từ tâm. Tâm suy nghĩ chân chính rồi mới phát sinh ra hành động tốt đẹp. Tâm suy nghĩ tà thì phát sinh ra những hành động xấu ác. Vậy thân này hành động tốt hay xấu đều do tâm chủ động điều hành nên tâm là quan trọng hơn hết, không có tâm thân này như phế bỏ.

Đi xa hơn nữa, ngài Lục tổ Huệ Năng đi thẳng vào phần tinh thần, có nghĩa là trực chỉ nơi tâm mà thể nhập cái gốc ban đầu là Phật tính sáng suốt nương nơi mắt-tai-mũi-lưỡi-thân-ý. Chính vì vậy mà Ngài nói bài kệ:

Bồ đề vốn không cây
Gương sáng chẳng phải đài.
Xưa nay không một vật
Chỗ nào dính bụi bặm?

Bồ đề là chỉ cho cái biết sáng suốt nương nơi mắt-tai-mũi-lưỡi-thân-ý, cái biết ấy không có hình tướng mà chỉ thường biết rõ ràng thì làm sao thân là cây Bồ đề được. Thân tuy hiện hữu nhưng lại không có thực thể cố định nên có sinh-già-bệnh-chết thì làm gì có hình tướng thật. Cho nên, ngài Thần Tú nói thân là cây Bồ đề, còn Lục tổ nói Bồ đề là tính giác sáng suốt. Qua câu nói này ta thấy thân tâm không tách rời nhau. Tâm trong sáng, thanh tịnh thì biến hiện ra thân đẹp đẽ, trang nghiêm. Câu nói “tâm như đài gương sáng” của ngài Thần Tú ý nói gương thì nó tự sáng chớ không phải do đài mà gương được sáng trong. Cái gì thật thì trước sau như một, không cần thứ gì tô điểm thêm cho nó. Bản chất của gương xưa nay là tự sáng, chỉ vì bị bụi lâu ngày bám dính nên bị lu mờ, khi bụi hết thì gương sáng rỡ chiếu khắp cả nhân gian. Ngài Huệ Năng lại nói chỗ đó không hình tướng nên xưa nay không có vật nào. Vậy chỗ nào dính bụi bặm?

Lục tổ Huệ Năng thể nhập tính biết thanh tịnh, sáng suốt nên chỗ thấy của ngài trong sạch, lặng lẽ, sáng trong mà hay soi sáng muôn loài vật. Cái thấy của Lục tổ Huệ Năng là nói theo thể tánh không có hình tướng đối đãi, đó là đỉnh cao của Phật pháp. Chúng ta bị dính mắc đủ thứ nên phải xả bỏ từ từ, chính vì vậy mà chúng ta phải siêng năng lau chùi, bữa nào làm biếng thì lại để bụi dính bám đầy.

Ngài Thần Tú và cả Lục tổ Huệ Năng đều nói đúng. Ngài Thần Tú thì chỉ dạy theo thứ lớp để số đông dễ tiếp thu mà cố gắng kiên trì bền bỉ lau chùi, dọn dẹp cho đến khi bụi phiền não hết rồi cũng đồng một chỗ sáng. Ngày nay, có một số người không chịu tu sửa mà chỉ biết lấy lời tổ để dẫn chứng lý luận suông nên rơi vào Thiền trên miệng lưỡi, thực tế thì phiền não tham-sân-si đầy dẫy. Người sau này lại có bệnh người xưa nói sao mình nghe vậy mà không có sự chiêm nghiệm, quán xét, chiếu soi. Do vậy mà có tổ nói: “Việc lớn chưa sáng như đưa ma mẹ, nhưng việc lớn sáng rồi cũng như đưa ma mẹ.” Bởi vì chúng ta mới thấy biết Phật nhân mà thôi, còn quá trình sống với Phật quả cần phải có thời gian lâu dài mới được. Chính vì vậy mà Lục tổ phải mất 18 năm mới thành tựu viên mãn và bắt đầu ra giáo hóa.

Khi niệm Phật đến chỗ “nhất tâm bất loạn” , thì tâm đã là cõi Tịnh Độ rồi.Kinh Di Đà là kinh biểu tượng mang ẩn dụ sâu sắc, cho nên ta phải đọc ra đằng sau ngôn ngữ và đằng sau hình ảnh biểu tượng đề tìm cho ra cái thực là một tâm không loạn.

Vào thời Phật giáo Lý-Trần, Thiền tông ở Việt Nam được tồn tại rất lâu dài. Đời Trần, pháp môn niệm Phật đã trở thành quan trọng. Vua Trần Thái Tông và vua Phật hoàng Trần Nhân Tông đã tu thiền. Chúng ta hãy lắng nghe tổ tiên Việt Nam nói về Tịnh độ. Trước hết, vua Trần Thái Tông, trong tác phẩm Khóa Hư Lục đã viết như sau:

"Niệm Phật là do tâm phát khởi, tâm phát khởi về nẻo Thiện thì đó là thiện niệm, thiện niệm đã phát khởi thì thiện nghiệp sẽ đền bồi.Tâm phát khởi về nẻo Ác thì đó là ác niệm, ác niệm đã sinh thì ác nghiệp sẽ ứng nghiệm. Như gương hiện ảnh, như bóng theo hình. Vì bản chất của gương là tự sáng, nếu gương sáng thì ảnh sẽ hiện ra, bây giờ ta chỉ cần chùi bụi, bụi hết thì gương sáng nhưng ta cứ lầm tưởng là phải chùi gương. Gương sáng rồi thì mọi hình ảnh sự vật sẽ hiển bày ra đó.

Vua Trần Thái Tông nói tất cả đều do tâm. Nếu tâm mình niệm Thiện thì hành động và nếp sống của mình sẽ là thiện nghiệp nhờ vậy mình an vui hạnh phúc chẳng phải tìm cầu xa.

Phật hoàng Trần Nhân Tông nói Tịnh độ là lòng trong sạch. Chớ nhọc tìm cõi Tây phương Cực Lạc. Tổ tiên của chúng ta đã thấy được như thế. Nếu niệm Phật mà niệm theo kiểu thượng thừa đó, thì Phật không phải là một thực tại bên ngoài nữa mà Phật ở trong tâm.

Tin tâm mình là Phật: Chúng ta tin tâm mình là Phật, giống như chiếc gương sáng vì để lâu ngày bị bụi bám vào, muốn gương sáng trở lại phải chịu khó lau chùi, hết bụi tự nhiên gương sẽ sáng. Cũng vậy, chính tâm mình là Phật nhưng vì lâu ngày ta để bụi phiền não tham-sân-si bám vào nên tâm Phật không hiển lộ, đến khi buông bỏ hết mọi vọng niệm thì tâm Phật hằng soi sáng. Không tin tâm mình là Phật thì chúng ta sẽ không cố gắng chuyển hoá phiền não tham-sân-si để được giác ngộ, giải thoát ngay trong cõi đời này. Quả quyết tin tâm mình là Phật là ta đã thành tựu đức tin mãnh liệt, nhờ vậy khi tu Thiền dễ dàng buông xả sự tham đắm, dính mắc từ trước đến giờ.

Trong sự tu hành chúng ta phải khẳng định, tâm mình là Phật mới có thể tự giải thoát sống chết, không một đức Phật hoặc chư vị Bồ-tát nào có thể giải thoát thay thế cho chính mình được. Cuộc sống ngoài xã hội cũng vậy, mọi việc nên hư, thành bại, tốt xấu đều tự chúng ta gầy dựng tạo nên. Chính ta là chủ nhân ông của bao điều hoạ phúc, mình làm lành được hưởng phước, mình làm ác chịu khổ đau, thành Phật hay không là do sự quyết tâm của mỗi người. Ai có đầy đủ đức tin mãnh liệt nơi chính mình thì sẽ không trốn tránh trách nhiệm về mọi hành vi của bản thân, không ỷ lại hay cầu cạnh, nhờ vã kẻ khác, không yếu đuối, hèn nhát trước mọi khó khăn. Chúng ta can đảm đối diện với cuộc sống để tìm cách vươn lên vượt qua cạm bẫy cuộc đời nhằm chuyển hoá nỗi khổ, niềm đau thành an vui, hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ.

Sau khi đối chiếu so sánh phân tích dưới nhiều gốc độ khác nhau, thì học thuyết Tây phương Cực lạc đồng nghĩa với Niết-bàn mà Niệt-bàn là vô sinh thì không có đến đi, còn sinh là còn luân hồi sinh tử. Cực lạc nghĩa rốt ráo là không khổ không vui, còn khổ là còn phiền não nhiễm ô, còn vui là còn dính mắc vào pháp mình đang tu. Vậy Cực lạc đã lìa khổ vui, khổ vui hết thì Niết-bàn hiện tiền. Phật hoàng Trần Nhân Tông nói Tịnh độ là lòng trong sạch, tâm hết sạch phiền não thì như như mà vẫn thường biết rõ ràng. Phật, Phật, Phật không thể thấy…Phật, Phật, Phật không thể nghe….Vậy ai biết, ai nghe…thấy nghe hay biết trong xúc chạm mà vẫn an nhiên tự tại.

____________________

 

Thích Đạt Ma Phổ Giác

Nguồn: thuvienhoasen.org

TRUNG TÂM VĂN HÓA HUYỀN TRÂN - ĐỊA DANH VĂN HOÁ LỊCH SỬ, TÂM LINH Ở CỐ ĐÔ HUẾ.

Tọa lạc dưới chân núi Ngũ Phong, phường An Tây, nằm cách thành phố Huế khoảng 7km về phía Tây, Trung tâm Văn hóa Huyền Trân là một điểm du lịch hấp dẫn thu hút đông đảo người dân địa phương và khách du lịch mỗi khi đến Huế. Nơi đây là điểm du lịch lịch sử có giá trị văn hoá tâm linh, đưa du khách trở về sự kiện lịch sử trọng đại của đất nước Việt Nam trong việc bảo vệ và mở mang bờ cõi vào thời nhà Trần, thế kỷ XIII.

Theo sử liệu, vua Chiêm Thành Jaya Simhavarman III (Chế Mân) để cưới được Công chúa Huyền Trân đã đem hai châu Ô, Lý dâng lên vua Trần làm sính lễ. Vâng mệnh vua cha là Trần Nhân Tông và vua anh Trần Anh Tông, Huyền Trân đã gác tình riêng, gạt lệ xuống thuyền theo chồng, lập mối hòa hiếu và mở mang bờ cõi của đất nước về phương Nam. Đất Thuận Hóa - Phú Xuân - Thừa Thiên Huế cũng được khai sinh từ đó, đến nay đã hơn 700 năm. Để ghi nhớ công ơn của Công chúa, Triều đình nhà Nguyễn (1802 - 1945) đã lập miếu Đại Đế Vương ở làng Lịch Đợi, phường Đúc, TP Huế, thờ các vị khai quốc công thần, trong đó có Công chúa Huyền Trân. Miếu thờ này ngày nay không còn nữa. Năm 2006, nhân kỷ niệm 700 năm Thuận Hóa - Phú Xuân - Thừa Thiên Huế (1306-2006), UBND tỉnh Thừa Thiên Huế đã cho phép Công ty Du lịch Hương Giang đầu tư xây dựng Trung tâm Văn hóa Huyền Trân tại thôn Ngũ Tây, phường An Tây, TP Huế, trên một không gian rộng 28 ha nằm dưới chân núi Ngũ Phong để tri ân công đức của công chúa Huyền Trân. Đây là khu vực có rừng thông xanh bạt ngàn xung quanh, bốn mặt đồi núi trùng điệp. Không gian tĩnh lặng, kỳ vĩ, những làn gió thoang thoảng, mát nhẹ vào mùa hè, toát lên hơi ấm từ lòng đất của núi rừng vào mùa đông, phù hợp với những công trình kiến trúc văn hóa mang tính tâm linh.Từ ngoài dẫn vào là bốn trụ biểu lớn, dưới chân có nghê đá phục chầu, tiếp đến là ba bậc sân rộng lát gạch Bát Tràng, có hồ nước và cầu bắc qua tương tự như cầu Trung Đạo bắc qua hồ Thái Dịch trước điện Thái Hòa của Đại Nội Huế; tiếp nữa là tam quan, rồi đến đền thờ Huyền Trân. Trong đền thờ Huyền Trân có pho tượng Công chúa Huyền Trân ngồi trên ngai được đúc bằng đồng, tượng cao 2,37m, do các nghệ nhân đúc đồng nổi tiếng của phường Đúc, TP Huế cẩn tác. Hậu điện thiết án thờ Đoàn Nhữ Hài, người tương truyền là vị quan người Việt đầu tiên theo lệnh vua vào trấn giữ và yên dân 2 châu Ô, Lý khi 2 châu này về với Đại Việt. Đôi rồng chầu đạt kỷ lục dài nhất Việt Nam sẽ dẫn du khách đến với ngôi đền thờ uy nghi đức vua Phật hoàng Trần Nhân Tông - vị vua có công lớn trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước. Trong đền thờ đức vua Trần Nhân Tông có pho tượng nhà vua rất lớn được làm bằng đồng đỏ nguyên chất, cao 3m, nặng 2 tấn, đúc theo phiên bản lấy từ đền thờ các vua Trần tại Nam Định. Trên đỉnh núi Ngũ Phong ở độ cao 108 mét có tháp chuông Hoà Bình, một quả chuông đồng nguyên chất nặng 1,6 tấn, cao 2,16 mét, tiếng chuông ngân vang lan toả trong cõi thinh không tĩnh lặng để cầu nguyện cho Thế giới Hoà bình - Nhân loại Hạnh phúc. Ngày 30 tháng 12 năm 2016, thực hiện chỉ đạo của UBND tỉnh Thừa Thiên Huế tại Quyết định số 2198/QĐ-UBND ngày 21/9/2016 về việc chuyển giao chức năng quản lý Trung tâm Văn hóa Huyền Trân, Sở Văn hóa và Thể thao phối hợp với Công ty Cổ phần Du lịch Hương Giang tổ chức lễ bàn giao Trung tâm Văn hóa Huyền Trân cho Sở Văn hóa và Thể thao quản lý. Sau khi tiếp nhận, Sở Văn hóa và Thể thao giao trách nhiệm cho Trung tâm Văn hóa Thông tin tỉnh trực tiếp quản lý, khai thác và phát huy các giá trị văn hóa tâm linh, lịch sử. Để phục vụ nhu cầu khách tham quan, dâng hương, chiêm bái, Trung tâm Văn hoa Huyền Trân mở cưa thường xuyên các ngày trong tuần kể cả Thứ Bảy và Chủ Nhật. Đặc biệt, vào mồng 9 tháng Giêng Âm lịch hàng năm, Lễ hội Huyền Trân được tổ chức quy mô và long trọng nhân ngày mất của công chúa Huyền Trân. Đây là một hoạt động thể hiện đạo lý “Uống nước nhớ nguồn” của dân tộc nhằm tri ân các bậc tiền nhân đã có công với dân, với nước trong việc mở mang bờ cõi. Lễ hội đền Huyền Trân Xuân Đinh Dậu 2017 lần đầu tiên được Sở Văn hóa và Thể thao tổ chức có quy mô lớn nhất từ trước đến nay, đầy đủ hai phần lễ và hội. Bên cạnh các phần lễ chính, như: Khai hội, Lễ Tiên Thường (cáo giỗ), Lễ kỵ Công chúa Huyền Trân, còn nhiều hoạt động khác như: Biểu diễn võ cổ truyền, chơi bài Chòi, biểu diễn vật dân tộc, đẩy gậy, trình diễn nghề dệt Zèng, chằm nón, thư pháp, trưng bày các sản phẩm thủ công truyền thống…đã tạo không khí tươi vui phấn khởi trong lễ hội, thu hút đông đảo nhân dân và du khách tham gia. Hiện nay, Trung tâm văn hoá Huyền Trân đã trở thành một điểm du lịch văn hoá tâm linh, lịch sử, thu hút đông đảo người dân địa phương và du khách đến tham quan, chiêm bái tưởng niệm vị công chúa đã có công mở mang bờ cõi nước Việt, góp phần làm phong phú thêm danh sách các địa danh du lịch hấp dẫn ở Huế, thành phố văn hóa ASEAN, thành phố Festival của Việt Nam với quần thể kiến trúc di tích cố đô Huế cùng với nhã nhạc cung đình đã được UNESCO công nhận là di sản văn hoá phi vật thể của nhân loại.

_____________

Hương Linh

Nguồn: trungtamhuyentran.thuathienhue.gov.vn

NHỮNG CÁI NHẤT CỦA PHẬT HOÀNG TRẦN NHÂN TÔNG

Không chỉ là vị vua anh minh, người duy nhất được tôn làm Phật hoàng, ông còn là vị vua có tầm ảnh hưởng quốc tế lớn nhất của dân tộc VN.Trần Nhân Tông( 1258 – 1308), tên thật là Trần Khâm, là vị vua thứ ba của nhà Trần, ở ngôi 15 năm, ông được nhiều sử gia đánh giá là vị vua anh minh nhất trong lịch sử Việt Nam.

Ảnh : Tượng Phật hoàng Trần Nhân Tông được hộ thần nhập tượng tại đỉnh Yên Tử sáng sáng 3/12/2013 

Với tài cai trị xuất sắc, Trần Nhân Tông đưa đất nước Đại Việt đạt đến sự phát triển đỉnh cao trong lịch sử. Ông cũng có vai trò lãnh đạo quan trọng trong thắng lợi của hai cuộc kháng chiến chống Nguyên- Mông lần thứ hai và thứ ba. Với những cống hiến ấy, tên tuổi của vua Trần Nhân Tông đã được các học giả đưa vào danh sách 14 anh hùng dân tộc tiêu biểu nhất của Việt Nam.

Trần Nhân Tông là vị hoàng đế duy nhất được tôn làm Phật hoàng trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc

Sau khi nhường ngôi cho con trai là Trần Anh Tông, ông đã xuất gia tu hành và lập nên Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử- trường phái Phật giáo đặc sắc của Việt Nam. Là tổ thứ nhất của dòng thiền này, về sau vua được dân cung kính gọi là Phật hoàng.

Ảnh: Tượng Phật hoàng Trần Nhân Tông bằng đá trong vườn tháp Huệ Quang ( Hoa Yên- Yên Tử).

Về mặt trí tuệ, Trần Nhân Tông là một trong những vị vua có học vấn uyên thâm nhất trong lịch sử Việt Nam.

 

Sử sách ghi lại, luc sinh thời, vua là người thông minh, hiếu học, đọc hết các sách vở, thông suốt nội điển và ngoại điển. Ông đã viết nhiều tác phẩm có giá trị, nhưng đáng tiếc phần lớn đều đã thất lạc, chỉ cònh lại 25 bài chép trong Việt âm thi tập và Toàn việt thi lục.

Ảnh : Tượng ngọc của Phật hoàng Trần Nhân tông được tôn tạc tại chùa Vĩnh Nghiêm

Trên phạm vi thế giới, Trần Nhân Tông là vị hoàng đế Việt Nam có tầm ảnh hưởng quốc tế lớn nhất của dân tộc.

Tên tuổi của ông đã được đặt cho một viện nghiên cứu đặt tại thành phố Boston của Mỹ, nơi nghiên cứu các giá trị từ di sản vua Trần Nhân Tông đối với thế giới.

Hình ảnh chụp từ Website viện Trần Nhân Tông


Một giải thưởng mang tên Trần Nhân Tông về hoà giải cũng đã được ra đời, là giải thưởng quốc tế đầu tiên mang tên Việt Nam, hàm chứa các giá trị Việt Nam được phổ quát tới toàn nhân loại.

________________

trungtamhuyentran.thuathienhue.gov.vn

MUÔN SỰ NƯỚC TRÔI NƯỚC, TRĂM NĂM LÒNG NÓI LÒNG

Muôn sự nước trôi nước, trăm năm lòng nói lòng. (Vạn sự thủy lưu thủy, bách niên tâm ngữ tâm) là hai câu thơ trong bài thơ năm chữ tám câu Đăng Bảo Đài Sơn của Trần Nhân Tông.
Chúng ta đi vào hai câu thơ này để thấu cảm “tâm sự” của ông: “Một mùa xuân mà tâm sự ở trong trăm đóa hoa”, (Nhất xuân tâm sự bách hoa trung _ bài Xuân Vãn).
 

 

1. Cái nhìn thời gian và lịch sử: vạn sự nước trôi nước.

Ai cũng biết Trần Nhân Tông ở trên đỉnh cao nhất của ngọn triều lịch sử đời Trần. Ông đã đánh thắng quân Nguyên Mông trong hai lần sau cùng, lần thứ hai và lần thứ ba, hai lần khó khăn nhất, vì quân Nguyên Mông đã rút kinh nghiệm thất bại lần đầu và cử Thoát Hoan, con của đại hãn thứ năm là Hốt Tất Liệt và những tướng của chiến trường Á Âu qua đánh Đại Việt. Đế chế Mông Cổ là đế chế hùng mạnh và rộng lớn nhất thời đó, kéo dài từ Á sang Âu và cả Trung Đông. Thế nên Trần Nhân Tông là nhân vật lịch sử của thế giới.
Lịch sử, đó là cảm xúc đời lớn nhất của ông. Khi trở lại Thăng Long trong lần chiến thắng sau cùng , thấy những con ngựa đá lấm bùn, ông thốt lên hai câu thơ đầy hứng khởi, cả đời lẫn đạo, về đất nước:
Xã tắc hai phen phiền ngựa đá
Non sông nghìn thuở vững âu vàng.
Khi làm bài thơ Đăng Bảo Đài Sơn, đất nước đã qua chiến tranh, ông đã nhường ngôi vua cho Trần Anh Tông, lên làm Thái thượng hoàng. Ông đã là một người lính già của những chiến trận oanh liệt ngày xưa:
Người lính già đầu bạc
Kể mãi chuyện Nguyên Phong.
Đứng ở đỉnh cao của ngọn triều lịch sử, ông đã nhìn những biến cố lịch sử như thế nào ?
Muôn sự nước trôi nước
Những biến cố của lịch sử, dù có vinh quang cỡ nào, rồi cũng trôi qua, bởi vì lịch sử là sựtrôi qua, như một dòng sông nhấp nhô những con sóng không hế quay trở lại. Những ngọn triều lịch sử, dù có đỉnh cao cỡ nào, dù có vinh quang cỡ nào, cũng phải “muôn sự nước trôi”.
Nhưng ông không phải là một người tầm thường của cuộc đời sanh tử. Ông là một “người lính già” đặc biệt, một “người lính già” bất tử, vì ông cũng đồng thời là một thiền sư, vì ông đã ngộ đạo với Thượng sĩ Huệ Trung trước đó. Ông là một người “vô sự” trong khi đang tạo nên lịch sử. Thế nên, nếu là một người tầm thường của sanh tử như chúng tachúng tasẽ than thở, tiếc nuối lịch sử: ‘ôi, thời oanh liệt nay còn đâu!’, ‘muôn sự nước trôi rồi!’
Cái nhìn về thời gian, về lịch sử của ông vượt khỏi đời thường, rất siêu xuất, rất đạo Phật, để ông không phải là một tù nhân của lịch sử, dù ông đã tạo ra nó, mà là một người vượt lên lịch sử:
Muôn sự nước trôi nước
“Muôn sự nước trôi”, muôn sự là nước trôi thì hẵn rồi.Làm người ai chẳng thấy thế, ai chẳng chịu như thế.Nhưng cái nhìn của ông rất khác, “muôn sự nước trôi nước”.Muôn sự là nước trôi, và trôi để trở lại thành nước.Lịch sử là những hiện tượng.Những hiện tượngấy trôi qua, tan chìm, biến mất để trở lại thành bản thể vô hình vô hướng của chúng. Lịch sử là những con sóng, khởi lên, dâng cao nhất rồi đi xuống, tan trở lại thành nước.
“Nước trôi nước”: ngay khi nước đang trôi thì vẫn là nước đấy thôi. Ngay khi là sóng nó vẫn là nước đấy thôi.Ngay khi là thời gian, nó vẫn là cái không phải thời gian, cái không cóthời gian.Kinh Lăng Già nói: “Nơi tất cả sự vật, sát na là phi sát na”. Ngay khi đang sanh nó vẫn vô sanh đấy thôi.Ngay khi là thời gian, nó vẫn là cái không phải thời gian, cái không cóthời gian, cái vĩnh cữu vô sanh đấy thôi.
Chúng ta có thể nói đây là cái nhìn “Chân Như duyên khởi”, hay “duyên khởi từ tánh Khôngnên tất cả pháp Không”…..Nhưng với ông, đã vượt khỏi những ý niệm mà thấy trực tiếp sự giải thoát của thời gian, của lịch sử:
Muôn sự nước trôi nước.
Ông là người làm ra lịch sửđồng thời cũng giải thoát khỏi lịch sử. Ở Việt Nam và cả thế giới, đã có mấy người được như thế ?
Khi nói câu trên, tưởng là tôn vinh ông, nhưng tôi mới thấy mình ngu muội. Ông đứng ngoàilịch sử, thế thì nói ông đứng trên đỉnh cao nhất của lịch sử Việt Nam hay ở đáy thấp nhất của lịch sử Việt Nam thì có nghĩa gì? Nói có mấy người được như thế hay tất cả đều được như thế hay hoàn toàn không có ai đã và sẽ được như thế thì có nghĩa gì?
 


2. Sống trong vĩnh cửu: trăm năm lòng nói lòng.

Với người bình thường như chúng ta, thơ ca là để nói lên lòng mình: những buồn vui, những chí khí, những được mất, những ước mơ, những nuối tiếc….. Ông thì khác, bởi vì lòng ông thì khác. Lòng ông là tất cả đời sống trước mắt: “Ở đời vui đạo hãy tùy duyên; đói thì ăn, hề, mệt ngủ yên”.
Lòng ông là tấm gương sáng: “Thân Bồ đề, lòng gương sáng”(Cư trần lạc đạo phú _Hội thứ 9). Vì lòng gương sáng nên sự vật gì ở trong đó cũng là lòng: “Cây bách là lòng” (Hội thứ 9).
Lòng ông là “lòng của trời đất”, thiên địa chi tâm, một từ ngữ của kinh Dịch mà chúng ta có thể dùng như một tham khảo để hiểu lòng ông.
Hơn nữa, lòng ông là Phật, là Như Lai, là Chân Như: “Chỉn Bụt là lòng” (Hội thứ 3). Trong lòng Chân Như đó, tất cả các pháp, tất cả mọi sự vật đều là Chân Như, là tánh Không. Nhưlời nói sau cùng của ông:
Tất cả pháp chẳng sanh
Tất cả pháp chẳng diệt
Nếu thấy hiểu như vậy
Chư Phật thường hiện tiền.
Làm gì có chuyện đến đi?
Lòng ông không phải là một sự vật cụ thể giới hạn ở đâu đó trong không gian và thời gian.Lòng ông không phải là lòng của một đức vua, của một chiến sĩ linh thiêng, không phải của một bậc minh quân, thậm chí không phải của một thiền sư.Lòng ông là tất cả mọi vật, tất cả đời sống, tất cả hiện hữu. Và tất cả hiện hữu này là hiện hữu của Chân Như. Lòng ông là một mùa xuân mà tâm sự ở trong tất cả mọi đóa hoa: “Nhất xuân tâm sự bách hoa trung”.
Lòng ông là “Ba cõi duy chỉ là Tâm, muôn pháp duy chỉ là thức”. Lòng ông là Nhất Tâm: “Ba cõi duy chỉ là Nhất Tâm” (Kinh Hoa Nghiêm, phẩm Thập Địa). Ba cõi duy chỉ là Nhất Tâmbiểu lộ Nhất Tâm:
Trăm năm lòng nói lòng
Hành động nói ấy cũng là vĩnh cửu, trăm năm, ngàn năm, vạn năm, tỷ năm…. Sự việc nói ấy đã nói, đang nói và sẽ nói.Mãi mãi.Với đạo Phật, cái vĩnh cửu là cái vô sanh.Cho nênvĩnh viễn nói cũng có nghĩa là vĩnh viễn không nói, không nói một lời nào.
Sự việc nói ấy hiện giờ đang nói. Và cái hiện giờ đang nói ấy chúng ta tạm gọi là cái vĩnh cửuvĩnh viễn đang nói. Nói là sự hài hòa đầu tiên và cuối cùngVĩnh cửu hài hòa với vĩnh cửuvĩnh cửu đang nói với, nói về, nói lên vĩnh cửu qua mọi sự việc thế gian:
Trăm năm lòng nói lòng.
Cho nên, dù đang đứng, đang đi, đang ngồi hay đang làm, chúng ta thấy mọi sự vẫn đang nói, đang nói với, nói về, nói lên, nói qua nhau, đám mây nói với bầu trời, cỏ cây nói với đất đá, cây cau nói với bờ rào, em bé nói với mùa xuân…..lúc ấy chúng ta đang đi vào lòngTrần Nhân Tông đồng thời cũng là lòng của chính chúng ta. Và chúng ta thấy mình chẳng tách lìa Trần Nhân Tông một mảy ly, chúng ta đang sống, đang nghe, đang nhìn, đang nói như mọi sự đang sống, đang nghe, đang nhìn, đang nói trong sự hài hòa vĩnh cửu. Như lòng Trần Nhân Tông đang nói qua tất cả, dẫu cho trăm năm, ngàn năm, tỷ năm…..LòngTrần Nhân Tông, hay cái vĩnh cửu vô sanh, hay Chân Như, hay tánh Không….đang nói qua mọi sự chúng ta thấy nghe, hay biết:

Trăm năm lòng nói lòng.

________________

Nguyễn Thế Đăng

Nguồn: thuvienhoasen.org

CÓ PHẢI GS. NGUYỄN HUỆ CHI TÌM RA TÊN CỦA TUỆ TRUNG THƯỢNG SĨ LÀ TRẦN TUNG?

Nguyễn Huệ Chi tìm ra Trần Tung sau Nguyễn Lang 4 năm, từ 1973 đến 1977. Sau năm 1975, đất nước thống nhất, giới nghiên cứu KHXH miền Bắc đã dễ dàng được tiếp xúc với các tài liệu và thành quả nghiên cứu ở miền Nam. Chuyện Nguyễn Huệ Chi có thể đã có cuốn “Việt Nam Phật giáo sử luận” của Nguyễn Lang và biến kết quả của thiền sư thành của mình là điều hoàn toàn có thể xảy ra.

 

Tuệ Trung Thượng Sĩ (1230-1291) là một nhân vật lịch sử nổi tiếng thời Trần, người đã từng 2 lần tham gia cầm quân trong cuộc kháng chiến đánh bại quân Nguyên Mông. Ông cũng là thầy dạy, người dẫn dắt vua Trần Nhân Tông đến cửa Thiền và đặt nền móng cho sự phát triển của Thiền phái Trúc Lâm ở thế kỉ XIII-XIV.

 

Với giới nghiên cứu văn học sử đây còn là một trường hợp đặc biệt vì trong nhiều thế kỉ tên thật của Tuệ Trung Thượng Sĩ đã không được xác định đúng. Ngay Bùi Huy Bích (1744-1818) cũng đã nhầm ông thành Trần Quốc Tảng, con thứ của Trần Hưng Đạo. Năm 1973, nhà nghiên cứu Nguyễn Lang (thiền sư Thích Nhất Hạnh) trong cuốn Việt Nam Phật giáo sử luận (NXB Lá bối)[1] công bố việc ông đã xác định được Tuệ Trung Thượng Sĩ chính là Trần Quốc Tung, anh cả chứ không phải là Trần Quốc Tảng con lớn của Trần Hưng Đạo. Ông đã cung cấp đầy đủ những biện lý chứng minh cho điều phát hiện của mình.

 

Năm 1977, tức 4 năm sau, trong Thơ văn Lý – Trần (quyển 1, trang 113-115, Phần khảo luận)[2] và trong bài viết Trần Tung một gương mặt lạ trong làng thơ Thiền thời Lý – Trần[3] Nguyễn Huệ Chi công bố mình đã độc lập tìm ra Trần Tung (bớt một chữ Quốc) chính là Tuệ Trung Thượng Sĩ. Nếu đúng Nguyễn Huệ Chi tự mình tìm ra Trần Tung thì việc này xảy ra sau 4 năm. Có lẽ, chính vì vậy mà Nguyễn Huệ Chi cũng cảm thấy dư luận sẽ có những nghi ngờ nên ông đã chủ động nhắc tới Nguyễn Lang và rào đón:

 

“Tuy vậy, cho đến nay, dư luận bạn đọc vẫn phân vân nửa tin nửa ngờ. Có người còn cho là quá táo bạo và lạ lẫm. Chúng tôi rất hiểu tình thế khó khăn là phải làm sao chiến thắng được một tâm lý quen thuộc vốn đã gắn quá chặt bộ Thượng Sĩ ngữ lục cũng như những sợi dây tinh thần giữa Thiền phái Trúc Lâm với cái tên Trần Quốc Tảng”[3]

 

Dư luận có những ngờ vực cũng là điều dễ hiểu. Một mặt, chưa biết thực hư thế nào nhưng Nguyễn Huệ Chi là người dính líu đến nhiều vụ lình xình và bị không ít người chất vấn về đạo đức khoa học, liêm chính học thuật. Mặt khác, Nguyễn Huệ Chi tìm ra Trần Tung sau Nguyễn Lang 4 năm, từ 1973 đến 1977. Sau năm 1975, đất nước thống nhất, giới nghiên cứu KHXH miền Bắc đã dễ dàng được tiếp xúc với các tài liệu và thành quả nghiên cứu ở miền Nam. Chuyện Nguyễn Huệ Chi có thể đã có cuốn “Việt Nam Phật giáo sử luận” của Nguyễn Lang và biến kết quả của thiền sư thành của mình là điều hoàn toàn có thể xảy ra. Thêm nữa, nếu như phát hiện ra Trần Tung là Tuệ Trung Thượng Sĩ thì đó là một phát hiện khoa học cực kỳ chấn động. Lẽ nào một người nhạy bén như Nguyễn Huệ Chi trong suốt gần 10 năm từ 1968 (khi đọc sách “Cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông” của Hà Văn Tấn và Phạm Thị Tâm) đến 1977 khi “Thơ văn Lý – Trần” tập 1 được ra đời, lại không công bố bất cứ bài viết nào của mình trên các tạp chí khoa học, mà gần gũi nhất là Tạp chí Văn học? Chính vì vậy, bạn đọc có quyền nghi ngờ và một số người đã nêu lên nghi ngờ này. Tuy nhiên, nghi ngờ mới chỉ là giả thiết, chưa được chứng minh một cách đầy đủ.

 

Tháng 10-2013, trong bài Đôi điều gửi tới GS Nguyễn Huệ Chi[4] đăng trên Tuần báo Văn Nghệ, nhà phê bình Nguyễn Hòa đã dẫn lại và so sánh 2 đoạn văn bản: một trích từ Thượng Sĩ hành trạng (Tuệ Trung Thượng Sĩ ngữ lục) của Trần Nhân Tông, một từ Trần Tung một gương mặt lạ trong làng thơ Thiền thời Lý – Trần in trong Văn học cổ cận đại Việt Nam – Từ góc nhìn văn hóa đến các mã nghệ thuật của Nguyễn Huệ Chi và ông Nguyễn Hòa viết:

 

“Không khó để thấy hai đoạn văn trên đây na ná nhau, từ diễn giải đến sự kiện và tư liệu, riêng đoạn của GS Nguyễn Huệ Chi có “thêm mắm thêm muối, vẽ rắn thêm chân” nên dài dòng hơn. Vì GS Nguyễn Huệ Chi sử dụng tài liệu từ Thượng Sĩ hành trạng của Trần Nhân Tông mà không cho biết rõ xuất xứ, nên ở đây có một câu hỏi cần đặt ra: GS Nguyễn Huệ Chi “đạo văn” hay “phóng tác” từ tác phẩm của Trần Nhân Tông nhưng lờ đi, không nói rõ nguồn gốc, hoặc ông bắt chước Nguyễn Lang (đoạn của Nguyễn Lang khá dài nên không dẫn lại, có thể tìm đọc trong: Việt Nam Phật giáo sử luận, tập 1, NXB Lá bối, SG.1973, từ tr.276 đến tr.279; và Việt Nam Phật giáo sử luận, NXB Văn học, H.2008, từ tr.256 đến tr.258), rất mong GS Nguyễn Huệ Chi tường minh vấn đề này”.

 

Với những nghi vấn của Nguyễn Hòa, Nguyễn Huệ Chi im tiếng không trả lời. Thay vào đó tháng 11, tác giả Đặng Văn Sinh đã có bài trả lời: Giáo sư Huệ Chi “đạo văn” hay là nhà phê bình Nguyễn Hoà vu khống?[5]. Đặng Văn Sinh đã bảo vệ Nguyễn Huệ Chi bởi những lập luận sau:

 

1) Ông trích dẫn đoạn văn trong Thượng Sĩ hành trạng của Trần Nhân Tông (bản dịch của Đỗ Văn Hỷ – Nguyễn Huệ Chi dịch, Thơ văn Lý – Trần, tập II, Q. thượng, NXB Khoa học xã hội, H. 1989) và đoạn văn trong Tuệ Trung Thượng Sĩ của Nguyễn Lang (Việt Nam Phật giáo sử luận, phần Tuệ Trung Thượng Sĩ, NXB Lá bối, Sài Gòn, 1973; langmai.org, chương 11) rồi viết: “Xin hỏi ông Nguyễn Hòa nghĩ gì khi học giả Nguyễn Lang cũng tóm lược câu chuyện về Tuệ Trung từ một gốc “Thượng Sĩ hành trạng” của Trần Nhân Tông hệt như học giả Nguyễn Huệ Chi chứ đâu có gì khác? Hay là người này đã tóm lược rồi thì người kia mà “tóm” nữa ắt bị coi là… “đạo văn”?”. Logic của Đặng Văn Sinh là: 2 người cùng tóm lược từ một văn bản gốc “Thượng Sĩ hành trạng” của Trần Nhân Tông thì chuyện có những điều giống nhau là bình thường, không thể nói Nguyễn Huệ Chi đạo văn của Nguyễn Lang.

 

2) Kể lại việc Nguyễn Huệ Chi đã “Huy động rất nhiều tài liệu, sự kiện rồi dùng phương pháp loại suy để chứng minh Tuệ Trung Thượng Sĩ là Trần Quốc Tung, chứ không phải là Trần Quốc Tảng”.

 

3) Trả lời cho “dấu hỏi nghi ngờ” của Nguyễn Hòa: “bản thảo Thơ văn Lý – Trần hoàn thành vào cuối năm 1973, đưa vào nhà in năm 1974 nhưng mãi đến năm 1977 mới ra mắt bạn đọc, vậy trong khoảng thời gian ba năm ấy, ai dám chắc nhóm biên soạn không sửa chữa, bổ sung tư liệu?” Đặng Văn Sinh dẫn lại đoạn văn kể của Nguyễn Huệ Chi trong bài Những năm tháng với Phong Lê[6] để chứng minh cho việc Thơ văn Lý – Trần, tập 1 in xong năm 1977, nhưng thực ra đã hoàn thành từ năm 1974, quá trình in bị kéo dài mất 4 năm.

 

Về lập luận 1, tôi sẽ bàn ở phần tiếp theo trong bài viết này. Trước hết tôi xin nói qua về 2 lập luận sau của Đặng Văn Sinh. Ở lập luận thứ 2, ông Đặng Văn Sinh quên mất một điều: tìm ra Trần Tung và chứng minh Tuệ Trung Thượng Sĩ chính là Trần Tung là 2 bài toán hoàn toàn khác nhau! Tìm ra Trần Tung (Trần Quốc Tung) sau hàng trăm năm nhầm lẫn là một đóng góp có giá trị lớn và khó hơn nhiều so với việc sau khi đã biết thân nhân ông là ai, chứng minh để khẳng định điều đó. Việc chứng minh có lẽ không phải là khó khăn lắm đối với người nghiên cứu lịch sử và văn học cổ trung đại Việt Nam. Đấy là chưa nói, bản thân Nguyễn Lang cũng đã đưa ra những biện lý chứng minh cho điều phát hiện của mình. Về lập luận thứ 3, có lẽ chẳng cần phải bàn nhiều. Lấy những lời kể lể không có chứng minh, không thể kiểm tra của người bị cáo buộc để bảo vệ cho “thân chủ” hoàn toàn không có giá trị.

 

Quay lại về lập luận 1.

 

Lập luận của Đặng Văn Sinh nếu đọc thoáng qua nghe có vẻ có lí, nhưng thực tình không phải như vậy! Tôi sẽ giải thích tại sao.

 

Ở đây chúng ta có 4 văn bản chứ không phải 3 (Thượng Sĩ hành trạng của Trần Nhân Tông và 2 đoạn văn của Nguyễn Lang và Nguyễn Huệ Chi). Xin liệt kê lại đây:

 

- Vb1: Thượng Sĩ hành trạng (Thượng Sĩ ngữ lục) của Trần Nhân Tông (1258-1308), bản gốc chữ Hán[7].

 

- Vb2a: Thượng Sĩ hành trạng, bản dịch nghĩa (Nguyễn Hòa dẫn bản dịch lấy từ sách Tuệ Trung Thượng Sĩ ngữ lục với Lời đầu sách của Hòa thượng Thích Thanh Từ) [8].

 

- Vb2b: Thượng Sĩ hành trạng, bản dịch nghĩa (Đặng Văn Sinh dẫn bản dịch của Đỗ Văn Hỷ – Nguyễn Huệ Chi trong Thơ văn Lý – Trần, tập II, Q. thượng, NXB Khoa học xã hội, 1989).

 

- Vb3: Đoạn văn của Nguyễn Lang kể lại câu chuyện về Tuệ Trung (trích từ Tuệ Trung Thượng Sĩ, NXB Lá bối, Sài Gòn, 1973).

 

- Vb4: Đoạn văn của Nguyễn Huệ Chi kể lại câu chuyện về Tuệ Trung (trích từ Trần Tung một gương mặt lạ trong làng thơ Thiền thời Lý – Trần. Văn học cổ cận đại Việt Nam -

 

Từ góc nhìn văn hóa đến các mã nghệ thuật. NXB Giáo dục, 2013).

 

Tôi nhắc lại đây cả 2 bản dịch Vb2a và Vb2b là vì Nguyễn Hòa và Đặng Văn Sinh mỗi người dẫn ra một bản trong bài viết của mình.

 

Với các văn bản kể trên ta có những nhận xét sau:

 

- Bản gốc chữ Hán chỉ có thể chuyển tải nội dung, thông tin sang các bản dịch (Vb2a, Vb2b) còn văn phong, câu chữ là do người dịch.

 

- Ngoài bản gốc Thượng Sĩ hành trạng bằng chữ Hán của Trần Nhân Tông, theo trình tự thời gian thì đoạn văn của Nguyễn Lang (năm 1973) có trước bản dịch Vb2b (của Đỗ Văn Hỷ – Nguyễn Huệ Chi) và đoạn văn của Nguyễn Huệ Chi.

 

- Người đi sau có thể đạo văn hay bắt chước người đi trước chứ không thể ngược lại.

 

- Văn bản được tính là gốc để xem xét phải là bản gốc chữ Hán Thượng Sĩ hành trạng của Trần Nhân Tông chứ không phải là các bản dịch của nó.

 

- Vì cùng xuất phát từ 1 gốc (bản chữ Hán) thì văn bản của Nguyễn Lang và Nguyễn Huệ Chi (nếu ông thực sự tìm ra Trần Tung một cách độc lập với Nguyễn Lang) chỉ có thể có những điểm giống nhau về nội dung/thông tin có trong bản gốc chữ Hán của Trần Nhân Tông chứ khó có thể giống nhau về câu chữ, từ ngữ sử dụng. Thêm nữa, những nội dung/thông tin không có trong bản gốc chữ Hán mà có cả trong 2 văn bản của Nguyễn Lang và Nguyễn Huệ Chi sẽ là những dấu hiệu nói lên việc người đi sau đã có và sử dụng văn bản của người đi trước.

 

Để tiện theo rõi, các văn bản: Vb2a, Vb2b, Vb3, Vb4 được dẫn lại ở phần Mục lục 2 phía dưới. Qua phân tích 4 văn bản nói trên ta thu được 4 loại nhận xét sau:

 

- Hai đoạn văn của Nguyễn Lang và Nguyễn Huệ Chi hao hao, từa tựa nhau.

 

- Có 1 chỗ câu chữ trong các đoạn văn của Nguyễn Lang và Nguyễn Huệ Chi giống nhau gần như tuyệt đối.

 

- Có 4 chỗ câu chữ trong các đoạn văn của Nguyễn Lang và Nguyễn Huệ Chi giống nhau gần như tuyệt đối, nhưng khác với trong các bản dịch Vb2a, Vb2b.

 

- Có 3 chỗ trong các văn bản của Nguyễn Lang và Nguyễn Huệ Chi có nội dung/thông tin nhưng không có hoặc khác với trong các bản dịch Vb2a, Vb2b.

 

Để làm ví dụ, tôi dẫn lại khổ đầu trong 2 đoạn văn của Nguyễn Lang (Vb3) và của Nguyễn Huệ Chi (Vb4):

 

“Hồi em gái Tuệ Trung Hoàng hậu Thiên Cảm còn sống, một hôm ông được bà mời vào cung ăn tiệc. Trên bàn có những món mặn và món chay, ông đã gắp thức ăn một cách không phân biệt. Hoàng hậu hỏi: “Anh tu thiền mà ăn thịt cá thì làm sao mà thành Phật được?”. Ông cười đáp: “Phật là Phật, anh là anh; anh không cần thành Phật. Phật không cần thành anh. Em chẳng nghe cổ đức nói “Văn Thù là Văn Thù, giải thoát là giải thoát” đó sao?”

 

(Vb3, Nguyễn Lang).

 

“Một lần, Hoàng hậu Nguyên Thánh Thiên Cảm, vợ Trần Thánh Tông, mời ông anh Tuệ Trung vào cung ăn tiệc. Trên bàn tiệc có cả cỗ mặn lẫn cỗ chay. Thấy anh mình trong bữa ăn quên cả kiêng khem mà nhúng đũa cả vào cỗ mặn một cách phóng túng, Hoàng hậu khẽ nhắc ông: “Anh tu thiền mà ăn thịt cá thì làm sao thành Phật được?”.

 

Tuệ Trung Thượng Sĩ cả cười đáp:

 

“Phật là Phật, anh là anh; anh không hề muốn làm Phật, Phật cũng không hề muốn làm anh. Em chẳng nghe cổ đức có nói: Văn Thù là Văn Thù, giải thoát là giải thoát, đó sao?”

 

(Vb4, Nguyễn Huệ Chi).

 

So sánh 2 đoạn văn nói trên ta có các nhận xét:

 

- Nhận xét 2. Trong cả 2 văn bản của Nguyễn Lang (Vb3) và của Nguyễn Huệ Chi (Vb4) đều có câu “Em chẳng nghe cổ đức (có) nói “Anh tu thiền mà ăn thịt cá thì làm sao mà thành Phật được?” giống nhau gần như đến từng chữ, từng từ và câu chữ khác với 2 bản dịch (Vb2a, Vb2b). Bình luận: 2 văn bản dựa từ một gốc chỉ có thể giống nhau về nội dung chứ cách hành văn khó giống nhau, nhất là giống nhau đến từng từ, từng chữ như vậy. Khả năng Nguyễn Huệ Chi đạo lại của Nguyễn Lang là rất lớn.

 

- Nhận xét 3. Các câu “Em chẳng nghe cổ đức nói “Văn Thù là Văn Thù, giải thoát là giải thoát” đó sao?” (Vb3, Nguyễn Lang) và “Em chẳng nghe cổ đức có nói: Văn Thù là Văn Thù, giải thoát là giải thoát, đó sao?” (Vb4, Nguyễn Huệ Chi) gần như giống nhau hoàn toàn. Riêng câu “Văn Thù là Văn Thù, giải thoát là giải thoát” thì trong cả 4 văn bản đều giống nhau như đúc. Bình luận: Câu chữ giống nhau gần như tuyệt đối chứng tỏ khả năng Nguyễn Huệ Chi đạo lại của Nguyễn Lang.

 

Thấy gì qua việc phân tích các văn bản?

 

Cả 4 loại nhận xét nói trên (2 đoạn văn hao hao, từa tựa nhau; câu chữ trong các đoạn văn của Nguyễn Lang và Nguyễn Huệ Chi giống nhau gần như tuyệt đối, nhưng khác với các bản dịch; trong các văn bản của Nguyễn Lang và Nguyễn Huệ Chi có nội dung/thông tin nhưng không có hoặc khác với trong các bản dịch) đều nói lên việc người đi sau (Nguyễn Huệ Chi) đạo của người đi trước (Nguyễn Lang). Một nhận xét cũng đã nói đến khả năng khá cao là Nguyễn Huệ Chi đạo văn. Trong 1 đoạn văn ngắn ngoài việc hai văn bản hao hao như nhau, rút ra 8 nhận xét/chỗ như vậy thì xác suất đạo văn gần như là tuyệt đối.

 

Mà việc đạo văn của Nguyễn Huệ Chi cũng đồng nghĩa với việc ông ăn cắp kết quả của Nguyễn Lang và gán cho mình!

 

Sau những phân tích ở trên, liệu các bạn đọc có còn tin là Nguyễn Huệ Chi đã tự mình phát hiện Tuệ Trung Thượng Sĩ là Trần Tung nữa không? Còn tôi, tôi không tin!

 

Hà Nội, tháng 9-2018

 

Boristo Nguyen

(CHLB Nga)

Tuần Báo Văn Nghệ TP.HCM số 526

——————————-

1) Nguyễn Lang. Việt Nam Phật giáo sử luận. Chương 11: Tuệ Trung Thượng Sĩ. NXB Lá bối, Sài Gòn, 1973 (có thể xem tại trang Langmai.org).

2) Thơ văn Lý – Trần, quyển 1. NXB KHXH, 1977.

3) Nguyễn Huệ Chi. Trần Tung một gương mặt lạ trong làng thơ Thiền thời Lý – Trần. Tạp chí Văn học, số 4, năm 1977. Đăng lại trong tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 3-4, 2014, trang 169-191. 

4) Nguyễn Hòa. Đôi điều gửi tới GS Nguyễn Huệ Chi. Văn nghệ số 41, 2013, trang 16, 24.

5) Đặng Văn Sinh. Giáo sư Huệ Chi “đạo văn” hay là nhà phê bình Nguyễn Hòa vu khống? Forum Diễn Đàn (www.diendan.org). 13-11-2013.

Hoặc có thể đọc trên trang mạng Trần Nhương.

6) Nguyễn Huệ Chi. Những năm tháng với Phong Lê. Talawas, 14-06-2008.

7) Trần Nhân Tông. Thượng Sĩ hành trạng, bản chữ Hán. Thơ văn Lý – Trần, tập 2, quyển Thượng, NXB KHXH, 1989.

8) Trần Nhân Tông. Thượng Sĩ hành trạng trong sách Tuệ Trung Thượng Sĩ ngữ lục với Lời đầu sách của Hòa thượng Thích Thanh Từ. Đã đăng trên Thư viện Hoa sen (thuvienhoasen.org).

ĐÃ SỐNG NHƯ MÂY

Sơ Tổ Trần Nhân Tông khi còn trên ngôi cửu trùng, đã xem ngai vàng như dép rách, danh lợi như phù hư. Tổ thích cuộc sống thanh đạm mà lòng nhẹ như mây. Có lẽ vì thế mà sau khi giao hết vương quyền và trọng trách cho Anh Tông, Người lên núi xuất gia tu hạnh đầu đà, buổi đầu lấy hiệu là Hương Vân.


Hương Vân là mây thơm, mây thì bay muôn phương và che mát cho chúng sanh khắp chốn. Nếu cần bóng râm, mây kết tụ lại che bớt sức nóng của mặt trời. Nếu cần mưa, mây kéo lại dày hơn, đen kịt, tuôn nước xuống rưới khắp mọi nơi. Nếu không cần bóng râm, không cần nước mưa thì mây là mây, thênh thang cùng trời đất. Mây là thế, và Tổ đã sống cuộc đời như mây.



Khi còn tại vị vua Nhân Tông sẵn sàng hy sinh thân mạng để giữ gìn đất nước được vẹn toàn, đánh đuổi giặc Nguyên Mông ra khỏi bờ cõi, mang lại thái bình cho nước cho dân. Sau khi tu hành ngộ đạo, Người chống gậy đi khắp đất nước truyền dạy Phật pháp cho mọi người, giúp họ thăng hoa đời sống tâm linh. Ngài làm muôn sự mà lòng không vướng bận, thanh thoát như mây. Chính vì vậy mà người đời đã tôn xưng Ngài là Tổ, mãi đến hôm nay nếu có ai lần về Yên Tử, đứng trên non cao nhìn về dấu tích chốn xưa Tổ ở mà lòng cũng nhẹ như mây.

Thế thì tâm xưa tâm nay đâu khác, chốn xưa cảnh nay đâu thay đổi gì, nếu ta nhìn bằng cái tâm thực tại hiện tiền sáng rỡ, thì tâm ta tâm Tổ đồng. Chỉ một tâm ấy ta cùng chư Phật không sai không khác. Nhưng sở dĩ ta vẫn là chúng sanh vì tâm ta chưa nhẹ hẳn như mây, ta còn vương mang nhiều quá, tư lự nhiều quá nên tâm ta cách Phật Tổ khá xa.

Trong bài Phú Cư Trần Lạc Đạo, Tổ Nhân Tông có nói: “Gia trung hữu bảo hưu tầm mích”. Tạm dịch: Châu báu đầy nhà thôi đừng chạy kiếm. Tổ khuyên chúng ta hãy ngay nơi ngôi nhà tự tâm mà xoay lại nhìn thì châu báu dùng không hết. Nhưng ta cứ bôn ba tìm cầu, cái gì cũng chụp, cái gì cũng nắm, nên ngôi nhà tâm linh chỉ toàn là đá sỏi. Càng chạy càng nhọc nhằn mà chẳng được tí ti châu báu nào. Đáng thương thay!

Có vị tăng hỏi Tổ:

- Gia phong Hòa thượng thế nào?

Tổ đáp:

“Phá nạp ủng vân triêu khiết chúc,
Cổ bình tả nguyệt dạ tiên trà.”

Tạm dịch:

Áo rách che mây, sáng ăn cháo,
Bình xưa tưới nguyệt, tối uống trà.

Học nhân hỏi về gia phong của Tổ, tức là chỗ sống, chỗ dụng tâm hằng ngày của Tổ thì thế nào? Tổ đáp rất dung dị: Ngày ngày Tổ mặc áo rách, sáng ăn cháo, tối uống trà. Bình thường, đơn giản, đâu có xa xôi. Đó là gia phong của Tổ.

Nhưng trong cái bình thường ta thấy toát lên nét siêu thoát của một vị tăng nhàn đầu núi. Tổ ăn rau cháo qua ngày mà lòng sảng khoái tiêu dao. Tổ mặc áo rách mà tâm không vướng bận, không ưu tư, không toan tính hơn thua, không khổ chuyện mất còn. Từ một bậc đế vương uy quyền tột đỉnh buông tất cả để làm một sơn tăng, sáng vui với cỏ nội mây ngàn, tối bầu bạn với trăng sao, bần mà thanh, nghèo mà sạch, quý ở vô tâm.

Vậy chúng ta có sống được như Tổ chăng? Hiện tại thì chưa được rồi. Vì ta ăn còn phân biệt vị ngon hay dở, mặc vải mà xem là tốt hay xấu,… như thế thì phan duyên nhiều quá. Nếu có lên núi ở chắc ta cũng lục đục quay về, vì tâm còn nặng lợi danh nên bị tuột xuống đất. Để thấy rằng, nói là một chuyện mà hành lại là một chuyện khác, hai cái cách nhau xa như núi với đất bằng. Vì vậy Tổ nhắc chúng ta đừng có vong thân nhiều, phải biết thương mình, thương mình thì đừng có chạy theo cảnh, theo duyên. Phải đối cảnh vô tâm mới hợp với đạo. Vô tâm là sao? Là ta thấy sắc thì chỉ biết thấy. Thấy cái gì biết cái đó rõ ràng mà không khởi tâm phân biệt, không khen chê dính mắc theo duyên bên ngoài. Đó gọi là vô tâm. Chứ không phải vô tâm là không thấy không biết gì cả, như cây khô củi mục. Nếu ta luôn sống trở về với bản tâm chân thật thì ta sẽ không khổ, được an vui. Mới có thể làm sơn tăng sớm đầu núi, tối cuối nghềnh, khát uống nước suối, đói ăn trái rừng, mà tâm nhẹ như mây. Và có thể nói rằng Tổ đã sống bằng tâm mây. Tâm mây không phải là tâm trôi nổi, mà là nhẹ nhàng thanh thoát như mây, hành sự như mây. Để rồi cuối đời Tổ đã chọn am mây làm nơi thị tịch (Ngọa Vân am).

Trong Tam Tổ Trúc Lâm có ghi: Thị giả Bảo Sát trên đường đến am Ngọa Vân theo lời chỉ dạy của Tổ đã “thấy một vầng mây đen từ ngọn Ngọa Vân bay qua Lỗi Sơn và hạ xuống Doanh Tuyền, nước đầy tràn lên cao mấy trượng, giây lát lại bình xuống…”. Khi đến am, Tổ mỉm cười và bảo “Ta sắp đi đây”. Trước khi Tổ vào cõi Niết Bàn, người đệ tử đã thấy trước điềm chẳng lành là vầng mây đen từ am Ngọa Vân bay qua và hạ xuống. Mây tụ mây tan là chuyện thường. Nước từ biển, sông, suối… nhờ sức nóng mặt trời bốc hơi lên tạo thành mây, mây kết tụ tuôn nước xuống lại biển, sông,… đâu hoại đâu thành, chỉ là do duyên. Đủ duyên thì đến hết duyên đi, đi trong cái nhẹ nhàng thanh thoát như mây mới là điều đáng nói, đi trong sự tỉnh giác làm chủ được tử sinh mới là điều đáng cho ta trân quý. Và Tổ đã làm được điều đó, đêm mùng 01 tháng 11 năm Mậu Thân (1308), trời trong sao sáng, Tổ hỏi Bảo Sát: “Hiện giờ là giờ gì?” Bảo Sát bạch: “Giờ Tý”. Tổ lấy tay vén màn cửa sổ nhìn xem, nói: “Đến giờ ta đi”. Thế rồi Ngài nằm theo thế sư tử, an nhiên thị tịch.

Không còn ngôn từ nào để ca ngợi sự tự tại của Tổ giữa lằn ranh sống và chết. Tổ đã tự tại như mây, bay nhẹ như mây, mây tan để rồi trở về cùng hư không, hòa với núi sông. Đâu có mất bao giờ! Và Người đã sống cuộc đời như mây.
__________________

Linh Cẩn

Nguồn: thuongchieu.net

MỘT TÁCH TRÀ

 

Nan-In, một thiền sư Nhật Bản vào thời Minh Trị (1868 - 1912), tiếp một ông giáo sư đại học đến tìm hiểu về Thiền.

Nan-In mời dùng trà. Ông đã rót đầy vào tách của khách và vẫn tiếp tục rót thêm.

Ông giáo sư nhìn nước tràn cho đến khi tự mình không nhịn được thêm nữa. "Tách đã đầy tràn rồi. Không thêm vào được nữa đâu!"

"Giống như cái tách này" Nan-In nói, "ông mang đầy ý kiến và suy đoán riêng của ông. Làm sao tôi có thể chỉ cho ông về Thiền trừ phi ông cạn cái tách của ông trước đã?"

___________

http://www.buddhistedu.org

THÁP CHÀM - PHÚ DIÊN

Vượt chừng 30km từ trung tâm thành phố Huế, xuôi về theo hướng Đông Nam, du khách đến với dải đất trải dài theo hướng Bắc – Nam nằm giữa biển Đông và đầm phá Tam Giang rộng lớn. Tiếp tục xuôi về hướng Nam cách thị trấn Thuận An 14 km là đến xã Phú Diên, huyện Phú Vang. Đi thẳng trục đường này, các bạn sẽ gặp một tấm biển cắm mốc Di tích kiến trúc nghệ thuật Tháp Phú Diên, rẽ phải 200m nữa là tới.

Tháp Phú Diên (hay còn gọi là Tháp Chàm) là một di tích lịch sử, văn hóa độc đáo vừa được các nhà khảo cổ học tìm thấy vào năm 2001 (do trước đó bị cát phủ lấp), thuộc địa phận thôn Mỹ Khánh (xã Phú Diên, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế) với cấu trúc nguyên khối đất nung, không có mái và có vị trí đơn lẻ, khác xa các di tích Tháp Chàm khác.

Theo báo Người đại biểu nhân dân điện tử, Cục văn thư lưu trữ Việt Nam: Kết quả khai quật khảo cổ cho thấy, tháp có hình chữ nhật hướng Đông-Tây. Mặt bằng lớp dưới cùng của tháp dài 8,22m, rộng 7,12m, càng lên cao càng giật cấp thu nhỏ dần với các phần khác nhau gồm móng, chân tháp, thân và diềm mái. Toàn bộ chiều cao tháp còn lại từ 3,1-3,26m, do tháp bị lún nghiêng. Đế tháp có hình chữ nhật cắt góc, cao 0,29m gồm 4 lớp gạch xây liền khít tạo nền vững chắc cho thân tháp. Chân tháp cao 1,25m, kể cả phần thân và phần vòm cửa giả với nhiều lớp trang trí khác nhau. Thân tháp cao 1,36m. Lòng tháp hình chữ nhật hướng Đông-Tây, dài 3,9m, rộng 3,3m. Giữa có bệ thờ cao 0,73m, trên bệ có Yoni bằng sa thạch. Cách 5m phía trước cửa chính của tháp có một bệ thờ được xây hình khối vuông bằng chất liệu gạch với kỹ thuật mài xếp liền khít cao 1,4m, cạnh dài 1,38m, chính giữa bệ còn một lỗ tròn đường kính 0,19m mà các nhà nghiên cứu nghi rằng trước kia đây là nơi đặt tượng thờ.

Quá trình khai quật, người ta còn tìm thấy ở đây một số đồ tế tự như hộp gốm, chân đèn… Kết quả phóng xạ carbon cho thấy tháp được xây dựng từ đầu thế kỷ thứ VIII, thuộc một trong những tháp Chăm cổ nhất Việt Nam. Giới nghiên cứu nhận định, tháp Chăm này nằm trong phong cách chuyển tiếp giữa phong cách kiến trúc cổ Mỹ Sơn E1 sang phong cách kiến trúc tháp Hòa Lai… Đây chính là vùng đất thuộc đất Chămpa và trở thành đất Đại Việt trong sự kiện vua Chămpa Chế Mân dâng Châu Ô và Châu Rí để làm sính lễ cầu hôn công chúa Huyền Trân.

Tháp Chàm được vùi sâu dưới lòng cát từ 5-7m, thấp hơn mực nước biển hiện tại là 3-4 m và chỉ cách mép nước biển 120m nên được gia cố xung quanh rất chắc chắn bằng bê tông để ngăn tình trạng cát lún. Ngoài ra, vì để chống sự xuống cấp của công trình bởi ánh nắng trực tiếp từ khi lộ thiên, Tháp Chàm cũng được bảo vệ bằng lớp kính dày nên gây khó khăn cho du khách khi muốn chụp ảnh và nghiên cứu kỹ hơn về công trình. Tuy nhiên, bạn vẫn có thể chụp ảnh được từ trên cao nhìn xuống và cận cảnh khi lựa chọn góc độ phù hợp.

 

 

Bên cạnh Tháp Chàm là bãi biển Phú Diên trong xanh, luôn thu hút đông đảo du khách tới tham quan, nghỉ mát. Với bãi cát rộng, hiện tại biển Phú Diên cho xây dựng rất nhiều chòi để đảm bảo không bị quá tải lượng khách vào mùa cao điểm như mùa hè này.

 

_____________

khamphahue.com.vn

TÌM VỀ CHỐN TỔ THIỀN TRÚC LÂM TỪ NHỮNG LÁT CẮT KHẢO CỔ

Tưởng niệm 710 năm Ngày Đức Vua Trần Nhân Tông hóa Phật (1-11 âm lịch), chúng tôi đã có cuộc phỏng vấn nhà khảo cổ học TS Nguyễn Văn Anh về những nghiên cứu khảo cổ trong khu vực chốn Tổ Thiền Trúc Lâm và Am Ngọa Vân nơi Đức Vua Trần Nhân Tông nhập Niết bàn.

 

Tháp Phật Hoàng tại chùa Ngọa Vân, xã An Sinh, thị xã Đông Triều, Quảng Ninh.


Phóng viên: Là một nhà nghiên cứu đã giành tâm huyết điều tra, khai quật và nghiên cứu khảo cổ học hơn 10 năm qua tại các di tích chùa tháp của Thiền phái Trúc Lâm, và tìm hiểu quá trình tu luyện thành Phật của Đức Vua Trần Nhân Tông, Tiến sĩ có thể cho biết hành trình đó tiến hành như thế nào?

 

TS Nguyễn Văn Anh: Tháng 8-1299, Thượng hoàng Trần Nhân Tông (1279 -1293) rời bỏ cung Trùng Quang Phủ Thiên Trường (Nam Định) xuất gia vào núi Yên Tử tu hành khổ hạnh, lấy hiệu là Hương Vân Đại Đầu Đà và xưng là Trúc Lâm Đại Sĩ. Tháng 5 năm Đinh Mùi (1307), Trúc Lâm Đại Sĩ lên núi Bảo Đài, lập am nhỏ trên đỉnh Vân Phong làm nơi tu hành, am đó gọi là Am Ngọa Vân. Ngày 1-11 năm Mậu Thân (1308), Ngài “an nhiên viên tịch” ở tư thế sư tử nằm tại Am Ngọa Vân, kết thúc trọn vẹn quá trình tu hành, đắc đạo và hóa Phật của Ngài. Trong hành trình đó, Vân Yên, Tử Tiêu là nơi Ngài tu hành, đắc đạo, giảng pháp, độ tăng còn Ngọa Vân là nơi Ngài thành Phật.

 

Sau khi Trúc Lâm Đại Sĩ hóa Phật, đệ tử của Ngài là Pháp Loa đã tiến hành hỏa táng nhục thể của Ngài ngay tại Ngọa Vân, thu hơn 3.000 viên xá lợi. Tại Ngọa Vân, Pháp Loa cho dựng một tòa bảo tháp gọi là Phật Hoàng tháp làm nơi lưu giữ xá lợi, số còn lại đích thân Vua Trần Anh Tông rước về an trí trong bảo tháp chùa Tư Phúc, một ngôi chùa của Hoàng gia trong Hoàng cung Thăng Long.

 

Là nơi Phật Hoàng Trần Nhân Tông tu hành và hóa Phật, Ngọa Vân cũng chính là chốn Tổ của Thiền Phái Trúc Lâm. Do vậy, sau khi Ngài hóa, được sự trợ duyên của Vua Trần Anh Tông, Tổ thứ hai của Thiền phái Trúc Lâm là Pháp Loa đã xây dựng và mở rộng Ngọa Vân thành một chốn tùng lâm. Nếu trước đây Ngọa Vân chỉ có một am nhỏ làm nơi tu thiền của Phật hoàng, thì đến thời điểm đó, Ngọa Vân đã trở thành một quần thể Chùa-Am với nhiều công trình kiến trúc chùa, tháp. Trong đó, Am Ngọa Vân là nơi thờ Đệ nhất Tổ Phật Hoàng Trần Nhân Tông.

 

Phóng viên: Theo Tiến sĩ, dấu vết về xá lợi của Phật hoàng Trần Nhân Tông hiện lưu ở đâu?

 

TS Nguyễn Văn Anh: Theo ghi chép của các nguồn sử liệu và những nghiên cứu gần đây cho biết, xá lợi của Phật hoàng được rước về an trí tại bảo tháp của chùa Tư Phúc trong Hoàng thành Thăng Long, sau đó được phân phát đi nhiều nơi, bao gồm: Bảo tháp ở Đức Lăng phủ Long Hưng, nay thuộc thôn Tam Đường, Hưng Hà, Thái Bình, nơi có một số lăng tẩm của các vua đầu triều nhà Trần; Bảo tháp Phổ Minh tại chùa Phổ Minh phủ Thiên Trường, nay là chùa Phổ Minh TP Nam Định; Tháp Báo Thiên bên hồ Lục Thủy (hồ Hoàn Kiếm); Tháp Tuệ Quang tại Hoa Yên (thường gọi là Tháp Tổ tại chùa Hoa Yên), nay thuộc Khu di tích danh thắng Yên Tử, TP Uông Bí, Quảng Ninh. Năm 1327 sau khi mở Quỳnh Lâm viện, một trung tâm đào tạo tăng tài lớn và quan trọng nhất của thiền phái Trúc Lâm, có hai tòa bảo tháp để lưu giữ xá lợi Phật hoàng tại Quỳnh Lâm và một phần được an trí tại bảo tháp chùa Tư Phúc.

 

Ngày nay, hầu hết các điển an trí xá lợi của Phật hoàng đều trở thành phế tích, có lẽ xá lợi còn lại được biết chính xác nhất là tại Tháp Phổ Minh. Sách Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú có chép lại chuyện, khi quân Tây Sơn đánh ra ngoài bắc, quân sĩ phá chóp tháp để lấy đồng đúc vũ khí, khi phá đến tầng 11, họ phát hiện trong đó có một cái hòm. Khi mở, hòm phát tia sáng nên họ sợ để lại. Năm 1986, khi trùng tu Tháp Phổ Minh, lãnh đạo tỉnh có cho kiểm tra lại xem ghi chép lịch sử có đúng hay không? thì đã tìm thấy hòm xá lỵ ở tầng thứ 11 như ghi chép của sử cũ. Những người trực tiếp tham gia việc trùng tu cho biết, hòm được xích sắt và rất nhiều lớp, nhưng người ta không dám mở ra, vì vậy thực hư trong đó có gì và bao nhiêu lớp thì hiện nay cũng không ai biết.

 

Phóng viên: Một di tích quan trọng vốn là chốn Tổ không chỉ của Phật giáo Trúc Lâm mà là của Phật giáo Việt Nam nhưng sao đến nay vẫn ít người biết đến như vậy?

 

TS Nguyễn Văn Anh: Rất đáng buồn vì điều anh băn khoăn lại là thực tế. Ít người biết đến Ngọa Vân và Ngọa Vân nằm ở đâu, mặc dù việc tìm hiểu về Ngọa Vân đã từng là vấn đề quan trọng trong chương trình nghiên cứu về thời Trần và văn thời Lý - Trần của nhiều viện nghiên cứu chuyên ngành như Viện Khảo cổ học, Viện Văn học, Viện Mỹ thuật,v.v. liên quan đến vấn đề này cũng có nhiều ý kiến khác nhau, thậm trí là trái chiều, nhưng nhìn chung mọi ý kiến đều cho rằng Ngọa Vân là một am nhỏ nằm trong khu vực Yên Tử thuộc Uông Bí. Vấn đề là việc các nhà nghiên cứu tự khoanh cho mình giới hạn của Yên Tử xưa trong quan niệm của Yên Tử nay. Do vậy, người ta đã loại trừ các vị trí bên ngoài Yên Tử, kết quả không ai đưa ra được bằng chứng nào có tính thuyết phục về vị trí của Ngọa Vân, và Ngọa Vân vẫn là một khoảng trống không được lấp đầy và dần đi vào lãng quên, giới tu hành hầu như cũng không để tâm đến, ngoài nỗ lực của Hòa thượng Thích Thanh Từ. Bản thân Sư ông Thích Nhất Hạnh khi viết cuốn tiểu thuyết lịch sử Am mây ngủ, tức là về Am Ngọa Vân cũng nhầm lẫn khi cho rằng Am Ngọa Vân nằm ở đâu đó gần kề với Tử Tiêu, Vân Yên.

 

Phóng viên: Tại sao vấn đề Ngọa Vân dường như chìm vào quên lãng trong một thời gian dài lại khiến TS quan tâm một cách nhiệt thành đến vậy? Và bằng chứng nào có thể khẳng định Ngọa Vân chính là nơi Trần Nhân Tông lập am tu hành và hóa thân?

 

TS Nguyễn Văn Anh: Có nhiều người cũng hỏi tôi câu hỏi tại sao anh lại quan tâm đến Ngọa Vân, thực lòng tôi cũng không biết là tại sao. Có lẽ đó là cơ duyên của tôi. Năm 2007, sau sáu năm tốt nghiệp cử nhân ngành khảo cổ học và về công tác tại Viện Khảo cổ học, lần đầu tiên tôi được giao nhiệm vụ chủ trì một cuộc khai quật, tất nhiên là cuộc khai quật thăm dò thôi. Viện giao cho tôi chủ trì khai quật thăm dò di tích Thái Lăng là lăng tẩm của vua Trần Anh Tông. Trong quá trình khai quật tại đây, tôi được nghe mọi người nói về chùa Ngọa Vân. Thực lòng tôi cũng không chú ý lắm vì có lẽ lúc ấy với tôi chùa Ngọa Vân cũng như bao chùa khác. Tôi chưa có khái niệm gì về Ngọa Vân. Rồi tôi được giao thêm nhiệm vụ khai quật thăm dò Di tích chùa Quỳnh Lâm. Chùa Quỳnh Lâm là một đại danh lam trong lịch sử, nổi tiếng bởi chùa có tượng Phật Di Lặc là một trong An Nam tứ khí. Không chỉ có vậy, Quỳnh Lâm là trung tâm đào tạo tăng tài lớn và quan trọng nhất của Thiền phái Trúc Lâm dưới thời Trần, thế kỷ 13. Khai quật một di tích quan trọng như vậy quả là quá sức đối với tôi, vì thế tôi phải tập trung để đọc tư liệu, khảo sát và tìm hiểu các di tích liên quan và tôi bắt đầu chú ý đến Ngọa Vân.

 

Cuối năm 2007, tôi được giao tiến hành điều tra khảo cổ học Di tích Hồ Thiên-Ngọa Vân, cuộc điều tra được tiến hành trong ba tháng, từ tháng 11-2007 đến tháng 2-2008, chúng tôi kết thúc cuộc điều tra và trở về Hà Nội vào ngày 27 tháng Chạp. Trước khi chia tay về Hà Nội, chúng tôi có tranh thủ báo cáo vắn tắt kết quả cuộc điều tra với ông Nguyễn Văn Lương, Phó Chủ tịch UBND huyện (nay là thị xã) Đông Triều, người phụ trách mảng văn xã và cũng là người thầy luôn đưa ra những đòi hỏi và phản biện lại những ý tưởng cũng như nhận định của tôi về các di tích tại Đông Triều. Khi chia tay, tôi hứa với ông Phó Chủ tịch là tôi sẽ viết một bài để công bố kết quả của cuộc điều tra.

 

Về Hà Nội, sau những ngày nghỉ Tết Nguyên đán, ông Lương có gọi báo cho tôi về bài viết của tác giả Trần Ngọc Linh công bố phát hiện Am Ngọa Vân tại Yên Tử. Ông bảo, nên xem lại kết quả điều tra vừa qua để có ý kiến chính thức về mặt khoa học. Đọc xong bài của tác giả Trần Ngọc Linh trên Vietnamnet, tôi bắt tay vào viết bài trao đổi trên Vietnamnet với tựa đề: Am Ngọa Vân ở đâu trên dãy núi thiêng Yên Tử. Thế là hoàn thành nhiệm vụ, Ngọa Vân cũng tạm được gác lại. Tháng 3-2008, tôi đã bắt tay vào việc khai quật Di tích Thái Lăng. Bỗng một hôm tôi nhận được cuộc điện thoại. Đầu dây là một người đàn ông, giọng nói ấm áp giới thiệu: “Anh là Trần Cẩm, đạo diễn của phòng Phim tài liệu khoa học, Đài Truyền hình Việt Nam. Anh đọc bài của em trên Vietnamnet về Am Ngọa Vân, muốn gặp em để bàn có thể dựng một bộ phim tài liệu”. Lần thứ nhất các anh đến gặp nhưng không báo trước nên hai bên không gặp được nhau do tôi về Hà Nội. Lần thứ hai, hai bên gặp nhau tại Đông Triều. Việc quay bộ phim Hành trình đi tìm nơi vua hóa Phật được thực hiện trong bối cảnh không có kịch bản như vậy. Ngồi dựng phim chúng tôi mới chợt nhận ra năm 2008 là tròn 700 năm ngày Trần Nhân Tông hóa Phật, có lẽ đó là một cơ duyên nữa khiến tôi gắn bó với Am Ngọa Vân.

 

Tháng 10-2008, tại Hội thảo khoa học Đông Triều với Lịch sử nhà Trần, tôi chính thức công bố kết quả nghiên cứu đầu tiên của mình về Ngọa Vân với tựa đề “Chùa Ngọa Vân qua các tư liệu khảo cổ học”. Trong bài viết đó, tôi cung cấp ba cứ liệu quan trọng: Cứ liệu về lịch sử địa lý để thấy không gian Yên Tử theo cách hiểu trước đây rộng lớn hơn nhiều so với cách hiểu ngày nay, theo đó, Yên Tử sơn là một không gian rộng lớn tương đương với một phần vòng cung Đông Triều từ Uông Bí đến Côn Sơn.

 

Cứ liệu thứ hai là tư liệu thư tịch liên quan đến Ngọa Vân, trong đó quan trọng nhất là những ghi chép trong sách Tam tổ thực lục và Văn bia Viên thông tháp bi, cuối cùng là các bằng chứng khảo cổ học phát hiện tại di tích bao gồm di tích và di vật. Tại chùa Ngọa Vân thuộc Đông Triều, các di tích đều gắn với địa danh Ngọa Vân như: Chùa Ngọa Vân, Am Ngọa Vân,v.v. Cũng tại đây còn lại Tháp Phật Hoàng, trong tháp đặt bài vị cho biết, tháp thờ vua thứ ba của nhà Trần, Tổ thứ nhất của Thiền phái Trúc Lâm Trần Nhân Tông hoàng đế. Mặc dù đây là tòa tháp được xây dựng lại vào năm 1707 nhưng Văn bia trùng tu Ngọa Vân tự ở đây cho biết, tháp được xây dựng lại do sau 400 năm ngày đức vua đến đây tu hành hóa Phật thì các công trình đã bị đổ nát. Văn bia còn khắc lại nội dung sắc chỉ của Chúa Trịnh giao cho dân xã An Sinh là dân tạo lệ, có nhiệm vụ trông nom thờ phụng các lăng tẩm của vua Trần và chùa Ngọa Vân. Đặc biệt, tại đây còn tìm thấy một số viên ngói mũi sen thời Lê Trung Hưng trên lưng in nổi hai chữ Hán “雲峯 (Vân Phong)”. Vân Phong là tên gọi khác của Ngọa Vân, cách gọi này được ghi chép trong Tam tổ thực lục.

 

Trước những bằng chứng quan trọng đó, hầu hết các nhà khoa học tham gia Hội thảo đã thống nhất với kết luận: “Ngọa Vân, nơi đức vua Trần Nhân Tông tu hành và hóa Phật, nay là chùa Ngọa Vân thuộc địa bàn hai xã An Sinh và Bình Khê của huyện (nay là thị xã) Đông Triều”. Kết luận này đã chấm dứt cuộc tranh luận về vị trí của Am Ngọa Vân .

 

Phóng viên: Hiện cơ quan nào đang chịu trách nhiệm chính trong việc bảo tồn và phát huy giá trị di sản đặc biệt này ?

 

TS Nguyễn Văn Anh: Năm 2013, Thủ tướng Chính phủ đã công nhận chùa Ngọa Vân và 13 di tích lăng tẩm, đền miếu và chùa tháp khác trong Khu di tích nhà Trần tại Đông Triều là di tích cấp quốc gia đặc biệt. Công tác quản lý các di tích này được phân cấp cho thị xã Đông Triều trực tiếp quản lý. Để làm tốt công tác quản lý, một mặt thị xã Đông Triều đã thông qua đề án Quản lý bảo tồn, tôn tạo di tích và danh thắng trên địa bàn thị xã từ năm 2014 đến 2020 và tầm nhìn 2030 với trọng tâm là Khu di tích nhà Trần; thành lập Ban quản lý di tích nhà Trần để thực hiện công tác quản lý, bảo tồn và phát huy giá trị. Mặc dù đã rất cố gắng nhưng công tác quản lý bảo tồn các di tích nhà Trần nói chung và di tích Ngọa Vân nói riêng còn gặp nhiều khó khăn và cần tiếp tục được tỉnh và Trung ương quan tâm.

 

Phóng viên: Xin cảm ơn TS Nguyễn Văn Anh và mong rằng, cá nhân ông cùng ngành khảo cổ sẽ tiếp tục có những nghiên cứu, phát hiện mới, giúp mọi người hiểu rõ hơn về một dòng phái Phật Việt Nam mang tên Trúc Lâm Yên Tử.

_______________

THÁI HÀ (thực hiện)

Nguồn: http://nhandan.com.vn

VẤN ĐỀ PHÁP PHÁI TRUYỀN THỪA CỦA HẢI LƯỢNG THIỀN SƯ NGÔ THÌ NHẬM

Ngô Thì Nhậm


Chỉ xét riêng về lĩnh vực văn học, ông đã để lại một khối lượng tác phẩm đồ sộ với nhiều thể loại khác nhau. Về thơ, có các tác phẩm như:Bút hải tùng đàm, Thủy vân nhàn vịnh, Ngọc đường xuân khiếu, Cúc hoa thi trận, Thu cận dương ngôn, Hoàng hoa đồ phả, Cẩm đường nhàn thoại. Về văn có các tập:Bang giao hảo thoại, Xuân thu quản kiến, Hào mân ai lục, Hàn các anh hoa, Kim mã hành dư, Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh.
 
Ngô Thì Nhậm 吳時任 vì kiêng phạm húy vua Tự Đức Nguyễn Phúc Thì tự Hồng Nhậm nên đổi thành Ngô Thời Nhiệm, tên Phó付, tự Hy Doãn希尹, hiệu Đạt Hiên達軒, sinh ngày 11-9-Bính Dần, tức ngày 25-10-1746, mất năm 1803, người xã Tả Thanh Oai (làng Tó), huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Đông (nay là huyện Thanh Trì, Hà Nội) trong một “thế gia vọng tộc” có truyền thống đạo đức, khoa bảng. Qua tên, tự, hiệu của ông, ít nhiều hé lộ mong mỏi, hoài bão của gia đình ông. Chữ “Thì Nhậm” có nghĩa là gánh vác đúng lúc; “Hy Doãn” là mong ước được như Tể tướng Y Doãn có công an bang tế thế thời nhà Thương ở Trung Quốc. Vì Ngô Thì Nhậm tu theo Phật, viết sách, dạy thiền nên được các pháp hữu đệ tử tôn xưng Hải Lượng đại thiền sư 海量大禅師. Sách Ngô Thì Nhậm toàn tập, tập 1, trang 9, phần chữ Hán chép nhầm là 海亮
 
Ngô Thì Nhậm có pháp danh là Hải Lượng, vậy ông là đệ tử của thiền sư nào? Theo truyền thống của nhà Thiền, pháp danh của đệ tử là do sư phụ dựa theo bài kệ truyền pháp của tổ sư mà đặt cho. Dựa theo chữ “Hải” trong pháp danh của ông, chúng ta có thể nhận ra ông là đệ tử truyền thừa của một trong ba dòng kệ sau:
 
- Một là dòng kệ của Thiền sư Minh Hành Tại Tại (1596 - 1659), đệ tử Thiền sư Viên Văn Chiết Chiết:
 
“Minh chân như tính hải/ Kim tường phổ chiếu thông/ Chí đạo thành chính quả/ Giác ngộ chứng chân không”(1).
 
- Hai là dòng kệ của Thiền sư Thiệt Diệu Liễu Quán (1667 - 1742):
 
“Thiệt tế đại đạo/ Tính hải thanh trừng/ Tâm nguyên quảng nhuận/ Đức bổn từ phong/ Giới định phúc tuệ/ Thể dụng viên thông/ Vĩnh siêu trí quả/ Một khế thành công/ Truyền trì diệu lý/ Diễn xướng chính tông/ Hành giải tương ứng/ Đạt ngộ chân không”(2).
 
- Ba là dòng kệ của Thiền sư Trí Bản Đột Không:
 
“Trí huệ thanh tịnh/ Đạo đức viên minh/ Chân như tính hải/Tịch chiếu phổ thông/ Tâm nguyên quảng nhuận/ Bản giác xương long/ Năng nhân thánh quả/ Thường diễn khoan hằng/ Tính truyền pháp ấn/ Chứng ngộ hội dung/ Truyền trì giới định/ Vĩnh kế tổ tông”(3).
 
Như vậy, chắc chắn là sư phụ của Hải Lượng thiền sư thuộc thế hệ chữ “Tính”. Hơn nữa, là đệ tử truyền thừa theo dòng kệ của Thiền sư Minh Hành Tại Tại, cùng môn phái với Thiền sư Chân Nguyên chứ không phải dòng kệ truyền pháp của Thiền sư Trí Bản Đột Không dòng Lâm Tế như học giả Lê Mạnh Thát khẳng định: “Tính Quảng có thể là bổn sư trao pháp danh Hải Lượng cho Ngô Thời Nhiệm, nếu ta căn cứ vào pháp danh của hai người này được đặt theo dòng kệ truyền pháp của phái Trí Bản Đột Không thuộc dòng Lâm Tế:
 
Trí tuệ thanh tịnh/ Đạo đức viên minh/ Chân như tính hải/ Tịch chiếu phổ thông/ Tâm nguyên quảng tục/ Bản giác xương long/ Năng nhân thánh quả/ Thường diễn khoan hằng/ Duy truyền pháp ấn/ Chứng ngộ hội dung/ Kiên trì giới hạnh/ Vĩnh thiệu tổ tông.
 
Sau khi trình bày với Tính Quảng, một kế hoạch đã hoàn thành. Đó là lấy phần tiểu sử của Trần Nhân Tông trong Thánh đăng ngữ lục và bản niên phổ khắc trên bia đá dựng trước tháp Viên Thông của Pháp Loa tại chùa Thanh Mai cùng với bản Tổ gia thực lục để tạo nên sách Tam tổ thực lục ta hiện có cùng với mấy đoạn phiến các tác phẩm của ba vị tổ vừa nêu này đang nằm rơi rớt tại các chùa biết dưới tên Thiền đạo yếu học”. (Lê Mạnh Thát, 2006, Trần Nhân Tông toàn tập, trang 296, 297, NXB.Tổng Hợp TPHCM).
 
Bởi vì, căn cứ vào tác phẩm Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh, chương 11, Trác thanh, tăng Hải Hòa Nguyễn Đăng Sở có nhắc đến Thiền sư Viên Văn Chiết Chiết như sau: “Chiết công (Thiền sư Chiết Chiết) ta đi bộ đến phương Nam, ở lộ thiên dưới gốc cây ba tháng trời mới đến trụ trì ở chùa Nhạn Tháp ở Siêu Loại, sau đó phò mã Quốc công phải cờ quạt đến đón rước. Nay ở chùa còn thờ làm Tổ”(4).
 
Mặc dù Thiền sư Minh Hành Tại Tại là đệ tử của phái Trí Bản Đột Không, nhưng ngài đã xuất kệ truyền pháp riêng như trên đã đề cập. Minh Hành và Minh Lương là hai đệ tử xuất sắc của Thiền sư Chiết Chiết. Minh Hành là người Trung Hoa, còn Minh Lương là người Đại Việt. Minh Lương là sư phụ của Thiền sư Chân Nguyên. Các vị đệ tử xuất sắc có công phục hưng thiền phái Trúc Lâm và trùng san những tác phẩm Phật học thời Lý - Trần của Chân Nguyên gồm có: Như Hiện, Như Trừng, Như Sơn, Như Trí… Năm 1750, khi Tính Lương trùng san Thánh đăng lục, có nhờ Tính Quảng đề tựa. Có thể Tính Lương và Tính Quảng là sư huynh đệ cùng thế hệ chữ “Tính” và là thế hệ đệ tử của thế hệ chữ “Như”: Như Hiện, Như Trừng, Như Sơn, Như Trí…
 
Theo học giả Lê Mạnh Thát, thì có thể Hải Lượng là đệ tử của Thiền sư Tính Quảng: “Việc trình bày lịch sử phát triển của thiền phái Trúc Lâm qua ba vị tổ Trần Nhân Tông, Pháp Loa, Huyền Quang có thể nói là một sáng tạo đặc biệt của Phật giáo Việt Nam thế kỷ XVIII, khi Tính Quảng và người học trò của mình là Hải Lượng Ngô Thời Nhiệm đã sao trích những mảng tư liệu khác nhau, để tập hợp lại và cho ra đời sáchTam tổ thực lục(5).
 
Trong Việt Nam Phật giáo sử luậncủa Nguyễn Lang, Thiền sư Tính Quảng còn được nhắc đến dưới vai trò là người đề tựa sách Thánh đăng lục, bản trùng san năm 1750 do Tính Lương thực hiện.
Căn cứ trên văn bia Thừa Bình Tháp Ký tại chùa Dâu do Tính Quảng Thích Điều Điều soạn lập năm Cảnh Hưng thứ 17 (1756), thác bản lưu tại tủ sách Pháp Đăng, ghi lại hành trạng Thiền sư Hải Mộ, còn gọi là Tính Mộ mà các tư liệu khác đề cập. Trong văn bia có câu: “Thật Long Đức nguyên niên Nhâm Tý nãi quy tông thụ giáo bản sư ư Nhạn Tháp Ninh Phúc tự. Bản sư chính Ba Tiêu Thiên Tâm chi pháp tử, Trúc lâm Long Động chi pháp tôn, hệ Đông Đô thủy tổ chi chính mạch dã.”

寔龍德元年壬子乃皈宗受教本師於雁塔寧福禪寺本師正芭蕉天心之法子竹林龍洞之法孫系東都始祖之正脈也. (Năm Long Đức thứ nhất, Nhâm Tý 1732, ngài quy tông thụ giáo bản sư ở chùa Ninh Phúc, Nhạn Tháp. Bản sư chính là pháp tử của chùa Thiên Tâm, Ba Tiêu, là pháp tôn của Trúc Lâm Long Động thuộc hệ chính mạch Đông đô Thủy tổ). Đông Đô thủy tổ tức chỉ cho Hòa thượng Chuyết Công Viên Văn do Thánh thiên tử Thần tông Uyên hoàng đế sắc tứ thụy Năm Phúc Thái Giáp Dần 1674. Thiền sư Tính Quảng còn soạn văn bia Kết Liên Hoa tuyển Phật đồ tại chùa Bảo Quang ở Bắc Ninh lập năm Cảnh Hưng thứ 24 (1763).
 
Với những tư liệu hiện có như trình bày ở trên, chúng ta có thể thấy được vị sư phụ truyền pháp danh Hải Lượng cho Binh bộ thượng thư, Thị trung đại học sĩ, Hy Doãn Công Ngô Thì Nhậm là Thiền sư Tính Quảng Thích Điều Điều (1740 - 1780) thuộc dòng thiền Minh Hành Tại Tại.
 
________________________

• Thích Hạnh Tuệ

(*)Giảng viên HVPG tại TP.HCM, Hiệu trưởng Trường Ngoại ngữ Thanh Nhân
(1) Nguyễn Lang (2008),Việt Nam Phật giáo sử luận, NXB. Văn Học. HN, trang 538.
(2)Nguyễn Lang, sđd, trang 603.
(3)Thích Như Tịnh (2009), Lịch Sử truyền thừa thiền phái Lâm Tế Chúc Thánh, NXB. Phương Đông, trang 557.
(4) Lâm Giang (chủ biên), (2006), Ngô Thì Nhậm toàn tập, Tập 5, NXB. Khoa học Xã hội, trang 263.
(5)Lê Mạnh Thát (2006), Trần Nhân Tông toàn tập, NXB. Tổng Hợp TP.HCM, trang 291.

TRẦN NHÂN TÔNG VÀ TẦM VÓC CỦA MỘT THỜI ĐẠI


Trong mười thế kỷ phong kiến Việt Nam, Trần Nhân Tông là một trong những ông vua giỏi và tài hoa bậc nhất. Lịch sử đã xem ông là “vị vua hiền” đời Trần, có công lớn trong sự nghiệp trùng hưng đất nước. Văn học sẽ nhớ mãi ông bởi những vần thơ thanh nhã, sâu sắc và không kém hào hùng.

Nhân Tông lên ngôi năm 1278, mới hai mươi tuổi. Nhà Trần lúc này đã bước vào thời kỳ ổn định, đất nước hoà bình, nông nghiệp phát triển, luật pháp thi cử học hành đều đã vào nề nếp… Một thời kỳ thịnh trị bắt đầu. Song khó khăn đối với ông vua trẻ lại là cái áp lực dồn tới từ phương Bắc. Nhà Nguyên đã diệt xong nước Tống, bắt đầu tính đến Việt Nam, thường xuyên gây sức ép và cuối cùng là hai cuộc xâm lăng năm 1285 và 1288. Chưa đầy năm năm phải đương đầu với hai trận tấn công ồ ạt của “giặc mạnh” có đủ quân thuỷ, quân bộ, quân kỵ và mỗi lần con số đều không dưới 50 vạn không phải là việc dễ, trong khi phần lớn thế giới từ Âu sang Á lúc ấy đều đã bị khuất phục nhanh chóng dưới vó ngựa đạo quân Mông Cổ cực kỳ thiện chiến và hung hãn này. Song Trần Nhân Tôngđã cố kết được lòng dân, phát huy được năng lực của các tướng, động viên được tài trí của cả nước đánh thắng giặc, bảo vệ toàn vẹn nền độc lập cho nước nhà. Quả là trong kháng chiến chống ngoại xâm, ông là một anh hùngtiêu biểu. Công lao của những tướng lĩnh kiệt xuất như Trần Quốc Tuấn... không thể phủ nhận, vai trò cố vấn của vị Thượng hoàng dày dạn kinh nghiệm là Trần Thánh Tông cũng khó lòng coi nhẹ, nhưng ở vị trí một người lãnh đạo tối cao, Trần Nhân Tông mới chính là linh hồn của cuộc chiến. Bằng phong thái ung dung tự tại trong tầm nhìn và trong chỉ đạo chiến lược, ông đã đem lại cho quân dân nhà Trần niềm tin sắt đá vào thắng lợi cuối cùng. 

Những năm sau đó, bước vào công cuộc xây dựng lại đất nước đã bị tàn phá, Nhân Tông một mặt lo tổng kết việc đánh giặc thưởng công, ghi Trung hưng thực lục, một mặt lo tiếp tục đối phó với cuộc tấn công phục thù của địch, vận dụng một cách hoàn thiện cả hai nguyên tắc mềm dẻo và cứng rắn trong nhiều lần vất vả giải quyết các yêu sách ngang ngược của sứ bộ nhà Nguyên, đồng thời lo làm sao cho nước mạnh dân giàu. Có thể nói, hơn mười bốn năm làm vua (1278-1293), cũng là suốt cả thời trai trẻ, Nhân Tông đã dành hầu hết tâm sức cho chỉ hai mục tiêu liên thông chặt chẽ với nhau : cơ đồ xã tắc vững bền và nhân tâm an lạc. Thông thường, khi một giai đoạn lịch sử đã đóng lại, đời sau dễ phát hiện những ưu khuyết điểm của người xưa, dễ dàng chỉ ra những việc nên làm và không nên làm… Song, nếu nghĩ rằng Trần Nhân Tông thuở đó chỉ mới trên dưới ba mươi tuổi, đã phải gánh váctrách nhiệm quyết định những việc lớn lao liên quan đến chuyện mất còn của cả dân tộc thì mới thấy hết bản lĩnh và tầm vóc của ông. Nhất là khi đối thủ mà ông phải đương đầu chẳng phải một kẻ địch hạng xoàng! Hốt Tất Liệtvốn là một tướng cầm quân lão luyện, giặc Thát lại là một đội quân ngang dọc vẫy vùng. Và sau khi đã làm chủ mảnh đất Trung Hoa, “chúa tể Đại Nguyên” còn tập hợp được cả một đội ngũ đông đảo văn thần người Hán, nhiều người từng là nhà ngoại giao, chính khách sừng sỏ, “tận trung” bày mưu tính kế. Có xét đến những hoàn cảnh cụ thể như vậy mới hiểu hết được tính cách mạnh của Trần Nhân Tông, bộc lộ ra ở cả tư tưởng và hành vi trong nhiều thời điểm có ý nghĩa bước ngoặt lịch sử, rất cần sự quyết đoán, cái nhìn sáng suốt ở một người như ông. 

Vào khoảng cuối 1284 đầu 1285 sau khi cuộc chiến lần thứ nhất diễn ra chỉ mới chừng mươi ngày, mặt trận Khâu Cấp - Nội Bàng đã tan vỡ và đại quân Trần phải lùi về Vạn Kiếp. Trên con thuyền chạy ra Hải Đông nhằm tránh mũi dùi tấn công của giặc, giữa lúc quần thần không khỏi hoang mang, Trần Nhân Tông đã viết vào đuôi thuyền hai câu:

會 稽舊 事 君須 記
驩 愛猶 存十 萬 兵

Cối Kê cựu sự quân tu ký, 
Hoan, Diễn do tồn thập vạn binh 

(Cối Kê việc cũ ngươi nên nhớ, 
Hoan Diễn còn kia mười vạn quân).

Hai câu thơ, có lẽ chỉ nhằm trấn an những bề tôi nào đó cùng đi trên thuyền, nhưng đã lan truyền rất nhanh như một thông điệp về tinh thần tự chủ kỳ lạ của người đứng đầu xã tắc. Một nghìn quân còn lại trên núi Cối Kê của Việt Vương Câu Tiễn ở thời Chiến quốc, ngỡ bị quân Ngô dồn đến chân tường, vậy mà về sau đã lại dấy lên, đánh bại đội quân hùng mạnh của nước Ngô. Gợi một điển tích cũ để bày tỏ niềm tin vững chắc của mình vào triển vọngcủa đất nước lúc bấy giờ, trong tình thế nghìn cân treo sợi tóc, đồng thời Trần Nhân Tông cũng nhắc người nghe đừng quên mất thực tế là vùng hậu phương Thanh - Nghệ lực lượng hiện vẫn chưa suy suyển. Nhưng còn quan trọng hơn là cái dung lượng triết lý mà câu nói của ông chứa đựng. Với hình thức thi ca chứ không phải chiếu lệnh, Nhân Tông như muốn truyền vào người tiếp nhận cùng lúc nguồn cảm hứng lãng mạn của một thi nhân và con mắt nhìn động của một triết nhân, để họ nhận rõ xu thế chuyển hóa bên trong của cái hiện thực rối bời trước mắt. Một sự kiện Cối Kê sẽ được lặp lại trong cuộc chiến đấu tưởng như rất bất lợi nhưng lại đang diễn ra trên mảnh đất mà chính dân Nam mới đích thực là người chủ còn kẻ địch chỉ là “bất tốc chi khách” – ông khách không mời mà đến, điều ấy cả ông và Trần Quốc Tuấn đều đã lường thấy. Có điều, nếu Trần Quốc Tuấn bày tỏ sự thấy bằng cái cách của con nhà tướng, đem đầu ra đánh cược với Trần Thánh Tông, thì Trần Nhân Tông lại thể hiện nó bằng tầm bao quát tinh xác tương quan lực lượng trên khắp mọi mặt trận khi đó, cả trước mặt mình và khuất xa sau lưng mình. Chưa nói đến đức bình tĩnh hiếm có, chỉ nội dung của lời thông báo cũng đủ chứng tỏ năng lực một con người lãnh đạo kỳ tài. 

Cũng với niềm xác tín phi thường như thế ta lại thấy buột thốt ra trong hai câu thơ của Trần Nhân Tông vào ngày khải hoàn, khi ông đến bái yết lăng tẩm ông nội, giữa lúc dấu tích chiến tranh để lại còn ngổn ngang. Hai câu thơ như một âm hưởng vĩ thanh hoà điệu với hai câu thơ trên con thuyền chạy giặc ngày nào mà sự đối lập động và tĩnh ở đây tưởng như ngược với trước, kỳ thực là hoàn toàn thống nhất:

社 稷兩 回勞 石 馬
山 河千 古奠 金 甌

Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã, 
Sơn hà thiên cổ điện kim âu. 

(Xã tắc hai phen chồn ngựa đá, 
Non sông nghìn thuở vững âu vàng).

Rõ ràng, cái động nhất thời do kẻ địch gây ra dù có ghê gớm đến đâu cũng đã bị lịch sử phủ định. Thực tế đất nước đã vận động đúng như suy đoán tài tình của nhà vua lúc chiến tranh vừa khởi sự để trở lại thế tĩnh cân bằng.

Phải nói, niềm xác tín lịch sử của Trần Nhân Tông có được chính là xuất phát từ cái nhìn hết sức nhân bản đối với người và việc trong thời đại ông. Ông tin ở phẩm chất hướng thiện của mọi con người kinh qua thử thách thực tiễn, hay đúng hơn, ông không hề xem xét con người một cách đơn nhất hóa. Trong hội nghị tướng lĩnh ở Bình Than năm 1282 mà ông đích thân chủ trì nhằm đối phó với nguy cơ quân Nguyên Mông gây hấn, vừa bắt gặp chiếc thuyền bán than của Trần Khánh Dư – một tướng tài nhưng cũng lắm tật – lướt qua bên đoàn thuyền chiến, Trần Nhân Tông đã có ngay lệnh chỉ tha tội cho Dư, gọi Dư lại và cho lại được dự vào hàng tướng soái cầm quân. Thái độ bao dung của vị Hoàng đế thực không uổng phí: rồi đây Phó tướng Trần Khánh Dư sẽ lập công xuất sắc ở nhiều chiến trận. Thái độ bao dung ấy còn gây một không khí cởi mở trong tầng lớp quý tộc vương hầu, khiến họ càng xích lại gần nhau, để toàn tâm toàn ý sống mái với giặc.

Cũng vậy, sau ngày kéo quân khải hoàn về Thăng Long (1288), bắt được một hòm thư biểu của không ít vương hầu quan lại từng vì nao núng mà xin hàng Thoát Hoan, biết tình thế muôn phần gay go của những ngày nước sôi lửa bỏng khiến có lúc xa giá triều đình cũng phải mặc ai nấy chạy; lại cũng thừa hiểu tâm lý con người thường tục ai mà chẳng có chỗ tham sống sợ chết; nên sau khi đã định công khen thưởng (1), tuân lệnh Thượng hoàng Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông liền cho đốt ngay hòm biểu kẻ thù bỏ lại nhằm “giữ yên lòng người”. Với hành vi “xé bỏ lý lịch” kiểu đó, dám chắc đây là một thời đại nhân hậu vượt lên mọi luật lệ khuôn phép, mà tính đến tận hôm nay có dễ cũng là một thời đại có một không hai.

Không chỉ có thế. Chính trong những tháng ngày bôn ba đánh giặc, Trần Nhân Tông còn nhận chân ra một sự thực : chỉ ở những đám người “chân đất” mới thực giàu phẩm chất trung thành tận tụy mà không chút tính toán so đo. Hộ vệ ông đến cùng chính là “bọn ấy” và cũng chính ông được “bọn ấy” dâng cơm hẩm trên con đường rút chạy phải nhịn đói từ sáng đến chiều. Nhận thức về cái cao quý của người nghèo hèn đã in sâu vào trực giác của ông nên sau này, trở lại ngai vàng, hễ mỗi lần gặp gia đồng của các vương hầu ông đều ân cần thăm hỏi ; khi trị tội những kẻ đã cam tâm làm tay sai cho giặc, ông chủ trương “chỉ lính tráng và dân thường là được miễn tội chết” (Đại Việt sử ký toàn thư); ông cũng đem những điều chiêm nghiệm đã đúc thành chân lý ra dụ bảo bề tôi : “Ngày thường thì có thị vệ tả hữu, nhưng khi quốc gia hoạn nạn chỉ có bọn chúng là có mặt” (Đại Việt sử ký toàn thư). Đấy hẳn là một nhận thức cơ bản trong ý thức Trần Nhân Tông, có vị trí cao hơn mọi tư tưởng cao siêu nào hết, làm nên bệ đỡ cho cả một thời đại nói như Trần Quốc Tuấn: “vua tôi chung sức đồng lòng”.

Đối với phần cuối cuộc đời ông vua anh hùng, kể từ sau năm 1293, Trần Nhân Tông nhường ngôi cho con lên giữ chức Thượng hoàng, rồi vài năm sau ông chính thức xuất gia, trở thành vị tổ thứ nhất dòng Thiền Trúc Lâm, vào tu hạnh đầu đà ở Yên Tử cho đến khi viên tịch, đã có nhiều cách lý giải khác nhau của hậu thế. Ngô sĩ Liên thì cho là ông đã “đi tìm siêu thoát”, trái với đạo Trung dung của Khổng Mạnh (Đại Việt sử ký toàn thư). Tăng Hải Hoà tức Nguyễn Đăng Sở ở thế kỷ XVIII lại liên tưởng xa hơn, rằng thực chất Nhân Tông tìm lên Yên Tử là để chọn một vọng gác tiền tiêu bao quát vùng Đông Bắc. Bởi tuy “trong nước vô sự nhưng ở phía Bắc vẫn có nước láng giềng mạnh mẽ, chưa được an tâm... Cho nên nhằm được ngọn Yên Tử là núi cao nhất, phía Đông nhìn về Yên Quảng, phía Bắc liếc sang hai tỉnh Lạng, dựng lên ngôi chùa, thời thường dạo chơi để xem động tĩnh, cốt để ngừa cái mối lo nước ngoài xâm phạm. Thật là một vị Vô lượng lực Đại thế chí Bồ Tát” (Trúc Lâm tông chỉ nguyên thanh).

Thoạt nhìn, cả hai lời giải đáp trái ngược nhau xem ra đều có những mặt hữu lý. Tuy nhiên, xét từ phương pháp tư tưởng, cả Ngô Sĩ Liên và Nguyễn Đăng Sở lại cùng chung một nhầm lẫn là chỉ thuần dựa trên những hệ quy chiếu chủ quan, không đếm xỉa gì đến tiến trình tư tưởng nội tại của vị Hoàng đế nhà Trần. Việc Trần Nhân Tông xuất giavốn là sở nguyện của cả đời ông, phát lộ ngay từ còn trẻ. Ông không bao giờ quên cảnh giác với mưu ma chước quỷ của Thiên triều, chắc chắn là thế, nhưng thiết tưởng ông cần gì làm cái chuyện khoác áo cà sa để giấu giếm những hoạt động “tình báo” trên đất mình. Cách giải thích “chính trị hoá” của Nguyễn Đăng Sở vì thế khó có thể chấp nhận. Song Trần Nhân Tông đi tu phải chăng là đi tìm siêu thoát ? Không ! Nếu chỉ tìm đường siêu thoát cớ sao đã đi tu ông còn triệu tập quần thần về Thiên Trường định bàn chuyện phế lập khi bắt gặp Trần Anh Tông say rượu bỏ bê chính sự (1299)? Hoặc giả, sau khi vân du nhiều vùng miền trong nước, ông còn sang tận Chiêm Thành trong 9 tháng trời, xem xét tình hình nước Chiêm và bàn chuyện tác hợp Huyền Trân Công chúa với vua Chiêm Chế Mân (1301)? v.v... và v.v... 

Chỉ có thể làm sáng tỏ những mắc mớ như trên khi ta đặt Trần Nhân Tông vào trong cùng chuỗi cả một hệ phái Thiền mang nặng cảm thức nhập thế của Việt Nam. Trước Trần Nhân Tông đến hơn 300 năm, Thiền sư Pháp Thuận (915 - 990) đã từng khuyên vua Lê Đại Hành: “Vô vi trên điện gác / Chốn chốn tắt đao binh”. Vô vi, trong nghĩa từ nguyên của thuật ngữ, không phải là không làm gì mà trái lại, làm bất cứ việc gì thuận theo quy luật tự nhiên, hay nói như vua Lý Nhân Tông khuyên Thiền sư Mãn Giác (1052 - 1096) “Không việc gì không làm, chẳng những đắc lực về Thiền định mà cũng có công giúp đỡ nhà nước” (Thiền uyển tập anh). Kế thừa người đi trước, Trần Nhân Tông đã đề xuất phương châm “cư trần lạc đạo” – ở giữa cõi trần mà vui đạo, cũng là một khái niệm vô vi được vận dụng cụ thể hoá trong bối cảnh lịch sử phức tạp và vĩ đại buổi thịnh Trần. Và nhà vua đã bỏ hai phần ba cuộc đời giữ trọng trách “vỗ yên dân chúng” chính là thuận theo cái lẽ sống “cư trần lạc đạo” ấy . Cũng như ông nội và thân phụ, trong tư cách một con người lịch sử ông ý thức được quy luật lịch sử và trách nhiệm trước lịch sử của cá nhân mình. Ông đang thực hiện vô vi ngay trên ngai vàng. Khi ông rời triều đình lên Yên Tử, con ngườinhập thế tất nhiên vẫn còn (chứ làm sao triệt tiêu ngay được?!). Tuy vậy, lại cũng bởi là người nắm vững hơn ai hết quy luật sinh lão bệnh tử của tự nhiên, Trần Nhân Tông đã biết cách chủ động truyền trọng trách thế sự lại cho Hoàng tử trưởng là Anh Tông kế tục, và mục tiêu vô vi giờ đây là thung dung đi tìm niềm vui của sự “giác ngộ”, cũng là tìm lời giải đáp cho những câu hỏi lớn: Con người là ai? Từ đâu đến và cuối cùng đi đâu? Thế giới có hay không? Thật hay ảo?... Những câu hỏi ấy loài người đặt ra từ rất sớm, và cũng từ rất sớm con người đã luôn cố gắng tìm câu trả lời. Giống như Thích-ca-mâu-ni tìm ra đáp án thế giới gồm trong “ngũ uẩn”, kể cả tâm cả vật – sắc, thụ, tưởng, hành, thức, chúng ta không loại trừ ở Trần Nhân Tông – giờ đây đã mang pháp danh Trúc Lâm Đại Đầu đà – niềm khát khao được toả sáng trí tuệ theo cách riêng của ông trước những câu hỏi loại này để từ con người vô minh của nhân thế thật sự trở thành một người tự do (Cõi trần vui đạo hãy tuỳ duyên / Đói cứ ăn no, mệt ngủ yên / Báu sẵn trong nhà thôi khỏi kiếm / Vô tâm trước cảnh hỏi gì thiền – Cư trần lạc đạo phú); nhờ đó ít nhiều ông gầy dựng cho Thiền phái Trúc Lâm một cơ sở triết thuyết nó là nền tảng vũ trụ quan và nhân sinh quan của xã hội thời thịnh Trần. Về phương diện này nữa, gương mặt Trần Nhân Tông cũng phản ánh tầm vóc của một thời đại lớn trong lịch sử.


______________________

• Nguyễn Huệ Chi - Trần Thị Băng Thanh  
Nguồn: thuvienhoasen.org
 


CHÚ THÍCH 
(1) Trong cuốn Trần Nhân Tông toàn tập, nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 2000, nhà nghiên cứu Lê Mạnh Thát cho rằng trong lần định công khen thưởng này “Đỗ Hành, người bắt được Ô Mã Nhi tại trận thuỷ chiến Bạch Đằng, đã không được tước cao, vì đã không đem Ô Mã Nhi dâng cho Trần Nhân Tông mà lại đem dâng cho Thượng hoàng Trần Thánh Tông”, và “Hưng Trí vương Nghiễn không được thăng trật do hăng say đón đánh bọn giặc Nguyên trên đường tháo chạy về nước sau khi đã có lệnh của vua Trần Nhân Tông không được cản trởchúng”, những sự việc ấy “muốn xác định cho ta biết ai là người lãnh đạo tối cao của đất nước” (tr. 160). Chúng tôinghĩ, hai sự kiện đã nêu chỉ mới chứng tỏ Trần Nhân Tông là người trực tiếp chỉ huy hai cuộc chiến tranh tự vệ chống quân Nguyên, còn vai trò lãnh đạo tối cao đối với đất nước, kể cả trong chiến trận, thì theo truyền thống của nhà Trần, vẫn thuộc về Thượng hoàng Trần Thánh Tông. Cần nhớ rằng người điều khiển cuộc định công ban thưởng này cũng là Trần Thánh Tông chứ không phải Trần Nhân Tông. Chủ trương đốt bỏ hòm biểu của những vương hầu hàng giặc cũng là Trần Thánh Tông, những lệnh chỉ trị tội Trần Khánh Dư khi ông thua trận Vân Đồn, và tiếp đấy tha tội cho ông sau khi ông lập công đánh tan thuyền lương Trương Văn Hổ đều là do Trần Thánh Tông ban bố, và ngay Đại Việt sử ký toàn thư cũng không hề nói Trần Nhân Tông hay Trần Thánh Tông là người đưa ra quyết định không truy đuổi tiếp đội quân Nguyên rút theo đường bộ nữa. Bởi vậy, việc ban thưởng cho các tướng đến bậc nào và ai không được ban thưởng chắc chắn là tuân thủ những nguyên tắc đã vạch sẵn chứ không tuỳ tiện theo ý cá nhân Trần Nhân Tông được. Cách nói như trên e không làm cho người đọc thấy vai trò lớn lao của ông mà trái lại có thể làm nhỏ ông đi trong mắt người đọc

VÉN MÂY LÊN NGỌA VÂN NGẮM NƠI PHẬT HOÀNG TRẦN NHÂN TÔNG NHẬP NIẾT BÀN

Chùa Ngọa Vân là một di tích quan trọng nằm trong vùng địa linh của Phật giáo Trúc Lâm Yên Tử. Đây chính là điểm dừng chân cuối cùng trong cuộc đời tu hành của Phật hoàng Trần Nhân Tông.

 

Chùa Ngọa Vân nhìn từ trên cao


Nằm trên núi Bảo Đài thuộc địa phận 2 xã An Sinh và Bình Khê, TX.Đông Triều, Quảng Ninh, chùa Ngọa Vân là một quần thể kiến trúc chùa tháp lớn của Thiền Phái Trúc Lâm trên dãy Yên Tử, nơi Phật Hoàng Trần Nhân Tông tu hành đắc đạo. Chính vì lí do này, Ngọa Vân được coi là thánh địa của Phật Giáo Trúc Lâm.

 

Chùa nằm ở vị trí trung tâm sườn phía Nam của núi Bảo Đài (Nay là núi Vây Rồng), ở độ cao trung bình 588m – 644m so với mặt nước biển, tựa lưng vào núi Bảo Đài. Chùa là một cụm các công trình phân bố từ chân lên đỉnh của ngọn Ngọa Vân nơi nhân dân hiện nay quen gọi là khu Chùa đổ hay Nhà Mẫu và Bàn Cờ tiên.

 

Theo Đại Việt sử ký toàn thư, tháng 5 năm 1307, Trúc Lâm Đại Sĩ (tên hiệu của Phật hoàng) đã lên tu tại một am trên đỉnh Ngọa Vân- một đỉnh cao quanh năm mây phủ nằm trên núi Bảo Đài thuộc dãy Yên Tử linh thiêng,. Ngày 1 tháng 11 năm 1308, Phật hoàng Trần Nhân Tông đã nhập niết bàn tại am Ngọc Vân (nay thuộc xã An Sinh và xã Bình Khê, thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh).

 

Di tích Ngọa Vân ngày nay là một quần thể chùa tháp lớn được bố trí thành 3 lớp trên núi Bảo Đài:

 

Lớp thấp nhất là 15 di tích dưới chân núi như: khu rừng già Tàn Lọng, Phủ Am Trà, Đô Kiệu, Thông Đàn, Đá Chồng, Ba Bậc… Những di tích này được kết nối với nhau bằng một con đường uốn lượn chạy dần lên đỉnh núi.

 

Lớp thứ 2 của khu di tích là chùa Ngọa Vân Trung nằm ở sườn phía Nam của núi Bảo Đài. Sau khi được trùng tu xây dựng trên nền chùa cũ vào năm 2014, Ngọa Vân Trung ngày nay là một ngôi chùa khang trang với lối kiến trúc kiểu chữ Nhị (mô phỏng kiến trúc của chùa Ngọa Vân được xây dựng từ thời Lê Trung Hưng) và được tạo thành bởi hai tòa chính: Tiền đường và Hậu đường. Chùa Ngọa Vân Trung cũng được xem là khu vực trung tâm của lễ hội xuân Ngọa Vân (diễn ra từ mùng 9 tháng Giêng đến hết tháng 3 Âm lịch hàng năm). Những nghi lễ quan trọng của lễ hội như lễ hội khai xuân, lễ cầu quốc thái dân an… đều được tổ chức tại chùa Ngọa Vân Trung.

 

Lớp thứ 3, cũng là lớp cao nhất của di tích Ngọa Vân, là nơi được người xưa ca tụng: "Vạn cổ anh linh tự/ Tứ thời cảnh sắc tân" (Dịch thơ: "Muôn thuở chùa linh ứng/ Bốn mùa cảnh sắc tươi"). Đỉnh núi huyền ảo, quanh năm mây phủ này chính là nơi còn lưu giữ được nhiều dấu tích thiêng liêng liên quan đến những ngày tháng cuối cùng trong cuộc đời tu hành của Phật hoàng Trần Nhân Tông, như chùa Ngọa Vân Thượng, Am Ngọa Vân- nơi mà theo truyền thuyết, Phật hoàng Trần Nhân Tông đã nhập cõi niết bàn trên một tảng đá lớn trong dáng nằm sư tử, Phật hoàng Tháp- nơi lưu giữ một phần xá lị của Phật hoàng và Bàn Cờ tiên nằm trên đỉnh cao nhất, nhìn ra xung quanh là một vùng núi nơn sơn thủy hữu tình.

 

Hơn 2000 phật tử chùa Tân Hải (Đan Phượng, Hà Nội) đã làm lễ dâng hương và chiêm bái

tại chùa Ngọa vân nhân kỷ niệm 710 Phật hoàng Trần Nhân Tông nhập niết bàn


Không chỉ lưu giữ những dấu tích thiêng liêng về Phật hoàng Trần Nhân Tông, khu di tích Ngọa Vân còn là một nơi có khung cảnh thiên nhiên nguyên sơ và tuyệt đẹp. Nằm trong khu vực vòng cung Đông Triều, Ngọa Vân như được bao bọc, ôm ấp bởi những ngọn núi xanh mướt, trùng trùng điệp điệp. Thảm thực vật nơi đây gần như còn nguyên vẹn với rất nhiều loài thực vật và động vật quý hiếm. Đến với Ngọa Vân, người ta có dịp được chiêm người những cây thông trăm tuổi, những rừng trúc bạt ngàn.

 

Hành hương lên đỉnh Ngọa Vân, thắp một nén nhang chiêm bái Phật hoàng rồi bước ra sân tiền đường, cả một vùng núi non tuyệt đẹp nằm xen lẫn trong mây trắng mở ra trước mắt như một bức tranh thủy mặc. Đó là lúc con người ta như được trở về với tất cả những gì đẹp đẽ, nguyên sơ nhất trong tâm hồn. Cũng là món quà mà đất Phật Ngọa Vân ban tặng cho mỗi người.

 

Là nơi Phật hoàng tu hành và đắc đạo, Ngọa Vân trở thành thánh địa của Thiền phái Trúc Lâm,

ngay sau khi Ngài mất, tổ Pháp Loa đã cho xây dựng và mở mang Ngọa Vân. Đến nay,

Ngọa Vân đã trở thành một quần thể kiến trúc chùa tháp lớn trên dãy Yên Tử.

 

Trong chuyến hành hương "Về miền đất Phật" 2018 cuối tuần qua, Đại đức Thích Quảng Hiếu cùng hơn 2000 phật tử chùa Tân Hải (Đan Phượng, Hà Nội) đã làm lễ dâng hương và chiêm bái Phật hoàng Trần Nhân Tông tại chùa Ngoạ Vân thuộc thị xã Đông Triều tỉnh Quảng Ninh. Đây được coi là hoạt động nghi lễ lớn với sự tham gia của nhiều người mang ý nghĩa khép lại năm đại lễ tưởng niệm 710 năm Phật hoàng Trần Nhân Tông nhập cõi niết bàn tại Khu di tích Chùa – am Ngọa Vân.

_____________

 

Thanh Tâm (Tổng hợp)

Nguồn: https://phatgiao.org.vn/

TUỆ TRUNG THƯỢNG SĨ HIỆN THÂN CỦA DUY MA CẬT VÀ BÀNG LONG UẨN

Tuệ Trung đã từng vứt bỏ những phê phán thị phi, vì đó là quan niệm cố hữu nằm trong lăng kính, với những sắc màu lôi kéo. Nên không thể cảm nhận sâu xa về con người đã đạt được chiều sâu thực chứng. Ông đã từng liệng nó vào hố thẳm trần gian. Vì thế những ai gần ông đều qui phục, cảm cách.


Tuệ Trung Thượng Sĩ hiện thân của Duy Ma Cật và Bàng Long Uẩn


I. THƯỢNG SĨ ĐI GIỮA CUỘC ĐỜI

 

Tuệ Trung Thượng Sĩ người có được một phong thái siêu việt độc đáo, sống giữa cuộc đời trong sự tự do phóng khoáng không hề bị lệ thuộc. Ông bước vào trần gian sống như tất cả mọi người nhưng, với phong thái Thiền Sư vượt ra ngoài những hệ lụy, không đắm chìm trong danh sắc, cởi tung những triền phược mà con người bình thường không thể lãnh hội và làm được.

 

Thượng Sĩ có tất cả, như tất cả những con người cư ngụ trên mặt đất đã có, nhưng Thượng Sỹ lại có cái “không” mà những người cư ngụ trên mặt đất không hề có. Cái không ấy là bản năng tuyệt luân vượt ra ngoài định kiến, phán đoán suy luận, gò bó trong mọi định thước. Hành hoạt một cách siêu dị không câu nệ chấp trước, chỉ tìm thấy trong những con người đạt được sự chứng ngộ giải thoát ở nội tâm.

 

Tuệ Trung đi vào vuộc đời, sống với cuộc đời với con người để từ đó hoán chuyển mọi tăm tối, hành động nầy là việc làm của những Bồ Tát mang đại nguyện trùm kín cả vũ trụ, hy sinh thân mạng để xoa dịu những thống khổ đang bao phủ vùng trời tâm linh mà con người đang trực diện. Giá trị đó được tiềm ẩn qua con người Thượng Sĩ, ông đã từng đem bản thân mình ngăn chận những cuộc xâm lăng của nhà Nguyên. Đã từng được phong tước Hưng Ninh Vương. Nhưng ông vứt tất cả còn lại phong cách Thiền Sư, đối diện với trần thế bằng tình thương bao dung, không bị giới hạn.

 

Trộn lẫn với cuộc đời hay không, vượt thoát hay đắm chìm trong tử sinh, bỏ tung tất cả hay gánh trọn trên đôi vai. Đối với những người giác ngộ, thực chứng thì hành động nào cũng đều ung dung thanh thoát giữa dòng đời trôi nổi. Với những kẻ siêu việt nầy, tất cả chỉ là ảo ảnh, phù vân một trò đùa được dựng nên từ hý trường, đâu đó bỗng chốc phiêu bồng như chính cái hiện hữu phi thực của nó. Những tăm tối trầm luân tạo đau khổ cho những ai trong cuộc. Tuệ Trung Thượng Sĩ đã từ đó mà đi ra nên ung dung tự tại, vung tay là bóng tối liền tan, mở miệng là ngàn hoa phơi sắc, và nhắm mắt là tịch nhiên chiếu rọi.

 

Bóng dáng nào mà không bị đẩy lùi, hình ảnh nào mà không tan hủy. Nhưng, con người và ảnh tượng của Tuệ Trung trở nên siêu thực, tồn tại trong hố thẳm ngàn hoa, nên mãi là biểu tượng cho những kẻ muốn đạt đến một thứ tự do siêu nghĩa, trong việc tìm thấy ánh sáng chiếu rọi của thực chứng.

 

Sự tự do độc nhất mà Tuệ Trung có được, là vượt ra ngoài định mức tự do. Ở đó còn duy nhất kẻ đứng chơ vơ giữa đất trời, không bóng dáng hình tượng nào chung quanh, nếu có cũng chỉ là thể dụng hiển hiện của tâm thức vượt tung. Không bao giờ có thể đo lường ngăn ngại được tâm tư vĩ đại của Tuệ Trung, kẻ đã tự do rong chơi dạo khắp nẽo luân hồi, chưa một lần chùng bước trước những thử thách.

 

Em gái Tuệ Trung là Hoàng Hậu Thiên Cẩm, một hôm thiết tiệc mời ông tham dự, trong bàn tiệc có đầy đủ thịt cá, chay mặn. Gặp thịt cá ông cũng không từ, tự nhiên gắp ăn, thấy thế Hoàng Hậu ngạc nhiên hỏi: “Anh tu Thiền mà ăn thịt cá thì thành Phật sao được?”

 

Thượng Sĩ cười đáp: “Phật là Phật, anh là anh. Anh chả cần làm Phật. Phật chả cần làm anh. Em chẳng nghe cổ đức nói “Văn Thù là Văn Thù, giải thoát là giải thoát đó sao?””

 

Con người Tuệ Trung không phải điển hình sự phóng khoáng nầy là đủ, trong ông còn nhiều sự tự do. Ông đã là con người tùy tục làm giống như cuộc đời, những gì kẻ khác có ông cũng có nhưng, có nầy là lẽ của tương đồng, của tỉnh thức, và thực ngộ.

 

Khi mê thấy không sắc

Khi ngộ hết sắc không

Sắc không và mê ngộ 

Xưa nay một lẽ đồng


Chính vì chúng ta ràng buộc trong những tính toán, nên hầu hết tạo thêm những triền phược lấp kín lối vào giác ngộ. Nhìn sắc sanh ra đắm nhiễm, ngửi nghe khởi lên muôn ngàn vọng tưởng, nên trần lao trở thành ngôi mộ vĩ đại nhốt kín con người. Với Thiền Sư đi vào tử sinh như đi trên thảm hoa, uống nước ái dục như uống cam lồ vị, sống giữa cuộc đời như sống với thực ngộ. Thì cuộc đời không phải là những hổ tương cần thiết cho thực chứng ấy vươn lên tận mây ngàn hay sao?

 

Tuệ Trung mất trong vòng tay yêu thương của thê thiếp, trong giọt nước mắt bi ai của nữ tỳ, trong sự khóc thương buồn đau chồng chất ai oán để tiễn đưa người yêu thương đến nghìn thu vĩnh biệt. Ông đã ung dung ra đi với phong cách người rũ sạch nợ trần, như chưa một lần cột được con người ấy. Ông nghe tiếng khóc mở mắt ngồi dậy, sai lấy nước rửa tay súc miệng, trách nhẹ vài lời “Sống chết là lẽ thường nhiên, sao buồn thảm luyến tiếc chi làm náo chân tánh ta.”

 

Trong khi sống, Thượng Sĩ đã tự do, nhưng khi sắp chết ta mới thấy cái phi thường tự do của người giải thoát. Nếu con người bình thường, hẳn đã không đủ tâm thần bình tĩnh trách nhẹ kẻ khác, làm quấy giấc ngủ ngàn thu của mình. Thần chết bất lực trước những bản thể thực chứng về hiện tượng tử sinh, nên đành chào thua để Tuệ Trung tự do đến đi trong cuộc đời. Điểm khởi mà ngài đến chỉ là nhịp cầu gạch nối giữa hiện thực và phi thực. Hiện thực nầy là nguyên lý của những gì vượt ra khỏi sự chi phối tác động về thời gian và hiện thực nầy là kết quả thực chứng, nên sự tàn hủy chỉ là môi năng cho những sinh khởi. Với kẻ có được ý thức về thực ngộ, đã trông thấy đâu là ngọn ngành nên không vì đó khởi lên những sai biệt.

 

Phi thực có thể tạo những triền miên thống hận cho những ai chưa khám phá ra bộ mặt nghìn đời của nó. Vì đối đãi tương duyên với có không nên nó hiện hữu. Nhưng với người uống được ngụm nước đầu nguồn, đến đi không vướng gót giày, tất cả chỉ là mây giăng trên lối, thong dong trên đỉnh đồi trơ trụi với tuyết sương.

 

Ý lực nào đã đưa đẩy Tuệ Trung dám bỏ lại sau lưng những biến động của trần thế? Ý lực nào đã tạo nên một Tuệ Trung trác việt, siêu dị? Có phải đó là kết quả do những khám phá, truy tầm, đạp tung và khơi dậy cái linh năng, tri giác, vốn đã tiềm ẩn trong mỗi con người ?

 

Muốn quật tung và hiển nở bản thể linh diệu nầy trước hết phải ngắm nhìn thực trạng sanh diệt bằng con mắt trí huệ, quán chiếu đến tận cùng vật thể. Những thành trì suy luận lừa đảo phải đập vỡ ngay, vận dụng mọi cơ năng quyết chống lại, đẩy tung phiền trược. Chỉ còn lại cái vắng không tròn đầy linh diệu mà Tuệ Trung đã đạt được. May ra ta mới trở thành như ông. Hình thức mà ông đang có đó, một con người không hề cạo tóc làm Sư, nhưng với tâm linh ông cao vút lên tận mây ngàn, hình thức có thể là lớp son phấn bao bọc bên ngoài. Không cần thiết, nhất là hành trình tìm đến giải thoát. Sự phân biệt giữa một người xuất gia với tại gia theo nghĩa thông thường, thì đó là điểm tựa để tạo nên môi giới, nhưng tìm đến thực chứng của những Thiền Sư thì không có ranh giới hữu hạn, mà là mấu chốt quật khởi tâm linh. Đạt được điều này thì đâu cũng là giải đất bằng mầu mỡ, ranh giới nào mà không bị san bằng tiêu hủy. 

 

Tuệ Trung đã từng vứt bỏ những phê phán thị phi, vì đó là quan niệm cố hữu nằm trong lăng kính, với những sắc màu lôi kéo. Nên không thể cảm nhận sâu xa về con người đã đạt được chiều sâu thực chứng. Ông đã từng liệng nó vào hố thẳm trần gian. Vì thế những ai gần ông đều qui phục, cảm cách.

 

Vua Trần Nhân Tông viết về Thầy mình (Tuệ Trung) như sau: “Thượng Sĩ sống giữa lòng thế tục, hòa ánh sáng mình trong cuộc đời bụi bặm, trong mọi cuộc tiếp xúc, thượng sĩ luôn luôn giữ thái độ hòa ái nên chưa bao giờ gặp phải những trường hợp phiền nghịch. Do đó ngài có thể làm tiếp nối hạt giống chánh pháp dìu dắt được những kẻ mới học. Ai đến tham cứu tìm học với ngài cũng được ngài chỉ dẫn sơ lược cho thấy phần cương yếu của đạo pháp khiến tâm họ có thể nương tựa. Thượng Sĩ không bị ràng buộc bởi hình thức khi thì ẩn tàng, khi thì lộ diện, ngài không chấp vào hình thức và danh từ". 

 

II. HÌNH ẢNH DUY MA CẬT VÀ BÀNG LONG UẨN TRONG CON NGƯỜI TUỆ TRUNG THƯỢNG SĨ

 

Duy Ma Cật và Tuệ Trung hai con người ở hai phương trời cách biệt, ở hai thời đại và bối cảnh xã hội khác nhau. Nhưng đã gặp nhau ở điểm, đó là hạnh nguyện và phong thái của những con người trác dị siêu nhân.

 

Duy Ma Cật, một cư sĩ vĩ đại, đã từng khai thị cho những đại đệ tử của Phật. Vì muốn độ chúng sanh nên ông thị hiện làm vị trưởng giả giàu có để nhiếp độ các hạng dân nghèo. Vì đại nguyện cao cả ông thị hiện kẻ bạch y hộ Pháp đắc lực cho đức Phật Thích Ca, hạnh nguyện của những bậc Bồ Tát là trong đời ngũ trược làm kẻ tiên phong đi vào nhiếp độ chúng sanh lầm than. Và phong thái ông một người có vợ con giàu sang tột bực nhưng, không vì thế mà vướng bận tâm của người giải thoát.

 

Tư tưởng Duy Ma Cật là loại tư tưởng siêu thể, không nằm ở định mức, một khi tung ra là chấn động cả càn khôn, có thể lấy núi tu di nhét vào trong hột cải, có thể lấy nước bốn biển cho vào lỗ chơn lông mà không khuấy động loài thủy tộc. Duy Ma Cật đã từng trong nhà Như Lai đi ra, nên mọi hành hoạt đều hướng đến tịch nhiên an lạc, giàu có vương giả, thê thiếp vợ con, có kẻ hầu hạ nhưng tu hạnh thanh tịnh, ngoài hiện tướng phàm nhưng trong là tâm Phật, đi vào nơi cờ bạc rượu chè nhưng là hạnh nguyện của đại Bồ Tát cứu độ muôn loài.

 

Ông đã từng khai thị cho Xá Lợi Phất đại đệ tử của Đức Phật khi đang ngồi tọa thiền dưới gốc cây. “Thưa ngài Xá Lợi phất ! Bất tất ngồi sững đó mới ngồi yên lặng. Vả chăng ngồi yên lặng là ở trong ba cõi mà không hiện thân ý mới là ngồi yên lặng, không khởi diệt tận định mà hiện các oai nghi mới là ngồi yên lặng, không rời đạo pháp mà hiện các việc phàm phu mới là ngồi yên lặng, tâm không trụ trong cũng không ở ngoài mới là ngồi yên lặng, đối với các kiến chấp không động mà tu ba mươi bảy phẩm trợ đạo mới là ngồi yên lặng, không đoạn phiền não mà vào Niết Bàn mới là ngồi yên lặng. Nếu ngồi được như thế là chổ Phật ấn khả vậy".

 

Có như thế những đại đệ tử của Phật như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp, Tu Bồ Đề, Phú Lâu Na, Ma Ha Ca Chiên Diên, A Na Luật, Ưu Bà Ly, La Hầu La v.v… Và ngay cả những bậc Bồ Tát cũng không dám đối diện. Không một ai dám đương đầu nổi với Duy Ma Cật, ông quật tung ngã nhào tất cả. Với ông không phải ngồi yên lặng dưới gốc cây mà có thể thành Phật, muốn thành Phật phải lăn xả vào cuộc đời, hành động trong ý tưởng vượt thoát mới có cơ may đạt được chặng đường nầy. Không chấp vào đâu, dù đó là những lời dạy của Đức Phật, phải có cái tâm thanh tịnh không nhơ cấu đón nhận các pháp. Y vào kinh điển giải nghĩa thì oan cho ba đời chư Phật, mà rời bỏ một chữ thì đi vào con đường ma quỷ. Ở trong đó tha hồ rong chơi dạo khắp, đừng mang tâm chấp trước. Hễ còn chấp thì rơi vào cửa ngõ triền miên điên loạn, vượt tung ra khỏi màng lưới chằng chịt ngữ ngôn, đạt ý quên lời thì con đường nào không thênh thang rộng mở, lối nào có thể cột được tâm tư kẻ không nhiễm bụi trần. Vào chỗ đông người như vào chỗ không có ai.

 

Tuệ Trung Thượng Sĩ (1230-1291) sau Duy Ma Cật đã mấy ngàn năm nhưng phong thái trác việt của Tuệ Trung đi vào cuộc đời tương tự như Duy Ma Cật, những gì phiến động, đạp đổ trong con người Duy Ma Cật với Tuệ Trung cũng đều có. Chỉ có những con người vĩ đại mới bắt gặp nhau ở một cấp độ mà con người mê muội không thể tìm gặp. Cấp độ đó tựa như dòng sóng khủng khiếp cuốn phăng những trì trệ trong hành trình đạt được thức giác ở tâm linh. Cuốn đi những cặn bã bao phủ cuộc đời. 

 

Thiền Tổ Trúc Lâm Trần Nhân Tông ca ngợi Tuệ Trung Thượng Sĩ như sau:


Ngóng càng thêm cao

Khen càng thêm bền

Bỗng sau lưng đó

Xem lại trước liền

Đó là Thượng Sĩ

Vậy mới là Thiền.

 

Tất cả những gì tuyệt độc nhất trong ngữ ngôn cũng không thể xưng tụng được trọn vẹn con người Thượng Sĩ, trông lên thì vời vợi, quay đầu nhìn lại thì Thượng Sĩ đã ở sau lưng. Ông chưa một lần đến nên chẳng để lại dấu vết khi ra đi, nhưng những tương quan nhìn ngắm về ông, đâu đó bóng dáng siêu việt ấy in tự bao giờ, chỉ cần quay đầu không dong ruổi thì lúc nào ông cũng hiện diện. Thượng Sĩ là cây đuốc rực sáng trong thời đại vàng son của Thiền học đời nhà Trần, vì thế những người có cơ duyên muôn thuở gặp được ông đều thấm nhuần giáo pháp. Nhưng nếu không thường nghiệm nơi tâm thức chính mình, thì không thấy được sự có mặt của Thượng Sĩ. Ông chỉ khơi dậy những gì yên ngủ bấy lâu, yếu tố để được dậy hay không tùy thuộc vào chính kẻ đó.

 

Một nhân vật khác nữa có những tương quan, những nét độc dị, và đã lưu lại hình ảnh cũng như âm vang cao vút ở bên Tàu. Đó là Thiền Sư Bàng Uẩn, được kể như một trong những cư sĩ thượng thặng có khuynh hướng lập dị, tùy tục nhưng phong thái trác việt. Ông sống gần gũi với mọi người để tùy bịnh cho thuốc. Lương dược nầy nếu uống đúng cách thì tử sinh không bao giờ đụng đến. Và nếu có thì đó là đại nguyện. Thượng Sĩ được kể như có những nét tương đồng với Bàng Long Uẩn.

 

Bàng Uẩn một cư sĩ Thiền Sư vĩ đại, đệ tử của Mã Tổ một hôm hỏi Mã Tổ “Ai là người chẳng cùng vạn pháp làm bạn lử?”

 

Mã Tổ đáp: “Đợi khi nào ông một ngụm uống cạn nước Tây Giang ta sẽ trả lời cho ông”. Lối trả lời nầy khiến cho Bàng cư sĩ chới với trước những thuật ngữ có không. Và sau những tháng ngày mài dũa công án Mã Tổ đã trao. Một hôm, Bàng Uẩn bỗng chốc vỡ tung ra, đạt được “Tâm không” và trình kệ cho Mã Tổ.

 

Mười phương cùng tụ hội

Người người học vô vi

Đây là chỗ tuyển Phật

Tâm không thi đậu về.

 

Bàng cư sĩ chủ trương Tánh Không “Đừng sợ rơi vào không, rơi vào không chưa phải chuyện dữ. Chỉ mong coi tất cả những cái có đấy là không, chứ đừng lấy cái không chi làm thật, vì bản tính của chúng là không.”

 

Ông là một trong những cư sĩ Thiền Sư mà ảnh hưởng rất đậm trong giới Thiền. Ông vẫn có vợ con, và cả gia đình của ông đều là những người chứng đắc, nên khi ông sắp qua đời, con của ông thi nhau tịch trong tự tại an nhiên trước ông. Quả thật những con người siêu dị có khác kẻ chưa đạt được chút gì an nhiên trong cuộc đời.

 

III. THƯỢNG SĨ NGỮ LỤC

 

Nếu những lời khai thị của Duy Ma Cật làm cho đại đệ tử của Phật run sợ không dám đối đầu, thì những lời pháp của Tuệ Trung cũng làm cho kẻ đối diện khiếp đảm không ít. Lối nói Pháp của Tuệ Trung gần như phủ định sự có mặt của ngôn ngữ, hiển lộ nên biểu tượng cho một sự thể đang nấp kín đàng sau ngôn từ, dù rằng đó là hiện hữu trừu tượng, để từ đó tìm ra cái tuyệt đối của ngôn từ theo nghĩa đạt ý quên lời.

 

Có một vị Tăng hỏi: "Thế nào là đạo ?"

 

Thượng Sĩ đáp: "Đạo không có trong câu hỏi, câu hỏi không có trong đạo"

 

Nếu y cứ vào luận lý học thì lối trả lời này thuộc loại siêu nghĩa, không ăn nhập gì đến nguyên tắc luận lý, nhưng chính điều đó mới tạo nên cái lửng lơ cho người hỏi, không một điểm tựa để bám vào, hễ còn bám được thì lại rơi vào sở tri chướng, ngăn ngại trí tuệ phát sinh. Nên hầu hết các vị Thiền Sư không nằm ở điểm nào, chúng ta không thể căn cứ vào đâu để tra vấn. Và nếu có thì sự tra vấn ấy không giải quyết gì cho con đường giác ngộ. Nếu không tự mình tra vấn với chính ta. Không khéo điều nầy đưa ta rơi vào cửa ngõ của chấp trước. Cần nhất đừng trụ bám vào dù không hay có. Tuệ Trung đề cập đến “muôn vật trở về” như sau đây:

 

Từ không khởi có, có không thông

Có có không không, rốt cuộc đồng

Phiền não bồ đề nguyên chẳng khác

Chân như vọng niệm thảy đều không

Thân như cảnh giả nghiệp như bóng

Tâm tợ gió đưa tánh tợ bồng

Chớ hỏi tử sinh ma với Phật

Sao chầu hướng bắc nước về đông.


Phiền não và Bồ Đề là hai thể đối lập nhau theo quan niệm con người. Vì chúng ta đắm chìm trong phiền não không nhận ra được chân tướng nó, nên mới có đối tượng Bồ Đề để ta y cứ vào đó vượt thoát. Thật ra nó đều hỗ tương với nhau, bởi lẽ cái này lập nên cái kia cũng lập, vì thế trong phiền não vốn có Bồ Đề, chỉ cần ta nhích mạnh tay then chốt nầy vỡ tung ngay.

 

Xưa có vị khách đến hỏi Thiền Sư. Thế nào là Phiền Não; Thế nào là Bồ Đề? Thiền Sư bèn quát lên một tiếng và chê trách anh ta. Thế là vị khách nổi giận rút gươm ra định chém. Thiền Sư từ tốn bảo: Phiền não là thế đó. Anh ta bỏ gươm xuống, Thiền Sư nói tiếp Bồ Đề là thế đó.

 

Tuệ Trung không thừa nhận việc tìm đến Chân Như mà dứt đi vọng niệm. Hễ còn mong ý cầu Chân tức là vọng rồi. Sự mong cầu nào cũng trá hình của dục vọng dù đó là Chân hay không. Nếu chúng ta dụng công đúng với như thị chánh pháp, thì không cầu nó cũng tới vì đó là kết quả tất nhiên của việc hạ thủ công phu, cần gì phải cầu ?

 

“Cầu chân như mà dứt vọng niệm, tợ hét to để át tiếng vang.

Bỏ phiền não mà giữ Niết Bàn, như sợ bóng chạy vào nắng trốn.”

 

Nếu không có được tâm thức sinh động, chúng ta sẽ mù mờ trước những ngữ ngôn của Tuệ Trung. Đâu đó chỉ thấy những đập vỡ, cách mạng để lập nên hiển lộ những bí ẩn núp sau những vỏ khô cứng, ru ngủ ta trong những lâu đài thành quách phong tỏa bởi trần lao. Phải bung ra để được vỡ tung một lần, đi vào bụi hồng thể nghiệm tâm năng thực ngộ, phải vào vòng cát bụi với những ca khúc tuyệt diệu. Nhưng phải là tâm thức của không ô nhiễm. Chỉ có yếu chỉ nầy ta mới đủ bản năng rong chơi mọi nẽo không ai có thể ngăn trở bước đi, và chẳng gì có thể để cho bụi hồng vướng được. Vào chỗ đông người tợ đi vào rừng sâu, không bóng dáng che kín được nhãn quan mình, khởi lên lòng từ bi yêu thương không bờ bến, nhưng không một ai có thể núp mình trong quả tim vĩ đại đó. Bước vào tựa như nghe được khúc ca không khuất trong vô cùng, đôi chân nhịp nhàng theo điệu múa chưa bao giờ được cất lên.

 

Diễn tả những trạng huống nầy Tuệ Trung cho chúng ta một quan niệm vượt thoát như sau:

 

“Vào vòng cát bụi nhịp chân đưa

Vàng óng bờ mi chớp chớp đùa

Xóm bắc rong chơi gieo bụng ngựa

Nhà đông vui bước nhập thai lừa

Roi vàng đuổi mất trâu bùn chạy

Gậy sắc lôi về cọp đá thua

Rồi một ngày mai băng giá hết

Trăm hoa như cũ rộn Xuân xưa”

 

Sự giác ngộ vốn không tách khỏi những triền phược mà có, trong đó nếu khơi dậy dòng ý thức luân lưu không ô nhiễm thì tất cả những tương quan bỗng chốc bùng lên ánh sáng quét sạch bóng tối ngàn năm trong chốc lát. Chưa một ai có thể từ chối cuộc đời mà đạt được giải thoát và cũng chưa có ai trốn chạy khổ đau mà đạt được con đường thoát khổ. Cần nhất du hí trong đó với tâm lực tùy duyên bất biến. Phải mài dũa tâm ý trong dòng đời dông tố nhưng, không bị ràng buộc bởi những tháo gỡ. Với cái tâm linh diệu. Trong bài “Vui thích giang hồ” Tuệ Trung đề cập:

 

“Giang hồ tâm ấy chửa từng lau

Ngày tháng như thoi như bóng câu

Gió mát trăng thanh luôn vẫn đó

Non xanh nước biếc thiếu gì đâu

Chiều nghiêng sáo thổi sương lồng khói

Sáng quấn bườm phăng sóng bạc đầu

Tăm bóng Tạ Tam nay vẫn bặt

Thuyền không bỏ đó gối cồn nâu.”

 

Điểm nổi bật khi Thượng Sĩ đề cập về Tâm. Ở đó ta thấy được sự bất nhị mà ông muốn nói đến

 

Tâm tức Phật

Phật tức Tâm

Linh diệu chiếu cùng kim cổ thông

Xuân đến tự hoa xuân mỉm miệng

Thu về, đâu chẳng nước thu trong

 

Và một đoạn khác

 

Bỏ vọng tâm

Giữ chân tánh

Khác nào tìm ảnh mà quên kính

Nào hay ảnh vốn tự gương ra 

Chẳng biết vọng do từ chân hiện

Vọng lên chẳng thực cũng chẳng hư

Gương nhận không tà cũng không chánh.


Tâm con người vốn không chân cũng không vọng. Vì do những chấp trước sai biệt nên có chân, vọng. Hầu như trong chúng ta đều ghét vọng tìm chân. Có thể cái chân ta muốn tìm đến sẽ trở nên ngăn ngại chính ta, bởi lẽ vọng chân tuy hai là một, nương với nhau mà có, ngay trong vọng vốn đã có chân, chỉ cần vén bộ mặt nghìn đời của nó lên thì chân xuất hiện. Không cần phải tìm cầu đâu xa. Nó ở ngay trong cuộc đời và trong ta. Cũng như tấm gương chỉ in hình bóng dù là tà hay chánh, ô uế hay sạch. Có được như thế thì sự nghiệp giác ngộ hẳn nhiên hiển lộ.

 

Vọng tưởng và ảo ảnh đã lừa dối tri thức con người một cách phi lý, tạo cho cảm quan rơi vào trạng thái mặc nhiên để nó chi phối sai sử. Giống như khi ta nghe kẻ khác nói về một hiện tượng có vẻ quái lạ, thì ảo tưởng sẽ khiến cho ta duyên theo đó gắn thật nhiều những suy tưởng tô điểm thêm cho hiện tượng đó. Trước hết ta bị lôi cuốn bởi ý thức của kẻ khác. Và chính ý thức kẻ cung cấp cho ta dữ kiện đã là không thực, ta lại gắn thêm cái không thực nữa, thì làm sao Chân tánh của mình xuất hiện? Cần nhất từ đó chuyển hướng thì bóng tối liền tiêu, vén mở tâm linh toàn giác. 

 

IV. HÌNH THỨC VÔ NGHĨA TRƯỚC NHỮNG THIỀN SƯ 

 

Thiền vốn quăng đi những hình tướng câu nệ trói buộc ngăn ngại tâm linh giác ngộ, với Thiền cần nhất khai quật nội tâm. Tất cả những hình tướng đều bị vỡ tung, vì tự nó vốn đã không thực. Đó chỉ là cái vỏ rỗng tuếch, ngược lại nó là điểm quan trọng, hầu hết con người căn cứ vào để phán xét và gắn những nhãn hiệu lố bịch một cách phi lý. Dù rằng trong tâm của họ mê mờ lừa đảo, nhưng ngược lại có bóng dáng “dễ coi” thì được kể như tốt rồi.

 

Với Thiền điều này hoàn toàn vô nghĩa không thiết thực. Phải phơi bày nội tâm để hạt giống giác ngộ có cơ may bùng trỗi dậy, tuyệt đối không sơn phết cái vỏ bên ngoài. Vì thế có những Thiền Sư vượt ra khỏi cuộc đời với phong thái lạ lùng quái đản, quần áo tóc tai không màng trau chuốt, nhưng mở miệng là chứa đựng một nội tâm siêu việt, coi thường sống chết, có những vị dị hình kỳ tướng, nhưng là bậc kỳ tài trong thiên hạ. Không cần phải cạo đầu mới gọi là tu, nếu không cạo sạch phiền não trong tâm.

 

Trong lịch sử Thiền những người như Thượng Sỹ đã chiếm một vị trí quan trọng. Miễn sao nội tâm cao vút lên tận trời cao là được. Trước Tuệ Trung có những Thiền Sư cư sĩ như Ứng Thuận thầy của Thiền Sư Tiêu Diêu, thiền sư Giới Minh, thiền sư Giới Viên, và quốc sư Nhất Tông. Trước đó có Thiền Sư Thần Nghi và Thiền Sư Thần Chiếu. Không một ai trong chúng ta có thể phủ nhận công nghiệp tâm linh vĩ đại của những vị này. 

 

Ngay cả Lục Tổ Huệ Năng lúc được trao truyền y pháp vẫn còn là một cư sĩ, nhưng đã thống lãnh Đông Sơn pháp môn và cho đến bây giờ dòng suối vi diệu ở Tào Khê vẫn chảy mãi xuống cuộc đời. Đối với những con người siêu việt nầy ngữ ngôn thị phi như lời pháp, như chiếc dép cũ mòn cần quăng ngay vào bụi. Đứng đi trong cuộc đời như đi vào chỗ không có người, bởi lẽ dòng tâm của những vị đã ở trên cao điểm ngút ngàn thì sá gì vọng động của trần gian. Nếu không phải ngôn ngữ bế tắc trước những hành hoạt phi thường mà đối tượng khủng khiếp là những Thiền Sư hay sao? Lúc nào các vị cũng cười lên những tiếng chấn động màng nhĩ, từ trên chót vót hùng vĩ những ngọn núi cô độc chơ vơ vọng xuống cuộc đời, tiếng cười đinh tai nhức óc, xé cả hư không lồng lộng, tạo nên mây mờ sấm sét trút những trận mưa rào xuống tưới mát triền phược mà ta đang lặn hụp.

 

Tất cả hình tướng đều phải đổ ào trước khi đối diện với Thiền, có như thế những Thiền Sư mới đốt rụi cháy tan những gì mà con người ra sức tô son điểm phấn. Nếu không, điều này chỉ ngăn ngại chứ không giúp được gì trong việc hướng đến tỉnh ngộ. Nếu chúng ta không vượt ra khỏi hình thức đã kèm giữ ta một cách phi lý, thì mộng trần gian mãi là bến bờ không thuyền đưa ta sang sông.

 

Đời nhà Trần đã tạo nên những Thiền Sư trác việt, hầu hết các vị là vua quan, nhưng công danh phú quý không vướng bận lòng. Nhờ thấm nhuần được chánh pháp nên thời đại nhà Trần một trong những thời vàng son nhất của Dân Tộc. Những đóng góp của các Thiền Sư tác động mãnh liệt trong mọi khía cạnh văn hóa, chính trị, xã hội – dựng nên thời vẻ vang cho dân tộc. Đến bây giờ mỗi khi đề cập đến thời kỳ này, ta có cảm nhận sự huy hoàng, thịnh vượng hãy còn phảng phất đâu đây.

 

Tuệ Trung Thượng Sĩ đã đi vào cõi vô cùng, nhưng ngữ lục của ngài vẫn còn chấn động mãnh liệt trong tâm thức mỗi người. Ngữ lục trở thành bửu bối cho những ai muốn tìm về uyên nguyên giác ngộ. Để kết thúc bài nầy với những lời kính cẩn của Thiền Tổ Trúc Lâm Pháp Loa, tán dương Tuệ Trung Thượng Sĩ.

 

A !

Gang ròng nhồi lại

Sắt sống đúc thành

Thước trời tấc đất

Gió mát trăng thanh

Ối! ..................

_____________________

 

Trích "Thiền Sư và Tư Tưởng Giác Ngộ" xuất bản 1987

Nguồn: vuonhoaphatgiao.com

ĐÔI RỒNG CHẦU TẠI ĐỀN THỜ VUA TRẦN NHÂN TÔNG Ở HUẾ XÁC LẬP KỶ LỤC VIỆT NAM

Mỗi rồng chầu dài 105 m, đầu cao 3,5 m, thân cao 2,5 m, vòng bụng chỗ lớn nhất 2,6 m, do nghệ nhân Nguyễn Đình Quang và 20 thợ kép thực hiện từ ngày 1/6 đến 15/10/2008

Tin từ Văn phòng UBND tỉnh Thừa Thiên - Huế cho biết: Trung tâm sách kỷ lục Việt Nam đã chính thức thông báo đôi rồng chầu tại đền thờ Vua Trần Nhân Tông tại Huế được công nhận đạt kỷ lục Việt Nam.

 

Mỗi rồng chầu dài 105 m, đầu cao 3,5 m, thân cao 2,5 m, vòng bụng nơi lớn nhất 2,6 m, do nghệ nhân Nguyễn Đình Quang và 20 thợ kép thực hiện từ ngày 1/6 đến 15/10/2008. Để tạo hình đôi rồng chầu này các lực lượng thi công phải cần đến 78 m3 cát, 8 m3 sạn, 41,5 tấn xi măng, 1,5 tấn sắt, 6 tấn bột đá, 3.300 viên gạch 6 lỗ, 33.000 viên gạch thẻ. Màu chủ đạo của đôi rồng chầu là màu xám, được chạm trổ tinh xảo theo các mô típ cầm kỳ thi họa, tam lân hý cầu, đan xen là những vầng mây khi ẩn, khi hiện. Đôi rồng chầu dẫn vào chính điện đền thờ vua Trần Nhân Tông (vua cha của Huyền Trân Công chúa), gợi nhớ giấc mộng trước đây của đệ tử Bảo Sát trong ngày viên tịch của Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông tại am Ngọa Vân - Yên Tử.

Đây là công trình kỷ niệm 750 năm ngày sinh (1258-2008) và 700 năm ngày mất của vua Trần Nhân Tông (1308-2008) do Công ty cổ phần Du lịch Hương Giang thực hiện. Công trình nằm trong tổng thể Trung tâm Văn hóa Huyền Trân tại núi Ngũ Phong, phường An Tây, thành phố Huế.../.

_______________

TTXVN

Nguồn: https://vov.vn/

THIỀN LÀ SỰ SỐNG CỦA CON NGƯỜI

LỜI GIỚI THIỆU

Xưa nay Thiền pháp là mạch nguồn của Phật pháp. Thiền pháp đủ sức tháo gỡ mọi dính mắc tăm tối của con người. Hiện thực Thiền pháp tháo tung mọi dây mơ rễ má, các thứ buộc ràng từ lâu nay trong cuộc sống. Thấy phủng chỗ này là đạp nhào rào giậu chông gai mọi thứ trong nhân thế. Tuy nhiên phải đầy đủ dũng lực Bát-Nhã một tráng sĩ, giáng ma xử trong tay huy động vẹn toàn quân ma, tất cả trở thành bến bờ thanh lương giải thoát.

Nơi đây, giới thiệu thiền là sự sống của con người, có thể thiền trong cuộc sống gia đình và xã hội, hành giả Phổ Giác đã nói lên được tinh thần này trong tác phẩm “Thiền là sự sống của con người”. Đồng cảm, chia sẻ và khích lệ tác giả, tôi hoan hỷ viết đôi dòng giới thiệu. Rất mong tác phẩm đem đến cho bạn đọc nhiều lợi ích thiết thực và niềm an vui trong cuộc sống.

Trân trọng!

Tổ đình Thường Chiếu, 20-08-2013

THÍCH NHẬT QUANG

THIỀN TRONG CUỘC SỐNG GIA ĐÌNH VÀ XÃ HỘI

Thiền là chân lý sống nên không thể dùng ngôn ngữ hay định nghĩa để diển tả Thiền, đến chỗ đó thì mỗi hành giả nóng lạnh tự biết; nhưng Thiền không thể tách rời cuộc sống, không thể tìm thấy ở một nơi xa xôi nào mà ngay nơi cuộc đời chúng ta. Thiền trong cuộc sống là sự biết cách hoà hợp nhịp nhàng giữa một khối óc sáng suốt và một trái tim hiểu biết, nhân hậu để phát sinh trí tuệ và từ bi. Con đường Thiền tập là tỉnh giác trong mọi lúc, mọi nơi để mỗi hành giả thể nhập chứng ngộ Phật tính sáng suốt ngay nơi thân này. Nói đến Thiền là nói đến sự gắn liền với đời sống con người, không phải như nhiều người thường lầm tưởng là Thiền chỉ dành cho bậc thượng căn, Thiền chỉ áp dụng trong các Thiền viện hoặc phải vào thâm sơn cùng cốc mới có thể tu Thiền, hiểu như vậy vô tình đánh mất giá trị thiết thực của nó. Thiền là con đường ngắn nhất cho nhân loại ứng dụng trong cuộc sống hằng ngày, tuỳ theo hoàn cảnh cuộc sống mỗi người mà ta khéo sắp xếp để Thiền trong đi, đứng, nằm, ngồi, ăn uống, ngủ nghỉ và làm việc.

Sở dĩ xưa nay chúng ta thấy nó xa lạ bởi có quá nhiều tạp chất lẫn lộn trong nhà Thiền nên làm mọi người cảm thấy mông lung, huyền bí, xa vời, khó nắm bắt; cũng vì có nhiều người tu theo Thiền ngoại đạo nên bị tẩu quả nhập ma hay bị điên khùng, từ đó người ta quy kết Thiền và cảm thấy sợ sệt khi nói đến Thiền. Con người hay xa rời thực tế để tìm hiểu những điều cao siêu, huyền bí, trong khi cuộc sống đang dàn trải trước mắt chúng ta tất cả đều là Thiền. Thấy sắc là Thiền, nghe tiếng là Thiền. Mắt thấy, tai nghe là hai căn chúng ta tiếp xúc hằng ngày, ta chỉ Thiền ngay nơi thấy-nghe chớ không phải tìm cầu đâu xa. Con người thường hay nhớ nghĩ về quá khứ, luyến tiếc thời vàng son và mơ mộng viễn vông về tương lai xa tít. Người lớn tuổi hay nhớ về kỷ niệm quá khứ vui buồn, người trẻ thường mong muốn đến tương lai, do đó đánh mất mình trong hiện tại. Người tu Thiền sống ngay tại đây và bây giờ để nhìn thấy rõ những tâm niệm tốt xấu, đúng sai, phải quấy, hơn thua đang phát khởi trong tâm nhằm chuyển hoá chúng trở về với cái gốc ban đầu. Thiền là chất liệu sống giúp con người thông suốt mọi hiện tượng, sự vật trên thế gian này và sống bình yên, hạnh phúc nhờ thấy biết đúng như thật. Nhờ có Thiền chúng ta hiểu rõ bản chất thực hư của thân tâm mình và hoàn cảnh, nên con người sống thương yêu, đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau bằng trái tim hiểu biết với tấm lòng vô ngã, vị tha.

Trong đạo Phật có nhiều phương pháp Thiền để giúp cho nhân loại thể nghiệm sâu sắc vào đời sống gia đình và xã hội. Chính đức Phật Thích Ca Mâu Ni ra đời tại Ấn Độ trên 2600 năm cũng do tu Thiền mà thành tựu đạo giác ngộ, giải thoát. Bên cạnh đó, Ngài thành Phật nhờ hành Bồ tát đạo vô số kiếp về trước và cũng do tu Thiền mà thành tựu trong kiếp hiện tại. Nếu chúng ta giác ngộ, giải thoát cho mình mà không giúp đỡ người khác cùng giác ngộ theo là hạnh của hàng Thanh Văn, Duyên Giác thủ chứng quả vị A La Hán nên không thể thành Phật. “Phật” là danh từ chung nói cho đủ là “Phật đà”, là người giác ngộ, là người tỉnh thức, nghĩa là tự giác, giác tha và giác hạnh viên mãn. Phật là con người bằng xương bằng thịt như tất cả mọi người, cũng được sinh ra từ bụng mẹ, không phải biến hoá từ nơi khác đến. Chúng ta cũng là người giống như Phật, Phật tu hành thành Phật, ta cũng có thể tu hành thành Phật và ai muốn thành Phật thì phải biết tu Thiền.

Trở về quá khứ khi Bồ tát Sĩ Đạt Ta bỏ cung vàng điện ngọc, vợ đẹp con ngoan để ra đi tìm cầu chân lý. Trước nhất Ngài tu Thiền 5 năm đầu với hai vị Thiền sư lỗi lạc nhất thời bấy giờ, nhưng chỗ đến chưa đạt được mục đích giác ngộ, giải thoát hoàn toàn. Ngài từ giã ra đi và tự tu Thiền khổ hạnh ép xác đến 6 năm trời, có khi chỉ ăn mỗi ngày một hạt mè, hạt bắp mà cũng không tìm ra chân lý tối cao. Ngài tu Thiền với hai vị đạo sư nổi tiếng cũng chưa đạt kết quả viên mãn, rồi tự mình Thiền theo cách khổ hạnh ép xác đến tột cùng, dẫn đến ngất xỉu, nhờ cô thôn nữ chăn bò cúng dường bát sữa giúp Ngài dần hồi tỉnh lại. Từ đó, Ngài quán sát trở lại và thấy rõ Thiền nếu ép xác khổ hạnh quá mức sẽ dẫn đến thân thể suy yếu, tinh thần bạc nhược nên không đủ sức thể nhập chân lý. Thiền mà lợi dưỡng đầy đủ cũng không thực chứng bản tâm, do đó Ngài quay về Trung đạo, ăn vừa đủ để nuôi sống thân này, nhờ vậy Ngài dễ dàng vào Thiền nên tâm an định và trí tuệ phát sinh mà thành tựu Phật đạo.

Những lời dạy vàng ngọc của đức Phật do tu Thiền mà thành tựu đã trải qua hơn 26 thế kỷ vẫn còn là ngọn đuốc sáng soi đường cho con người xây dựng nếp sống bình yên, an vui và hạnh phúc trọn vẹn. Đạo Phật đã hiện hữu sáng ngời theo dòng thời gian và tồn tại cho đến ngày hôm nay chính yếu vào việc thăng hoa tuệ giác tâm linh và đạo đức con người. Từ đó, đức Phật hiện thân người, biết rõ thực tại khổ đau của con người và tìm được lối thoát cho con người. Ngài từ bỏ con đường tư duy và cuộc sống bế tắc của các lối Thiền ngoại đạo, đến cội bồ đề tham Thiền nhập định. Trong suốt 49 ngày đêm, Ngài đạt đến sự giác ngộ hoàn toàn, thấy rõ con người từ đâu đến, sau khi chết đi về đâu và biết rõ phương cách thoát khỏi sinh-già-bệnh-chết của kiếp người. Trạng thái giác ngộ ấy trải qua ba giai đoạn: đầu đêm Ngài chứng tuệ giác Túc Mạng Minh, giữa đêm chứng tuệ giác Thiên Nhãn Minh và cuối đêm chứng tuệ giác Lậu Tận Minh. Ngài ngồi dưới cội Bồ-đề 49 ngày đêm Thiền định nhằm phát minh chân lý cuộc đời. Khi định đã sâu, tâm an nhiên, lặng lẽ nên trí tuệ sáng suốt, do đó chứng Tam minh và thành Phật.

Khi tâm an định, trong sáng, Ngài liền nhớ lại vô số kiếp về trước đã từng ở đâu, làm gì, giàu nghèo hay sang hèn… Đây gọi là chứng được Túc Mạng Minh, khi ấy tâm hoàn toàn thanh tịnh, trong sáng, lặng lẽ mà hằng chiếu soi. Túc Mạng Minh đức Phật chứng đắc không phải một thứ thần thông huyền bí nào đó mà do tâm Ngài yên lắng nên nhớ lại vô số kiếp về trước như nhớ chuyện ngày hôm qua. Tất cả suy tư ấy đã nung nấu, thúc đẩy Ngài dấn thân tìm phương cách đưa người thoát khỏi khổ đau, trầm luân và an hưởng hạnh phúc chân thật, vĩnh hằng. Ngài nhớ lại vô số kiếp về trước một cách rõ ràng, tường tận, không thiếu xót một chi tiết nào; từ đó Ngài biết được con người từ đâu đến. Chúng ta không phải ngẫu nhiên có mặt một lần trong cuộc đời mà đã sống chết luân hồi từ vô số kiếp đến nay. Khi chứng được đạo quả sẽ thấy được lẽ thật, ai nói đúng sai về chân lý cuộc đời chúng ta đều biết rõ. Thế nên, trong kinh A-hàm Phật nói “nước mắt chúng sinh nhiều hơn nước biển cả”. Chúng ta phải hiểu xa hơn vì Phật nói nước mắt chúng sinh đâu chỉ một kiếp này mà vô số kiếp sống chết luân hồi, nên nước mắt ấy nhiều hơn nước biển cả.

Trạng thái chứng thứ hai là Thiên Nhãn Minh. Túc Mạng Minh là cái thấy biết về thời gian quá khứ-hiện tại-vị lai trong vô số kiếp. Thiên Nhãn Minh là cái thấy biết về không gian, thấy được sự vật hết sức nhỏ nhiệm và xa vô cùng; thấy tường tận, rõ ràng nhân quả nghiệp báo của tất cả chúng sinh. Chúng sinh có mặt trên thế gian này là do nghiệp quá khứ tạo nên tốt hay xấu mà dẫn tới thọ sanh trong hiện tại, tuy là con người nhưng không ai giống ai vì nghiệp báo bất đồng. Trong Kinh đã nói khi chứng được Thiên Nhãn Minh Ngài thấy trong bát nước có vô số vi trùng, 26 thế kỷ trước khoa học chưa tiến bộ nên không có kính hiển vi nhưng đức Phật đã thấy được vô số vi trùng trong bát nước. Hồi xưa ít ai tin lời Phật vì đâu có gì chứng minh. Có một lần, vị Tỳ-kheo chứng A-la-hán đi đường xa, khi qua sa mạc ngài khát nước quá lại gặp cái ao hơi cạn nên định lấy nước uống. Khi dùng Thiên Nhãn Minh ngài thấy vô số vi trùng trong nước nên không dám uống, đành chịu khát mà về đến Tịnh xá. Về đến nơi Ngài trình cho Phật biết, Phật nói “tại sao ông không dùng con mắt thường của mình để nhìn”. Như vậy, rõ ràng cách nay hơn 2600 năm Phật đã thấy được vi trùng, các vị A-la-hán cũng thấy được vi trùng, nên trong Luật dạy quý Tăng ni đi đâu phải mang theo đãy lọc nước vì sợ uống nước sẽ giết hại vi trùng. Ngày nay chúng ta không mang đồ lọc nước theo vì nước đã được lọc sẵn. Đó là nói về vật rất nhỏ; còn vật xa, Phật nhìn trong bầu vũ trụ thấy có hằng hà sa số thế giới, tức là thế giới nhiều như cát sông Hằng Ấn Độ.

Ngày xưa, một số người cho rằng trời tròn đất vuông có giới hạn, nhưng Phật nhìn thấy ngoài hành tinh của chúng ta còn có vô số hành tinh khác. Hồi xưa đâu có kính viễn vọng, Phật dùng Thiên nhãn thấy được vật ở rất xa, rất nhỏ; do đó Ngài thấy được tường tận nghiệp quả của tất cả chúng sinh thăng lên lộn xuống luân hồi tái sinh, hưởng phước an vui hạnh phúc hay bị sa đọa khổ đau là do mình tạo lấy. Trong một bài Kinh Phật nói, “Ta nhìn thấy chúng sinh theo nghiệp tái sinh luân hồi trong ba cõi sáu đường giống như người đứng trên lầu cao nhìn xuống ngã tư đường, thấy kẻ đi qua người đi lại rõ ràng”. Chính vì vậy, Phật khuyên chúng ta không làm các việc xấu ác mà hãy làm các việc thiện lành, tốt đẹp để hưởng phước báo trong cõi lành; còn tạo nghiệp dữ thì bị đọa vào chỗ xấu ác, khổ đau. Những gì Phật thấy và nói lại trong Kinh điển là do Ngài tu chứng và thấy biết đúng như thật chớ không phải do ý thức suy luận viễn vông. Những bài Kinh Bổn Sanh hay Bổn Sự chúng ta đọc được trong tạng chữ Pali hoặc chữ Hán là những bài Kinh nói vô số kiếp về trước của đức Phật và các vị Thánh đệ tử. Kinh Bổn Sanh nói về tiền kiếp nhiều đời của đức Phật. Kinh Bổn Sự nói về quá khứ của các vị Bà-la-môn hay các vị Tỳ-kheo đời trước đã từng làm gì, ở đâu và bây giờ thọ quả báo thế nào. Như vậy, những sự việc của chư Tăng xảy ra trong thời đức Phật Ngài đều thấy rõ từ những kiếp trước, Ngài nói và người sau ghi chép lại gọi là Kinh Bổn Sự. Những sự việc của Ngài về vô số kiếp trước gọi là Kinh Bổn Sanh. Do nghiệp đã tạo mà sinh ra chỗ tốt hay chỗ xấu chớ không phải ngẫu nhiên, cũng không phải do đấng thần linh, thượng đế nào có quyền sắp đặt, định đoạt số phận của muôn loài chúng sinh.

Trạng thái chứng thứ ba là Lậu Tận Minh. “Lậu” là lọt, là rớt, không còn rớt trong ba cõi sáu đường tức là chứng được Lậu Tận Minh. Đây là vấn đề then chốt và chủ yếu mà Ngài muốn tìm để giúp thân phận con người thoát khỏi sinh-già-bệnh-chết. Do chứng được Lậu Tận Minh nên Ngài biết rõ nguyên nhân đi trong sanh tử luân hồi và cách dứt khỏi luân hồi sống-chết. Chính bản thân Ngài đã thoát ra được và đi giáo hóa suốt 49 năm; bị người vu oan giá họa, bị người chửi mắng, hãm hại đủ mọi cách nhưng Phật vẫn bình thản, an nhiên, tự tại chứng minh cho đời sự trong sạch của mình, đã hoàn toàn giác ngộ, giải thoát và thành Phật. Trước khi nhập diệt, Ngài báo cho tứ chúng đồng tu biết được ngày giờ ra đi trước ba tháng. Cho nên, Thiền định là con đường thể nghiệm sâu sắc về chính mình, giúp mọi người vượt qua cạm bẫy cuộc đời để sống bình yên, hạnh phúc và tự tại, giải thoát.

Tam Minh là quá trình Thiền của đức Phật trong đêm Thành đạo dưới cội Bồ đề, đánh dấu sự chuyển đổi quan trọng từ sa môn Cù Đàm dấn thân tìm chân lý, trở thành bậc giác ngộ Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn. Phật là một con người giống như tất cả mọi người, Ngài là một hoàng thái tử dám từ bỏ quyền uy thế lực, cung vàng điện ngọc, vợ đẹp con ngoan, từ bỏ tất cả những gì chúng ta hằng mong muốn để đi tìm chân lý sống cho con người. Như Lai là người giác ngộ hoàn toàn, không còn bị ràng buộc và dính mắc các pháp thế gian như tham lam, sân giận, si mê, mạn nghi và ác kiến. Như Lai là một trong mười danh hiệu của Phật mà Ngài thường dùng trong các bản Kinh, chúng tôi tạm gọi là “không từ đâu đến và cũng không đi về đâu”. Nó là một thực tại nhiệm mầu không thể diễn tả bằng ngôn ngữ, Như Lai là bậc giác ngộ, bậc tỉnh thức và thấy biết đúng như thật. Như Lai là bậc Ứng Cúng xứng đáng được trời người tôn trọng và cung kính cúng dường, là bậc đã phá trừ các phiền não khổ đau. Như Lai là bậc Chánh Biến Tri, là người đã giác ngộ rộng lớn, thấy biết chân chính và không còn dính mắc các Pháp trần tục ở đời như si mê, tham ái, giận dữ, ghen ghét, hận thù, cống cao ngã mạn và các sự trói buộc khác. Ngài tự do an lạc, thảnh thơi và sống có hiểu biết, thương yêu chân thành mà không phân biệt người thân hay thù. Như Lai là bậc Minh Hạnh Túc, có nghĩa là cái thấy đầy đủ về nhận thức, hành động đạt đến mức sáng suốt tột cùng. Cái thấy về vô số kiếp về trước làm gì, ở đâu, cái thấy tất cả chúng sinh luân hồi sinh tử, tái sinh trong ba cõi sáu đường đều do mình tạo ra và cái thấy biết cách làm cho con người không còn bị sinh-già-bệnh-chết chi phối. Như Lai là bậc Thiện Thệ, là người đã khéo vượt qua sống chết, đã hoàn toàn được giải thoát một cách viên mãn. Như Lai là bậc Thế Gian Giải, là người đã thấu hiểu được tâm tư, tình cảm, bản chất của mọi chúng sinh, cũng như tất cả mọi hiện tượng, sự vật trên thế gian này. Như Lai là bậc Vô Thượng Sĩ, là người đạt tới nhân cách, phẩm chất cao thượng nhất. Như Lai là bậc Điều Ngự Trượng Phu, là người có khả năng chinh phục, chế ngự, điều động, rèn luyện, giúp cho con người vượt qua cạm bẫy cuộc đời, kể cả những người khó điều phục. Như Lai là bậc Thiên Nhân Sư, là thầy của trời người. Loài trời ở đây chúng ta thường gọi là chư thiên, là loài có phước báu hơn con người. Như Lai là Phật, nói cho đủ là Phật Đà, là người giác ngộ, là người tỉnh thức, là người thấy biết đúng như thật. Như Lai là bậc Thế Tôn, là người tôn quý trong thế gian. Sở dĩ được tôn quý vì nhân cách, phẩm chất sống của Người luôn từ bi và trí tuệ, hiểu biết và yêu thương, dấn thân và phục vụ, bao dung và tha thứ, sẻ chia và thông cảm vì lợi ích của tất cả chúng sinh. Người cư sĩ tại gia thường xuyên quán niệm như thế về Phật thì tâm tư càng ngày càng có sức định tĩnh, lắng trong, nhờ vậy chúng ta luôn sáng suốt khi học và làm việc và có được niềm vui sống trong tỉnh giác.

Riêng tại Việt Nam, ánh sáng tuệ giác Tam Minh của đức Từ Tôn đã được các Thiền sư, cư sĩ Phật tử tiếp tục thắp sáng, tạo thành những trang sử vàng son cho ngôi nhà Phật giáo Việt Nam. Tiêu biểu như ở thời Lý, Trần, vua quan và Thiền sư đã khéo vận dụng tuệ giác và sống đúng như thật qua những đóng góp quan trọng vào việc giữ gìn đất nước độc lập, xây dựng, phát triển quốc gia. Nhất là đức vua Phật hoàng Trần Nhân Tông do tu Thiền mà giác ngộ, giải thoát, mở ra dòng Thiền hiện đại Trúc Lâm Yên Tử Việt Nam hướng dẫn tất cả mọi người cùng tu. Ở Ấn Độ có Thái tử đi tu và thành Phật. Ở Việt Nam ta có vị vua từ bỏ ngai vàng, xuất gia và ngộ đạo. Đó là điểm sáng chiếu soi cho ngôi nhà Phật giáo Việt Nam. Phật do tu Thiền mà giác ngộ, các vị Tổ cũng do tu Thiền mà giác ngộ, và đặc biệt cư sĩ tại gia Tuệ Trung Thượng Sĩ cũng do tu Thiền mà tự tại. Trước lúc sắp ra đi, thê thiếp, con cháu trong nhà khóc lóc um sùm, ngài mở mắt ra nói “các ngươi làm mờ chân tánh ta”, nói xong ngài an nhiên, tự tại ra đi.

NHỮNG ĐIỀU CẦN BIẾT KHI TU THIỀN

Tu Thiền muốn có kết quả tốt đẹp, tâm an định và trí tuệ phát sinh để sống bình yên, an vui, hạnh phúc thì mọi người cần phải nắm vững những điều căn bản sau đây:

1- Không trực tiếp sát sinh hại vật, xúi bảo người khác giết hại hoặc vui vẻ đồng tình khi thấy người khác giết hại. Người có tâm sát sinh hại vật thì không bao giờ có thể Thiền định, vì trong các nghiệp xấu ác nặng nhất là tội giết hại. Kẻ giết người cùng kẻ bất hiếu với cha mẹ cũng không thể Thiền định. Muốn tu Thiền được kết quả tốt đẹp chúng ta phải từ bỏ giết hại, bởi khi giết vật mắt thấy, tai nghe chúng giãy giụa đau thương nên chủng tử đó huân tập vào tàng thức, lâu ngày ta thấy con vật la khóc đến đòi nợ. Người giết hại nhiều hay lo lắng, sợ hãi, bất an nên trong tâm lúc nào cũng day dứt, khó chịu. Người tại gia vì gia đình, người thân nên phải làm việc để có nguồn thu nhập, vẫn phải ăn mặn để đủ sức khoẻ mà dấn thân đóng góp, phục vụ; nhưng nên ăn mặn theo Tam tịnh nhục, không trực tiếp giết hại, không xúi bảo người khác giết hại, không vui vẻ đồng tình khi thấy người khác giết hại. Ta có quyền mua thịt cá đã làm sẵn hoặc đã nấu chín, nếu mua thịt cá mần sẵn thì phải để ý kiểm tra, đừng mua đồ ương thối tuỳ theo kinh nghiệm mỗi người. Người hay sát sinh hại vật tức làm khổ chúng sinh nên không có lòng từ bi, do đó khó mà Thiền định được kết quả tốt đẹp.

2- Không gian tham trộm cướp, lấy tài sản của cải người khác. Trộm là lén lấy, cướp là công khai lấy. Muốn Thiền định mà trong tâm cứ tính toán làm sao để lấy của người khác thì chắc chắn không bao giờ tâm an định. Nhân trộm cướp quả hiện đời bị tù tội và nghèo khổ, thiếu thốn. Cho nên, người tại gia tu Thiền mà còn bệnh này tức lòng tham lam, ích kỷ quá nhiều, do đó không thể đạt kết quả như ý muốn.

3- Người hay tà dâm cũng vậy, vì lòng dục nặng nề thích đắm sắc mê hoa nên lúc nào cũng toan tính, tìm cách chiếm đoạt để hưởng thụ khoái lạc dục tính. Muốn được như vậy trước nhất người tà dâm phải nói dối “tôi không hạnh phúc” hay “tôi bị bắt buộc”, cốt để làm sao cho người khác phái tin mình. Tham lam, dối gạt để hưởng thụ cho riêng mình là thói quen xấu nhiều đời nhất của đấng mày râu. Dù có vợ đẹp con xinh nhưng vẫn muốn kiếm thêm, vẫn ham thích của lạ để chứng tỏ khả năng chinh phục. Báo chí vừa qua cũng đã đăng tin các đại gia bỏ tiền mua dâm với một số người mẫu, hoa hậu với số tiền quá cao trong một lần quan hệ. Quan niệm chồng chúa vợ tôi, trai năm thê bảy thiếp là tập tục trọng nam khinh nữ phát xuất từ thời phong kiến. Vua có quá nhiều cung phi mỹ nữ nên ít có ông nào sống thọ. Vậy muốn tu Thiền có kết quả tốt chúng ta phải biết tiết chế trong sinh hoạt tình dục bằng cách sống thuỷ chung “một vợ một chồng”. Người quá nặng tính dục sẽ giảm sức khoẻ, tinh thần không sáng suốt nên ngồi Thiền khó an định, do đó tâm niệm cứ lăng xăng dính mắc “ta-người-chúng sinh”.

4- Người hay nói dối để lường gạt hoặc hại người cũng khó lòng Thiền định vì tâm tư lúc nào cũng tính toán hơn thua, tìm cách sén bớt của người. Tâm không ngay thẳng, hay nghĩ điều tà dại như nói dóc, nói láo để lường gạt, khoe khoang, nói lời mắng chửi nặng nề tức tâm nóng giận, thù hằn chất chứa nhiều trong lòng. Hạng người như vậy cũng khó mà Thiền định an ổn. Cho nên, muốn tu Thiền đạt được kết quả phải buông xả phiền não tham-sân-si, phải giữ giới không nói dối hại người hoặc nói lời hằn học, mắng chửi.

5- Uống rượu hoặc dùng các chất kích thích, ăn uống đồ độc hại, hút chích xì ke ma tuý thì càng không thể Thiền định vì tinh thần mê muội, thân thể bất an, không có tinh thần tự chủ. Khi ta tiêu thụ những thứ trên quá nhiều sẽ làm tàn hại thân tâm, bệnh hoạn, si mê, cuồng loạn; làm hại mình, hại gia đình, người thân và xã hội. Hạng người như thế lúc nào cũng tìm cách lường gạt của người khác, nếu làm có tiền cũng tiêu tốn hết vào đó. Gia đình nào có những con người như thế sẽ khổ đau vô cùng cực vì làm khổ chính mình lẫn gia đình, người thân. Nếu ghiền những thứ đó mà không có tiền thì phải trộm cướp, lường gạt của người khác bằng mọi cách. Một xã hội có nhiều con người như vậy trước sau cũng sẽ tan nhà nát cửa, đất nước loạn lạc, khủng hoảng nhân cách đạo đức làm mất tính người. Biện pháp duy nhất giúp cho con nghiện là sống cách ly xã hội, được hướng dẫn đạo đức tâm linh để tin sâu nhân quả, được tạo công ăn việc làm tại chỗ, sống đơn giản, đạm bạc thì họa may mới cứu chữa được; bằng không xã hội phải xây cất nhiều trung tâm thần kinh và trung tâm cai nghiện để chứa những con người này, dần hồi nhà tù sẽ được mở rộng để dung nạp nhiều kẻ lường gạt, trộm cướp, biếng nhác, ăn không ngồi rồi. Hiện nay xã hội chỉ chữa bệnh tạm thời trên phần ngọn nên tốn kém, mất mát, hao hụt quá nhiều; muốn giúp thế gian giảm bớt tệ nạn xã hội chỉ có cách duy nhất làm sao hướng dẫn mọi người tin sâu nhân quả, gieo nhân tốt gặt quả tốt, gieo nhân xấu gặt quả xấu.

Đất nước chúng ta đang trên đà phát triển toàn diện về mọi mặt, nếu con người không ý thức và có hiểu biết chân chính thì chỉ được lợi ích vật chất bên ngoài. Trong bối cảnh hiện nay chúng ta đang sống chung với ô nhiễm môi trường, ô nhiễm văn hóa phẩm đồi trụy, ô nhiễm thực phẩm đồ ăn thức uống, hầu như đại đa số mọi người đều dùng những hóa chất độc hại đưa vào cơ thể do nhu cầu sự sống. Ngành quản lý chức năng cần hạn chế cấp giấy phép một số hoạt động có tác hại lớn như các quán nhậu, các làng nướng, vũ trường… đang mọc lên như nấm mà không có giờ giấc hạn chế. Cơ sở giáo dục chưa phù hợp với sự hiểu biết của con người nên không có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa học tập, làm việc và tu dưỡng đạo đức tâm linh. Việc thay đổi, phát triển, mở mang là điều tốt nhưng phải dựa theo trình độ dân trí, nếu phát triển quá nhanh sẽ làm con người không theo kịp, thành ra phản tác dụng và làm tổn hại trở lại. Có tiện nghi vật chất đầy đủ mà không có tinh thần sáng suốt cùng hiểu biết chân chính thì nguy hiểm vô cùng vì sẽ đưa con người vào hố sâu tội lỗi.

Theo sự hiểu biết của chúng tôi, muốn mọi người sống thương yêu đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau trên tinh thần vị tha, biết cảm thông và tha thứ, biết bao dung và độ lượng, hay san sẻ và nâng đỡ bằng tình người trong cuộc sống thì trước nhất ta phải tin sâu nhân quả, tin nhân quả luôn theo ta như bóng với hình, dù trăm kiếp ngàn đời vẫn không mất, khi hội đủ nhân duyên quả báo hoàn tự hiện. Ta tin tâm mình là Phật, siêng năng cố gắng làm lành, buông xả tâm niệm về hành động xấu ác. Ta tin bản thân có khả năng làm được tất cả mọi việc trên thế gian mà không phải cầu khẩn, van xin một đấng quyền năng nào đó. Chính ta là ông chủ nhân của bao điều họa phúc. Ngày xưa khi ta chưa biết tu thì ý nghĩ xấu phát sinh ra lời nói, dẫn đến thân giết hại, trộm cướp, lường gạt của người khác; bây giờ biết tu rồi ta suy nghĩ điều thiện, miệng nói lời từ ái, chân thật, sống bao dung, giúp đỡ người khác. Chúng ta chỉ cần thay đổi nhận thức thì nhân quả xấu sẽ từ từ thay đổi theo chiều hướng tốt đẹp, nhưng ta phải bền chí, kiên trì, đừng ham mau lẹ mà trở thành tham lam. Mình mới tu Thiền chỉ có vài năm mà muốn có kết quả liền thì không thể được vì vô số kiếp khi chưa biết tu ta đã huân tập biết bao nhiêu thói hư, tật xấu; nay biết tu rồi chỉ cần kiên trì, bền bỉ lâu dài thì việc gì cũng có thể làm được; ví như tấm gương sáng lâu ngày bị bụi bám đầy, ta chỉ cần lau bụi phiền não tham-sân-si, ganh ghét, tật đố, ích kỷ, mê muội chất chứa hại người cho đến khi nào bụi hết thì gương tự trong sáng.

6- Người tu Thiền mập quá cũng khó tu vì ăn nhiều là do lòng tham đắm, không biết làm chủ trong ăn uống, thân thể chậm chạp, mệt mỏi, ngồi lại vọng niệm lăng xăng khó điều phục. Người quá mập nếu là phụ nữ có chồng sẽ bị chồng chê và khó có được hạnh phúc thật sự, khó Thiền định được vì khi ngồi lại cảm thấy khó khăn, chộn rộn, mệt mỏi, hoặc Thiền đi, Thiền lạy cũng chậm lụt hơn người thường. Muốn tu Thiền để được kết quả tốt đẹp ta phải điều hoà, cân bằng sức khoẻ. Thí dụ mình cao 1m60 thì trong lượng cơ thể cho phép 56 kg, giữ quân bình như vậy thì ta tu Thiền rất nhẹ nhàng vì mình làm chủ được ăn uống là đã biết tu rồi. Nếu không có đủ khả năng làm chủ trong ăn uống thì ta điều hoà thân thể tối đa là 59 kg hoặc thấp nhất là 53 kg, chỉ cần làm chủ trọng lượng cơ thể là chúng ta đã biết cách tu Thiền.

7- Người ốm quá là người bệnh hoạn, suy dinh dưỡng, thiếu sức khoẻ nên thân thể đau nhức, mệt mỏi, tinh thần rối loạn, hay lo lắng. Thân thể không khoẻ mạnh thì tinh thần không sáng suốt nên cũng khó định tâm trong lúc Thiền.

Ngoài những đòi hỏi trên thì người tu Thiền phải biết cung kính, hiếu thảo với ông bà cha mẹ, phải chăm sóc dưỡng nuôi khi cần thiết và khi tuổi già sức yếu; ngoài ra còn biết bố thí, cúng dường người tu hành chân chính và người khó khăn, nghèo khổ, biết làm các việc phước thiện như ấn tống kinh sách, băng đĩa, từ thiện giúp đỡ người bất hạnh khi có nhân duyên. Có bố thí, giúp đỡ, sẻ chia ta mới xả bỏ tâm tham lam, ích kỷ, bỏn sẻn, keo kiết nhiều đời; nhờ vậy tâm từ bi giúp người cứu vật được phát triển từ trong gia đình, người thân rồi lan rộng đến người ngoài xã hội.

Nói tóm lại, trước khi tu Thiền chúng ta cần phải có một hiểu biết chân chính, nhận thức sáng suốt, tin sâu nhân quả, tin chính mình và quyết tâm bền chí phải Thiền trong mọi oai nghi đi-đứng-nằm-ngồi, ăn uống, ngủ nghỉ, sinh hoạt cho có chừng mực, giữ giới không làm tổn hại thân tâm mình, người và vật. Đó là phương pháp chung dành cho người tu Thiền, nhưng còn tuỳ sức khoẻ, hoàn cảnh cuộc sống của mỗi người mà chúng ta biết cách áp dụng sao cho bản thân được bình yên, an vui, hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ. Chúng ta biết áp dụng Thiền đúng lúc, đúng chỗ, đúng nơi thì ngày càng giảm bớt phiền não tham-sân-si và phát sinh trí tuệ, nhờ vậy tăng trưởng lòng từ bi thương xót giúp đỡ người và vật khi có nhân duyên. Cứu giúp một người qua cơn hoạn nạn và giúp họ biết tin sâu nhân quả, hay nói cách khác ta cho họ con cá cũng cần phải cho họ cần câu và chỉ cách câu. Con cá chỉ là phương tiện ban đầu, cho họ cái cần câu thì họ mới biết cách vượt qua nỗi khổ, niềm đau và sống an vui, hạnh phúc.

Thiền mà chúng tôi đang hướng dẫn ở đây là đi vào đời sống gia đình và xã hội, ai muốn sống tốt, không làm tổn hại người khác thì ngay bây giờ phải biết tu tâm sửa tánh để quay về con người tâm linh của chính mình. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sau khi tu Thiền thành tựu đã giáo hoá 49 năm không biết mệt mỏi, nhàm chán vì Ngài không thấy ai là kẻ thù mà chỉ thấy người chưa thông cảm với nhau mà thôi. Dù bị người hãm hại đủ mọi cách nhưng Phật vẫn không buồn phiền mà còn thương họ nhiều hơn vì Ngài đã sống được với tâm thanh tịnh, sáng suốt. Người không biết tu Thiền khi gặp việc xấu sẽ tìm cách trả thù trở lại nên nhân quả vay trả, trả vay không có ngày thôi dứt.

TU THIỀN TRƯỚC NHẤT PHẢI TỰ TIN CHÍNH MÌNH

Người tu Thiền trước nhất phải quyết tâm tin mình sẽ thành Phật, tâm Phật thanh tịnh, sáng suốt nương nơi 6 căn của mỗi người là mắt-tai-mũi-lưỡi-thân-ý; nương nơi mắt thì thấy biết rõ ràng không lầm lẫn, hình ảnh sự vật như thế nào thì biết rõ như thế mà không dính mắc; nghe chỉ là nghe, có tiếng nghe có tiếng, không tiếng nghe không tiếng, tiếng lớn tiếng nhỏ là âm thanh bên ngoài, tính nghe thì luôn thường biết rõ ràng; mũi-lưỡi-thân-ý cũng lại như thế. Chúng ta tin tâm mình là Phật, giống như chiếc gương sáng vì để lâu ngày bị bụi bám vào, muốn gương sáng trở lại phải chịu khó lau chùi, hết bụi tự nhiên gương sẽ sáng. Cũng vậy, chính tâm mình là Phật nhưng vì lâu ngày ta để bụi phiền não tham-sân-si bám vào nên tâm Phật không hiển lộ, đến khi buông bỏ hết mọi vọng niệm thì tâm Phật hằng soi sáng. Không tin tâm mình là Phật thì chúng ta sẽ không cố gắng chuyển hoá phiền não tham-sân-si để được giác ngộ, giải thoát ngay trong cõi đời này. Quả quyết tin tâm mình là Phật là ta đã thành tựu đức tin mãnh liệt, nhờ vậy khi tu Thiền dễ dàng buông xả sự tham đắm, dính mắc từ trước đến giờ.

Trong sự tu hành chúng ta phải khẳng định, tâm mình là Phật mới có thể tự giải thoát sống chết, không một đức Phật hoặc chư vị Bồ-tát nào có thể giải thoát thay thế cho chính mình được. Cuộc sống ngoài xã hội cũng vậy, mọi việc nên hư, thành bại, tốt xấu đều tự chúng ta gầy dựng tạo nên. Chính ta là ông chủ nhân của bao điều hoạ phúc, mình làm lành được hưởng phước, mình làm ác chịu khổ đau, thành Phật hay không là do sự quyết tâm của mỗi người. Ai có đầy đủ đức tin mãnh liệt nơi chính mình thì sẽ không trốn tránh trách nhiệm về mọi hành vi của bản thân, không ỷ lại hay cầu cạnh, nhờ vã kẻ khác, không yếu đuối, hèn nhát trước mọi khó khăn. Chúng ta can đảm đối diện với cuộc sống để tìm cách vươn lên vượt qua cạm bẫy cuộc đời nhằm chuyển hoá nỗi khổ, niềm đau thành an vui, hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ.

TU THIỀN PHẢI CÓ LÒNG QUẢ CẢM

Nhờ tự tin chính mình chúng ta mới can đảm vượt qua mọi khó khăn, gian nan, thử thách, cương quyết quả cảm tiến lên, phấn đấu chiến thắng bọn quân ma phiền não làm trở ngại. Chúng ta biết rõ chính mình có khả năng thành Phật nên quyết chí tu hành cho đến khi thành tựu viên mãn mới thôi. Đức tự tin và lòng quả cảm giúp ta mạnh dạn, gan dạ dấn thân đóng góp, phục vụ tất cả chúng sinh không biết mệt mỏi, nhàm chán để mình và người cùng được bình yên, hạnh phúc. Nếu chúng ta không tự tin chính mình và không có lòng quả cảm thì ta sẽ không bao giờ kiên trì, bền chí khi gặp khó khăn, vấp ngã. Nhờ tin tâm mình là Phật nên ta xem thường mọi nguy hiểm, sống đơn giản, đạm bạc để tu hành như vua Trần Nhân Tông. Vị vua Thiền Sư đã nhường ngôi lại cho con lên núi Yên Tử tu hành nơi đồi núi hiểm trở, khó khăn, thú dữ chực chờ. Trước những hiểm nguy như thế nhưng Phật hoàng Trần Nhân Tông vẫn ung dung, tự tại, không bất an, lo lắng, sợ hãi mà quyết chí tu hành. Thật là một tâm hồn quả cảm tràn trề! Nếu chúng ta ai cũng ứng dụng được tinh thần quả cảm này vào xã hội để dấn thân, đóng góp và phục vụ tốt cho mọi người, thì việc gì cũng có thể thành công tốt đẹp.

TU THIỀN PHẢI BỀN CHÍ SIÊNG NĂNG LÂU DÀI

Có lòng tự tin chính mình chúng ta mới cố gắng nỗ lực tiến tu để buông xả mọi tham đắm, dính mắc ở đời. Bất cứ làm một việc gì mà không tin mình làm được thì chắc chắn việc ấy sẽ bỏ dở nửa chừng, hoặc có làm cũng không tới đâu. Chúng ta tin chắc việc này mình làm được thì ngày đêm siêng năng, cần mẫn, không dám lơi là, giải đãi. Tin chính mình giúp ta cố gắng, siêng năng, bền chí, kiên trì, không chán nản hay bỏ dở nửa chừng. Tin tâm mình là Phật giúp người tu Thiền tinh tấn, bền chí, nhẫn nại, cố gắng thực hành cho đến khi công thành quả mãn mới thôi. Tin tâm mình là Phật là đã có nhân thành Phật, chỉ cần cố gắng tu hành sẽ thành Phật quả. Từ nhân đến quả đều do sự siêng năng tu hành của bản thân, không phải ai khác có thể làm thế cho ta được dù đó là đức Phật. Ở thế gian ai cũng tự tin chính mình thì chắc chắn mọi việc sẽ được thành công tốt đẹp. Tin tưởng mình có khả năng nên mới siêng năng, cố gắng trong mọi nhiệm vụ. Thế cho nên muốn làm việc được thành công viên mãn thì chúng ta trước tiên phải tự tin chính mình, có lòng quả cảm và bền chí, siêng năng, cần mẫn.

TU THIỀN TÙY THUỘC VÀO VẬN MỆNH ĐẤT NƯỚC DÂN TỘC

Xã hội và tôn giáo luôn liên quan, ảnh hưởng mật thiết với nhau, tu Thiền nói riêng cũng vậy. Trong Phật giáo có quá nhiều pháp môn nhưng chính yếu vẫn là Thiền, tuy nhiên Thiền cũng có nhiều loại. Có hai phương pháp chính yếu khi tu Thiền là Thiền Chỉ và Thiền Quán, hai loại này gọi là Thiền Đối Trị và Thiền Trực Chỉ, tức là đi thẳng vào nội tâm để buông xả. Thiền Chỉ và Thiền Quán luôn dung thông, hỗ trợ cho nhau và phải có sự liên kết chặt chẽ mới có thể thành tựu mục đích sau cùng. Khi dân tộc không bị chiến tranh loạn lạc, có chủ quyền độc lập thì pháp môn tu nhà Phật hướng về tự lực hoàn toàn. Khi dân tộc mất chủ quyền, bị lệ thuộc thì pháp môn tu hướng về tha lực nhiều hơn, nhưng chính yếu vẫn là tự lực. Chúng ta thấy sự thịnh suy của dân tộc là sự thịnh suy của Thiền, một đất nước mất chủ quyền thì người dân sao có thể tin vào khả năng tu tập của chính mình nên dễ dàng đánh mất tự chủ mà tin vào tha lực bên ngoài. Chính vì thế tu Thiền cũng chịu ảnh hưởng theo vận mệnh của đất nước. Tuy nhiên, nếu chúng ta đã tin sâu nhân quả thì dù trong hoàn cảnh nào ta cũng có thể tu Thiền, vì Thiền luôn song hành với đời sống của chúng ta. Ăn uống, mặc quần áo, đi tiểu, đi đại hằng ngày nếu không biết Thiền ta sẽ tự đánh mất mình, vì những điều này ta phải tự giải quyết chứ người khác không thể thay thế được.

THIỀN RẤT THỰC TẾ TRONG ĐỜI SỐNG MỌI NGƯỜI

Chủ trương của Thiền là khai sáng trí tuệ, phục hưng lại con người tâm linh của bản thân mà ta đã lãng quên từ lâu vì bị phiền não tham-sân-si che lấp do chấp thân tâm này làm ngã. Chính nơi thân chúng ta đã có sẵn con người chân thật, đó là Phật tính sáng suốt nương nơi mắt-tai-mũi-lưỡi-thân-ý. Con người thật của mình không phải do Phật cho hay do một đấng thần linh, thượng đế nào tạo nên. Chính tâm Phật là cái có sẵn nơi chúng ta, một phút giây vắng nó thân này sẽ ngừng hoạt động và chuyển sang đời khác. Ví như gió không có hình tướng cụ thể nhưng thấy lá cây động, thân người mát ta mới cảm nhận có gió, lúc bình thường thì không. Cũng vậy, ngay nơi thân này có tâm Phật sáng suốt nhưng vì vô minh, phiền não che chướng mà chúng ta lãng quên, bây giờ ta chỉ cần thừa nhận mình có sẵn thì một đời an vui, giải thoát. Thực tế hơn nữa khi người tu Thiền chỉ cần khéo biết cách áp dụng vào đời sống hằng ngày, từ khi mở mắt thức dậy, tắm rửa, đi đại, đi tiểu, ăn uống, làm việc, cho đến đi ngủ cũng đều Thiền được cả, không phải cứ vào chùa hay thâm sơn cùng cốc mới tu Thiền. Để thấy rõ tánh cách thực tế của Thiền, chúng ta cùng nghe Lục Tổ nói trong bài tụng “Vô Tướng”:

Phật pháp ở thế gian

Chẳng lìa thế gian giác

Lìa thế kiếm bồ-đề

Giống như tìm sừng thỏ.


Bấy nhiêu đó cũng đủ cho ta thấy rõ tính cách thực tế của sự tu Thiền như thế nào rồi. Đạo và đời luôn gắn liền với nhau, nếu chúng ta muốn giải thoát thì phải tu ngay nơi trần gian này. Lông rùa và sừng thỏ là những vật xem như không có thực, người tu Thiền mà xa lánh thế gian để tìm cầu giải thoát cũng giống như kiếm lông rùa, sừng thỏ. Tu Thiền chính yếu là chuyển hoá tâm phiền não tham-sân-si thành vô lượng trí tuệ từ bi để được giác ngộ, giải thoát. Hoa sen mọc tươi tốt và nở thơm ngát từ bùn nhơ nước đục, nên tu Thiền là ứng dụng ngay nơi cuộc sống trong bốn oai nghi đi-đứng-nằm-ngồi. Điều này chắc chắn ai cũng có thể làm được tuỳ theo khả năng và sự quyết tâm tu tập của mỗi người.

TU THIỀN RẤT HỢP VỚI THUẬT DƯỠNG SINH VÀ RÈN LUYỆN THÂN THỂ

Người tu Thiền biết điều hòa thân thể, điều hòa hơi thở và nội tâm nên ít bệnh hoạn, đau yếu. Về thân thể người tu Thiền ăn uống có tiết độ, ngủ nghỉ có chừng mực, làm việc đúng thời khóa, cấm kỵ những việc trác táng, rượu chè, đam mê sắc dục quá đáng. Về hơi thở người tu Thiền biết điều hòa hơi thở dài và nhẹ. Hơi thở là chủ yếu của sức khỏe, là quyết định của mạng sống. Khi mệt thì thở hổn hển, khi khỏe thì thở nhẹ nhàng. Mạng sống chúng ta còn hay mất là do hơi thở quyết định, thở ra mà không thở vào thì thân này bại hoại, chuyển sang đời khác. Thế mà đa số người đời sống không biết hơi thở mình đang thế nào, dường như họ đã quên mất khi mình thở ra mà không thở vào là mạng sống chấm dứt. Về tâm tư con người cũng vậy, có những lo nghĩ bất thường hoặc tức giận, hoặc sợ sệt, hoặc lo lắng, phiền muộn, khổ đau, tất cả đều là nguyên nhân phát sinh bệnh hoạn. Người tu Thiền khéo buông xả những tâm tư vọng động khiến nội tâm trong sáng, tĩnh lặng nên thân tâm an ổn, nhẹ nhàng. Buông xả mọi tâm niệm xáo động nơi mình thì hành giả được an nhiên, bình tĩnh trước mọi sóng gió cuộc đời. Những khi thân bị gió lạnh xâm nhập chỉ cần ngồi Thiền trong một giờ thì tan hết, bởi lẽ ngồi Thiền thì hơi nóng trong người xông lên nên khí lạnh tan biến. Con người do thân bất an nên sanh bệnh, tâm lo lắng, sợ hãi, phiền muộn nên cũng sanh bệnh. Người tu Thiền khéo điều hòa thân an ổn, tâm yên định nên phù hợp với thuật dưỡng sinh.

Thiền theo lời Phật dạy có hai phương pháp hỗ tương cho nhau là Thiền Chỉ và Thiền Quán. “Chỉ” là trụ tâm vào một chỗ như niệm Phật, niệm Bồ tát, niệm hơi thở. “Quán” là dùng nhận thức để xem xét thân tâm, vạn vật nhằm biết rõ bản chất thật-hư của nó. Thiền Chỉ với mục đích dừng tâm vọng niệm lăng xăng nhờ chú tâm vào một chỗ nên được định. Thiền Quán giúp hành giả phát sinh trí tuệ nên buông bỏ được phiền não tham-sân-si, nhưng nếu quán hoài thì lăng xăng, không an định. Do đó, khi tu Thiền chúng ta phải biết dùng Chỉ và Quán để dung hoà thân tâm. Khi thì ta dùng Chỉ, khi thì ta dùng Quán để điều hoà tâm vọng động. Chỉ nhiều thì được định nhưng không có trí tuệ nên không thể buông xả tâm phải-quấy, đúng-sai, tốt-xấu, do đó cũng không thành tựu đạo pháp. Có trí tuệ nhiều thì tâm lăng xăng, không an định, do đó phải quay về Trung đạo để sống với tâm Phật của mình. Khi hai pháp Chỉ và Quán đã được dung thông thì mỗi hành giả phải xả chúng để không trụ vào bên nào mà thể nhập Phật tính sáng suốt, nương nơi mắt thì thấy biết rõ ràng không lầm lẫn, sự vật như thế nào thấy rõ như thế đó nên thấy chỉ là thấy, thấy tức biết, tai-mũi-lưỡi-thân-ý cũng lại như thế. Thiền theo lời dạy của đức Phật Thích Ca Mâu Ni có thứ lớp từ thấp đến cao, tuỳ theo căn cơ, trình độ của mỗi người mà ứng dụng tu theo nhiều cấp độ khác nhau.

THIỀN ĐẠO PHẬT KHÁC VỚI CÁC LOẠI THIỀN NGOẠI ĐẠO

Để khỏi lầm lẫn ý nghĩa chống đối hay khinh rẻ, chúng ta nên định nghĩa chữ "ngoại đạo" cho rõ ràng. Nhà Phật định nghĩa rất rõ, ngoài tâm cầu Phật là ngoại đạo. Như thế, dù cho người xuất gia theo Phật mà chỉ một bề hướng ngoại cầu mong cũng gọi là ngoại đạo. Bất cứ một pháp tu nào chỉ trông cậy bên ngoài, tìm kiếm bên ngoài đều gọi là ngoại đạo, vì chủ trương nhà Phật người tu phải "minh tâm kiến tánh" mới thành Phật. Tâm tánh đâu phải việc bên ngoài, nếu tìm bên ngoài là trái với tông chỉ nhà Phật nên gọi là ngoại đạo. Chúng tôi liệt kê những lối tu Thiền theo ngoại đạo đang hiện hành ở Việt Nam như Thiền xuất hồn, Thiền chuyển luân xa, Thiền chuyển tinh hóa khí, chuyển khí hóa thần, Thiền thai tức, Thiền điện thiêng liêng, Thiền Du-già… Những lối tu Thiền này không ngoài hai tiêu chuẩn mầu nhiệm và sống lâu. Mầu nhiệm thuộc huyền bí, hấp dẫn những người hiếu kỳ. Sống lâu thuộc thân thể khỏe mạnh, hấp dẫn người thích sống dai. Hai tiêu chuẩn ấy trái hẳn với đạo Phật. Đạo Phật chủ trương tu để mở mang trí Tuệ, thấy được chân lý, không cần sự mầu nhiệm. Có trí tuệ liền thấy tất cả giả tướng ở thế gian đều là vô thường, dù cố dụng công bảo vệ, duy trì cách mấy rốt cuộc cũng hoại diệt. Cái giả mà cố giữ không phải si mê là gì? Thiền đạo Phật thấy tất cả pháp duyên hợp hư giả, thể tánh là không, nhận ra Phật tính sáng suốt ngay nơi thân này nên khác hẳn với pháp Thiền ngoại đạo. Thiền đạo Phật nhằm mục đích giác ngộ, giải thoát và giúp nhiều người cùng được sống bình yên, an vui hạnh phúc nên đi theo con đường Bồ tát đạo, giúp đỡ tha nhân cho đến khi thành Phật viên mãn mới thôi.

THIỀN TRONG SINH HOẠT ĐỜI THƯỜNG

Chúng ta bắt đầu hành Thiền từ khi mở mắt thức dậy cho đến khi đi ngủ, Thiền như vậy mới đạt hiệu quả cao vì liên tục, không bị gián đoạn. Nếu tọa Thiền một mình trong phòng riêng hành giả có thể mặc trang phục rộng rãi, thoáng mát, nếu cùng tu với nhiều người thì nên mặc áo Tràng cho trang nghiêm. Dụng cụ tọa Thiền của mỗi người gồm một bồ đoàn để ngồi với kích thước phù hợp, nếu không có thể lấy mền lót đỡ để dễ dàng ngồi thẳng lưng. Hành giả có thể ngồi Thiền theo tư thế Kiết Già (kiểu hoa sen), Bán Già hay các tư thế khác tùy theo sức khỏe, tuổi tác của mỗi người. Mục đích chính là điều phục cho tâm được an định. Hành giả nên chọn thời điểm và nơi chốn tọa Thiền hằng ngày tùy hoàn cảnh, công việc và sức khỏe sao cho có kết quả tốt nhất, không nên tọa Thiền lúc mới ăn no, ít nhất là trên một tiếng đồng hồ hoặc lúc quá mệt hay buồn ngủ. Người tại gia bắt đầu tọa Thiền lần lượt theo hai bước là điều thân và điều hơi thở để chuẩn bị tốt cho việc điều tâm không chạy tán loạn, lăng xăng khi hành Thiền. Sau đây là chi tiết thực hiện từng bước từ lúc bắt đầu cho tới lúc xả Thiền:

1. Điều thân

Hành giả lần lượt thực hiện các bước sau:

_ Ngồi trên bồ đoàn, xương cùng đặt ngay giữa bồ đoàn, vận động nghiêng người qua hai bên vài lần rồi ngồi theo tư thế thích hợp.

_ Cởi nút áo cổ, nới dây thắt lưng, chỉnh áo quần chỉnh tề, ngay ngắn sao cho thoải mái, trang nghiêm.

_ Thân cúi xuống ngẩng lên 3 lần, lúc đầu mạnh, sau nhẹ dần.

_ Bàn tay phải để trên bàn tay trái hoặc ngược lại, hai bàn tay đan chéo, hai ngón cái chạm nhẹ vào nhau, đặt nằm ngay chiều rốn phía dưới hai ba phân. Hai cánh tay vừa chạm vào hông.

_ Chóp mũi, rốn và hai đầu ngón tay cái nằm trên một mặt phẳng thẳng đứng. Đầu hơi cuối xuống để hai trái tai dóng thẳng xuống vai.

_ Lưng thẳng vừa phải, ngồi một cách tự nhiên, thoải mái. Gương mặt tươi tỉnh, bình thản. Mắt khép hờ độ 2/3 hoặc có thể nhắm hay mở tùy người, tùy lúc; nên mở mắt trong thời gian đầu để điều chỉnh cho thân ngồi ngay ngắn, không bị niễng hai bên.

2. Điều hơi thở

Hành giả thở 3 hơi dài, hít vô bằng mũi, thở ra bằng miệng, trước mạnh, sau nhẹ dần.

3. Bắt đầu hành Thiền

Có 3 bước lần lượt từ thấp lên cao khi bắt đầu hành Thiền:

Mỗi hành giả tuỳ theo sở thích hoàn cảnh mà có thể niệm Phật bổn sư Thích Ca Mâu Ni, phật A Di Đà, hoặc Bồ tát Quán Thế Âm hay các Bồ tát khác hoặc niệm hơi thở. Tuy danh từ và tên có khác vì đây là phương tiện bước đầu, nhưng tất cả đều quy về một chỗ là tu thiền để thành Phật và cứu độ chúng sinh. Ở đây, chúng tôi hướng dẫn thiền Quán Thế Âm Bồ tát để mình được bình yên, hạnh phúc và giúp đỡ mọi người cùng vượt qua biển khổ sông mê ngay nơi cõi đời này cho đến khi nào thành tựu viên mãn mới thôi.

_ Miệng niệm Quán Thế Âm Bồ tát, tai chú tâm lắng nghe từng tiếng một rõ ràng, nhờ vậy không bị thất niệm, do đó dễ dàng định tâm. Hành giả Thiền Chỉ một thời gian, nhờ chú tâm nên lâu ngày dẫn đến nhất niệm, chỉ nghe âm thanh niệm Bồ tát một cách rõ ràng. Hành giả tu đến đây đã được định nên tâm an trú vào câu niệm Bồ tát.

_ Nếu có định mà không có tuệ thì không thể buông xả hết phiền não tham-sân-si và phát tâm giúp đỡ hay san sẻ với mọi người. Do đó, bước thứ hai hành giả phải tu Thiền Quán. “Quán” có nghĩa là xem xét, tìm tòi, soi sáng thân tâm và hoàn cảnh để tìm ra lẽ thật-hư của nó. Trước nhất hành giả quán sát về thân xem có “thật ngã” hay không; sau đó quán sát tâm suy tư, nghĩ tưởng của mình có thật hay không; kế đến là quán sát mọi hiện tượng, sự vật trên thế gian này xem có thật hay không. Khi quán sát như vậy hành giả thấy tất cả đều do nhân duyên hoà hợp mà thành, không có gì là thực thể cố định nên thân tâm, hoàn cảnh đều vô thường hoại diệt, nhờ vậy buông xả hết tâm niệm cố chấp xưa nay khi cho thân tâm này là “thật ngã”. Hai pháp Thiền Chỉ và Thiền Quán phải được hỗ tương lẫn nhau, có khi hành giả dùng Thiền Chỉ để dừng vọng niệm, có khi dùng Thiền Quán để phát sinh trí tuệ thấy biết đúng như thật. Có định mà không có tuệ gọi là “si định”, có tuệ mà không có định thì vọng niệm mãi lăng xăng.

_ Khi hành giả Thiền trong mọi hoàn cảnh và đã định tâm và phát sinh trí tuệ thì sang giai đoạn bảo trì tính giác, nương nơi mắt thì thấy biết rõ ràng không lầm lẫn, thấy chỉ là thấy nhưng không dính mắc vào sự thấy nên tâm thanh tịnh, sáng suốt; giống như chiếc gương lâu ngày bị bụi bám, bây giờ bụi không còn nữa nên chiếc gương tự sáng trở lại. Giai đoạn này hành giả từ từ chuyển hoá tập khí, thói quen nhiều đời còn xót lại cho đến khi nào vọng niệm hết sạch thì gương trong sáng hoàn toàn, không tỳ vết. Tai có tiếng thì nghe có tiếng, không tiếng nghe không tiếng. Tất cả âm thanh lớn nhỏ đều nghe nhưng không bám dính vào một âm thanh nào, nhờ vậy hành giả thành tựu được tánh nghe. Mũi-lưỡi-thân-ý cũng lại như thế. Đến giai đoạn này hành giả không cần trụ tâm vào Chỉ hay Quán nữa mà chỉ cần nhận diện rõ ràng từng vọng niệm của mình, nó như thế nào thì biết như thế đó thì vọng niệm từ tan hoà vào hư không.

4. Xả thiền

Hành giả Xả thiền theo thứ tự ngược với lúc vào Thiền. Đầu tiên là xả tâm, kế đến xả hơi thở, sau cùng là xả thân.

_ Xả tâm: Khi nghe tiếng khánh hay chuông báo xả Thiền, hành giả tâm duyên theo tiếng chuông, khánh biết rõ từ lúc có tiếng đến khi tiếng chấm dứt và đọc thầm bài kệ hồi hướng:

Nguyện đem công đức này,

Hướng về khắp tất cả,

Đệ tử và chúng sinh,

Đều trọn thành Phật đạo.

_ Xả hơi thở: Hành giả thở 3 lần từ nhẹ đến mạnh. Hít vào bằng mũi, tưởng “máu huyết theo hơi thở lưu thông khắp châu thân”. Thở ra bằng miệng, tưởng “bao nhiêu phiền não, cấu uế, bệnh hoạn đều theo hơi thở ra ngoài”.

_ Xả thân: Hành giả làm lần lượt các động tác sau.

+ Chuyển động luân phiên hai bả vai mỗi bên 5 lần.

+ Đầu cúi xuống ngước lên 5 lần, xoay qua trái qua phải 5 lần rồi cúi xuống ngước lên 1 lần nữa.

+ Co duỗi các ngón tay 5 lần và chuyển động thân từ nhẹ đến mạnh 5 lần, lần cuối úp hai bàn tay lên đầu gối rồi ấn mạnh xuống.

+ Chà xát hai bàn tay cho ấm lên rồi xoa mặt, tai, gáy, cổ mỗi nơi 20 lần.

+ Dùng đầu ngón tay cào nhẹ trên đầu từ trước ra sau 5 lần.

+ Bàn tay phải xoa từ vai trái xuống cánh tay, bàn tay trái xoa từ nách xuống hông phải, làm 5 lần rồi đổi tay.

+ Lòng bàn tay phải đặt trước ngực, lưng bàn tay trái đặt nơi lưng, hai tay đồng thời xoa theo chiều ngang ở 3 vị trí, mỗi nơi 5 lần: Thượng tiêu (trước ngực), Trung tiêu (giữa ngực và bụng), Hạ tiêu (bụng dưới).

+ Hai bàn tay chà xát mạnh vùng thận, thắt lưng, mông, dọc hai bên đùi đến đầu gối (vẫn còn xếp bằng theo tư thế lúc đầu), chà xát lâu mau tùy sự đau tê nhiều hay ít. Xoa kỹ những chỗ bị đau nhiều, nếu không lâu ngày sinh bệnh đau nhức.

+ Chà hai bàn tay vào nhau cho nóng lên rồi áp vào mắt 5 lần.

+ Tay nắm các đầu ngón chân, đặt bàn chân xuống tọa cụ. Xoa bóp kỹ hai chân và lòng bàn chân cho đến khi bớt đau tê mới duỗi thẳng hai chân ra.

+ Gập người xuống, hai cánh tay duỗi thẳng sao cho các ngón tay chạm vào đầu ngón chân, gập xuống thẳng lên 3 lần.

+ Cuối cùng, bỏ bồ đoàn ra, tiếp tục xoa bóp kỹ những chỗ còn đau tê.

Thời gian xả Thiền từ 10 đến 15 phút. Nếu nhiều người cùng ngồi với nhau thì sau khi xả Thiền người xong trước vẫn ngồi xếp bằng ngay ngắn để chờ mọi người hoàn tất việc xả Thiền rồi tiếp tục tụng kinh theo nghi thức thống nhất. Nếu một mình thì tuỳ theo hoàn cảnh mà sắp xếp hài hoà để thân tâm được an lạc. Người tại gia ngồi Thiền tối thiểu 15 phút cho đến 2 tiếng, tuỳ theo điều kiện và hoàn cảnh sống của mỗi người mà chúng ta áp dụng hành Thiền cho hài hoà.

TU THIỀN QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT

1. Thiền niệm Quán Thế Âm
Hiện nay một số hành giả tu theo pháp môn niệm Phật để cầu vãng sanh Tây phương Cực Lạc của đức Phật A Di Đà, lấy tín-hạnh-nguyện làm Tông chỉ. “Tín” là tin có cõi Phật A Di Đà ở Tây phương Cực Lạc. “Hạnh” là niệm Phật đến nhất tâm bất loạn. “Nguyện” là nguyện về Tây phương Cực Lạc. Đây là quan điểm của Tông chỉ Tịnh Độ trong bản kinh A Di Đà. Chúng tôi căn cứ theo lời Phật dạy trong Tam tạng Kinh điển thì thấy tất cả đều phải tu Thiền ngay nơi cõi này chứ không phải tìm cầu đâu xa. Thiền của đạo Phật mục đích đạt đến giác ngộ, giải thoát cho chính mình và phát nguyện độ tất cả chúng sinh. Chính đức Phật Thích Ca Mâu Ni do tu Thiền dưới cội Bồ đề mà thực chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Giác. Chúng ta là những người tu theo Phật thì cũng phải tu Thiền, nhưng tu Thiền như thế nào để được lợi ích thật sự? Thiền mà chúng tôi đang hướng dẫn đi thẳng vào đời sống gia đình và xã hội. Thiền ngồi tịnh tâm, Thiền lạy trong sám hối, Thiền đi trong sinh hoạt đời thường, Thiền tỉnh giác trong ăn uống, lúc tắm rửa, đi tiểu, đi đại, lúc lái xe, lúc làm việc, lúc mua bán, giảng dạy, nghiên cứu, gánh nước lặt rau, nấu nướng… và Thiền nằm trong lúc nghỉ ngơi hay trước khi đi ngủ. Vì người cư sĩ tại gia còn nhiều nhân duyên ràng buộc nên chúng tôi hướng dẫn phương tiện tu Thiền niệm Bồ tát Quán Thế Âm, cũng lấy tín-hạnh-nguyện làm Tông chỉ nhưng tín-hạnh-nguyện của người niệm Quán Thế Âm khác với niệm Phật cầu vãng sanh.

“Tín” ở đây có nghĩa tin vào thần lực nhiệm mầu của Bồ tát Quán Thế Âm có đủ khả năng giúp chúng sinh chuyển hóa nỗi khổ, niềm đau thành an vui, hạnh phúc, đạt được kết quả như ý muốn. Mỗi hành giả đều tin chính mình là Bồ tát Quán Thế Âm nhờ tu hạnh lắng nghe, buông xả và biết bố thí chia vui sớt khổ và bố thí không sợ hãi. “Hạnh” có nghĩa là thực hành niệm danh hiệu Bồ tát một cách tinh chuyên, ròng rặc, miên mật, thường xuyên mỗi ngày không lơ là, giải đãi. Chúng ta cung kính, chí thành niệm danh hiệu Bồ tát trong mọi hoàn cảnh, trong bốn oai nghi đi-đứng-nằm-ngồi mà không bị ngoại cảnh chi phối làm thất niệm. Cuộc sống thế gian vốn nhiều đau khổ, bất an, tham lam, thù hận, đố kỵ, tranh chấp, xung đột, sợ hãi và sẵn sàng triệt tiêu lẫn nhau vì quyền lợi riêng tư. Nếu chúng ta không thường xuyên cung kính niệm Bồ tát Quán Thế Âm mà chờ đến khi gặp hoạn nạn mới khẩn cầu van xin thì e rằng không có kết quả như đã nguyện. Lúc này tinh thần không sáng suốt, khủng hoảng, sợ hãi, mất bình tĩnh thì làm sao đủ khả năng cầu sự gia hộ của Bồ tát. “Nguyện” ở đây có nghĩa là chí nguyện độ sinh, cứu vớt chúng sinh tai qua nạn khỏi, vượt thoát khổ đau và luôn đem niềm vui đến với tất cả muôn loài. Bồ tát sau khi thành tựu đạo quả, phát nguyện dấn thân đi vào đời để làm lợi ích chúng sinh, cùng đồng hành, cùng làm việc, cùng đóng góp, cùng gánh vác, cùng sẻ chia, cùng chia vui và cùng sớt khổ với tất cả chúng sinh. Chúng ta phải thường xuyên quán chiếu thế gian lúc nào cũng đầy dẫy khổ đau, bất hạnh như đang sống trong nhà lửa, chịu sự nóng bức của phiền não trong từng phút giây.

Tu và học theo hạnh nguyện của Bồ tát Quán Thế Âm như nhịp cầu nối kết yêu thương, sẻ chia cuộc sống, luôn giúp mọi người sống gần gũi, gắn bó với nhau bằng sự thương yêu và hiểu biết, dấn thân và phục vụ, bao dung và độ lượng, cảm thông và tha thứ, sẻ chia và giúp đỡ, không thấy ai là người thù mà chỉ có người chưa thông cảm với nhau mà thôi. Phương pháp Thiền Quán Thế Âm là miệng niệm, tai lắng nghe khi ngồi, khi đi, khi lạy, khi nằm; tức là hành giả chú tâm vào câu “Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát”, nhờ chú tâm nên không bị các vọng niệm buồn thương, giận ghét, phải quấy, tốt xấu chi phối. Hành giả tu theo pháp niệm Quán Thế Âm Bồ tát trong khi ngồi thì miệng niệm “Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát”, tai lắng nghe rõ ràng từng tiếng một.

2. Thiền trong lúc ngồi

Hành giả mỗi buổi sáng thức dậy lễ Phật xong mới bắt đầu vào Thiền. Ai có bàn thờ Phật tại nhà thì ngồi Thiền ngay đó, ai chưa thờ Phật thì tự sắp xếp chỗ ngồi hợp lý vì Thiền dành chung cho mọi người. Ngồi Thiền có nhiều cách, cách thứ nhất là tư thế ngồi hoa sen Kiết Già, hai chân đang chéo vào nhau, hoặc ngồi tư thế Bán Già hay ngồi cách nào cho thoải mái cũng được. Điều quan trọng là mỗi hành giả điều phục tâm mình sao cho được an định. Trước khi tịnh tâm hành giả ngồi tư thế lưng thẳng, hai bàn tay xỏ hình bánh vế, hai ngón tay cái đâu nhau và để ở giữa bụng, dưới rún; mắt nhìn thẳng về phía trước, ngó xuống điểm trước mắt cách 8 tấc đến 1 thước, 2 mắt mở vừa chừng, không nên nhắm lại để tránh tình trạng bị ngủ gật hoặc ngồi lệch một bên; khi ngồi nên động thân vài lần để máu huyết lưu thông đều rồi sau đó hít vào 3 hơi bằng mũi và thở ra bằng miệng. Bắt đầu vào Thiền hành giả sẽ niệm “Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát” chậm rãi, từ từ, nhẹ nhàng vừa đủ nghe. Miệng niệm, tai lắng nghe, chúng ta nghe từng tiếng niệm Bồ tát rõ ràng. Khi mới bắt đầu tập tu Thiền, hành giả thường bị các vọng niệm thương ghét, vui buồn, phải quấy, tốt xấu, đúng sai chen vào làm thất niệm, mất tập trung. Đây là lẽ đương nhiên, nhưng khi hành giả cố gắng chú tâm vào từng tiếng niệm Bồ tát sẽ dần dần đánh bạt các vọng niệm khác, nhờ khéo nhiếp tâm thuần thục.

Chúng ta nên nhớ, Thiền niệm Quán Thế Âm Bồ tát rất đơn giản, dễ dàng, chỉ cần chúng ta có đủ lòng tin, kiên trì, bền chí, siêng năng, tinh tấn tu hành đều đặn ắt sẽ thành công trong nay mai. Tu Thiền Quán Thế Âm mục đích để cầu giác ngộ, giải thoát cho chính mình và phát nguyện cứu độ chúng sinh bằng trái tim yêu thương và hiểu biết. Phật dạy chúng ta sở dĩ tồn tại trên thế gian này là phải nương nhờ lẫn nhau về mọi phương diện, ai dù tài giỏi đến đâu cũng không thể sống một mình độc lập mà không nhờ vào sự đóng góp của người khác. Vì lẽ đó chúng ta tu theo hạnh nguyện Quán Thế Âm Bồ tát để cùng nhau chia vui, sớt khổ với tấm lòng vô ngã, vị tha bằng tình người trong cuộc sống. Ta khỏi cần cầu đi đâu mà ngay nơi cõi đời này cùng chia vui sớt khổ với mọi người, cùng san sẻ hay nâng đỡ cho nhau để cùng nhau dìu dắt những người còn chìm đắm trong biển khổ sông mê quay về bờ giác ngộ mà sống đời an vui hạnh phúc.

Đức Phật đã dạy nước mắt chúng sinh còn nhiều hơn nước bốn biển vì chúng sinh luân hồi, sống chết từ vô thuỷ kiếp đến nay. Bởi luân hồi vô số kiếp như thế nên chúng ta đã từng làm cha mẹ, anh em, vợ chồng, con cái, họ hàng, bà con quyến thuộc với nhau nên có nghĩa tình sâu nặng trong mối tương giao của cuộc sống. Do đó khi chúng ta tu được bình yên, hạnh phúc phải nguyện giúp đỡ tha nhân và cứu độ tất cả chúng sinh, trong đó có người thân người thương của ta hằng hà vô số. Thiền niệm Quán Thế Âm Bồ tát có ba cấp độ. Thứ nhất là miệng niệm, tai lắng nghe cho đến khi nào thành tựu được nhất niệm, chỉ nhớ nghĩ Bồ tát Quán Thế Âm mà không nhớ vọng niệm khác thì mỗi hành giả chuyển sang pháp thứ hai là miệng niệm, tâm lắng nghe. Đến đây ta không cần phải chú tâm vào câu niệm Bồ tát mà dùng tánh nghe sáng suốt của mình để thể nhập tánh biết nương nơi tai. Bước ba hành giả không còn miệng niệm nữa mà tâm niệm, tâm lắng nghe, hằng thấy nghe, hay biết với tâm thanh tịnh, sáng suốt của chính mình nên thành tựu viên mãn.

3. Thiền trong lúc lễ lạy sám hối

Pháp Thiền lạy này được lợi ích ba yếu tố. Thứ nhất là vừa lạy vừa tập thể dục, rút ngắn được thời gian buổi sáng. Khi lạy như vậy toàn thân năm vóc cung kính lễ, hai tay chắp trước ngực rồi niệm “Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát”; kế đến đưa hai tay lên trán và gập người xuống lạy, hai chân giữ nguyên, chỉ nhón gót lên, hai tay úp xuống, đầu sát đất và sau đó đứng lên theo vị trí cũ mà không cần di chuyển tay chân, giống như chiếc lò xo bật ra và rút lại, cứ như thế thoải mái, nhẹ nhàng miệng niệm Quán Thế Âm Bồ tát, tai chú tâm lắng nghe tiếng niệm của mình rõ ràng từng tiếng một. Mỗi hành giả lạy tối thiểu từ 30 lạy hoặc một vài trăm lạy tùy theo khả năng, sức khoẻ và hoàn cảnh mỗi người. Thiền lạy này có ba công dụng hữu ích, vừa tập thể dục vừa cung kính lạy, miệng niệm tai lắng nghe là thành tựu ba điều kiện. Một là đỡ phải mất thời gian đi tập thể dục vì khi lạy như thế toàn thân năm vóc đứng lên, lạy xuống làm máu huyết lưu thông khắp toàn thân, hành giả khi lạy cảm thấy an ổn, nhẹ nhàng, không mất sức. Hai là khi lễ lạy sẽ xả được tâm chấp trước, cống cao ngã mạn, hành giả nhờ vậy càng tu lại càng khiêm tốn, lễ phép, biết kính trên nhường dưới thương yêu bình đẳng với tất cả mọi người. Ba là khi lạy chỉ nhớ miệng niệm Bồ tát Quán Thế Âm, tai chú tâm lắng nghe nên không bị các tạp niệm khác làm loạn động, hành giả do đó thân khoẻ, tâm an định.

4. Thiền trong lúc đi tới đi lui

Đây là nhu cầu cần thiết hằng ngày, hành giả phải đi đứng qua lại thường xuyên nên khó bề làm chủ bản thân, do đó lúc nào cũng bị nhiều vọng niệm lăng xăng chi phối làm thất niệm. Với Thiền đi hai tay hành giả chắp trước ngực, đi tới đi lui tùy thích, miệng niệm “Quán Thế Âm Bồ tát”, tai chú tâm lắng nghe. Hành giả chỉ một bề miệng niệm, tai lắng nghe, không cần chú ý đến chân đi nhanh hay chậm. Thiền đi này có một công dụng rất hay là khi đi hành giả chắp hai tay trước ngực, lâu ngày trở thành thói quen tốt, khi gặp ai chúng ta sẽ chắp tay xá chào một cách lễ phép, nhờ vậy dễ gây cảm tình và lòng tôn kính với nhiều người.

Ba pháp Thiền ngồi, Thiền lạy, Thiền đi nhất như chỉ miệng niệm, tai chú tâm lắng nghe trong thời gian sáng sớm khoảng một tiếng đồng hồ. Hành giả kết hợp vừa tu, vừa rèn luyện thân thể, vừa tiết kiệm thời gian. Nhờ miệng niệm “Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát”, tai chú tâm lắng nghe nên thân khoẻ, tâm an ổn, nhẹ nhàng trong định tĩnh, sáng suốt.

5. Thiền trong lúc nằm, ngủ nghỉ

Thiền nằm cũng đơn giản, nhẹ nhàng như những pháp Thiền đã nói, cũng miệng niệm, tai chú tâm lắng nghe, không cần niệm lớn tiếng mà chỉ niệm thầm trong miệng nên dễ dàng đi vào giấc ngủ. Hành giả hành Thiền trong lúc nằm để thư giãn, nghỉ ngơi, cũng chỉ nhẹ nhàng niệm thầm, tai lắng nghe, nhờ vậy tâm an ổn, nhẹ nhàng mà không bị các tạp niệm thương ghét, phải quấy làm loạn động.

6. Thiền trong lúc ăn uống

Dù là người mua bán, người đi chợ, người đến công sở thì tất cả đều phải ăn để có sức khoẻ làm việc. Qua pháp Thiền ăn hành giả không cần niệm danh hiệu Bồ tát nữa mà chỉ chú tâm vào việc ăn, ăn ngon biết ngon, ăn dở biết dở, đắng chát, chua cay, ngọt mặn đều biết rõ ràng nhưng không khởi niệm thích thú hay chán ghét. Thường món nào hợp với khẩu vị thì ta thích thú, bám víu vào đó nên mất chánh niệm trong khi ăn. Món nào dở thì ta ngao ngán không muốn ăn, do đó không làm chủ tâm mình trong lúc ăn. Chúng ta nên nhớ “ăn để mà sống, chớ không phải sống để mà ăn”. Khi hiểu được như vậy ta sẽ ý thức, làm chủ trong việc ăn uống. Đa số phụ nữ trong thời hiện đại bị bệnh béo phì quá nhiều làm mất vẻ đẹp duyên dáng của phái đẹp. Khi mập quá thì uống thuốc giảm cân, tập đủ thứ phương pháp thể dục thẩm mỹ mà không chịu kiêng cử trong ăn uống, như vậy vừa làm hao tiền tốn của, mất nhiều thời gian mà không có hiệu quả. Người thông hiểu pháp Thiền ăn uống sẽ biết cách quân bình cơ thể, ví dụ chiều cao 1m60 thì trọng lượng cho phép là 55 kg. Ta căn cứ theo đó mà điều hoà, nếu mập quá là 57 kg, ốm quá là 53 kg, làm được vậy sẽ có một thân hình cân đối, thon thả, duyên dáng và nhẹ nhàng. Bệnh hoạn cũng từ ăn uống mà ra, ăn quá nhiều cũng sinh bệnh, ăn quá ít cũng không đủ sức khoẻ để làm việc và tu hành, người biết tu sẽ ý thức điều hoà trong mọi phương diện.

Ăn và uống là hai nhu cầu cần thiết của một con người, ăn uống để có sức khoẻ mà làm việc phục vụ gia đình và xã hội. Nhiều người không hiểu do chấp thân làm ngã là tôi, là ta, là mình, nên khi ăn phải cao lương mỹ vị, do đó giết hại vô số các loài vật để bồi bổ thân này. Mục đích của chúng ta ăn để mà sống chứ không phải sống để mà ăn, chính vì thiếu hiểu biết nên ta nỡ nhẫn tâm ăn trên sự đau khổ của các con vật. Mỗi hành giả tu Thiền phải nên tiết chế trong việc ăn uống của mình, không nên vì mình mà làm tổn thương các loài vật khác. Khi uống cũng vậy, mục đích uống để cơ thể đỡ khát, lúc làm việc đổ nhiều mồ hôi ta uống nước để cơ thể quân bình trở lại. Người nam có thói quen uống rượu bia, rượu Tây, rượu Tàu nên đưa vào cơ thể quá nhiều chất độc hại, vừa hao tiền tốn của, vừa say sưa, vừa làm thần kinh mê mờ. Có phước mới được hưởng lộc, nhưng ăn thịt cá, các loài hải sản tươi sống và uống rượu bia quá đà thì tâm từ bi thương người cứu vật sẽ không có được với những hạng người này.

Tất cả chúng ta vì bị vô minh che lấp nên khi có mặt trên thế gian này đều không có nhận thức sáng suốt, do đó thường lo cho phần ngọn nhiều hơn phần gốc. Vậy cái gì là phần ngọn, cái gì là phần gốc? Có những việc cần thiết mà chúng ta không lo, chỉ cố tâm lo phần không quan trọng mà lãng quên phần lợi ích lâu dài là tài sản quý giá của chính mình. Trong cuộc sống chúng ta có ba việc quan trọng như ăn, uống, thở, thường thì chúng ta lo việc nào nhiều nhất? Đa số mọi người trên thế gian này lo ăn với uống là chính. Tối ngày làm lụng vất vả chỉ để lo ăn nên tham đắm, dính mắc vào đó. Ăn thì phải món ngon vật lạ hoặc cao lương mỹ vị, nên làm vua thì bắt người khác phải cung phụng đầy đủ dù ở tận rừng sâu hay dưới biển cả mênh mông, trong khi xét kỹ ta nhịn ăn trên 60 ngày mới chết. Kế đó là uống, người có hiểu biết chỉ cần dùng nước tinh khiết hoặc nước đun sôi để nguội, nhưng vì không hiểu biết nên ta cứ đưa các thứ nước ngọt, rượu bia vào, nhất là cánh đàn ông, trong khi nhịn uống phải trên 10 ngày mới chết. Vấn đề thở là điều quan trọng nhất trong cuộc sống, nhưng ít ai nghĩ đến mình nhịn thở bao lâu mới chết. Trong tích tắc thở ra mà không thở vào là chết ngay. Vậy mà người đời lại quan trọng việc ăn với uống, còn thở ra sao không cần biết. Rõ ràng, việc tối quan trọng chúng ta lại lơ là, việc không chính đáng thì ta nỗ lực, làm việc nhọc nhằn, vất vả để thoả mãn bản thân. Như vậy hằng ngày ta chỉ lo việc bồi bổ thân này mà quên đi làm thế nào để được phước đức lâu dài, quên đi tài sản quý giá không bao giờ bị mai một.

Cuộc sống của chúng ta trong thời đại hiện nay có quá nhiều thứ bệnh thuộc bộ máy tiêu hóa và hô hấp phát sinh từ sự ăn uống, hít thở không đúng đắn. Một số người ít hoạt động tay chân nên phát sinh rất nhiều bệnh tật. Chính vì thế, muốn thân khỏe mạnh, tâm an ổn nhẹ nhàng, chúng ta cần phải biết điều hòa trong ăn uống, hít thở đúng cách và vận động thân thể nhiều bằng cách lạy Phật, Bồ tát, vừa sám hối nghiệp tập nhiều đời, vừa rèn luyện sức khoẻ để khí huyết lưu thông đều đặn toàn thân. Theo sự hiểu biết của chúng tôi, cơ thể mỗi người có nhu cầu tiêu thụ thức ăn uống khác nhau nên cần tổ chức cho đại chúng ăn theo cách tự chọn hoặc ăn kiêng. Người bình thường ít bệnh thì ăn theo tiêu chuẩn chung. Người có thân bệnh nhiều cần phải ăn kiêng theo sức khoẻ của mình, vừa hợp vệ sinh, vừa hợp khẩu vị mà lại không tốn kém.

Nói về thức ăn, Phật dạy chúng ta rất kỹ lưỡng. Theo Ngài, người xuất gia hay tại gia có bốn món ăn là Đoàn thực, Xúc thực, Tư niệm thực và Thức thực. Đoàn thực là thức ăn vật chất được ăn bằng miệng để nuôi cơ thể sống còn mà tu hành. Đối với thức ăn vật chất, Đức Phật dạy không nên ăn nhiều, chỉ ăn vừa đủ giúp cơ thể khỏe mạnh, không nên ăn những gì không thích hợp với cơ thể. Đó là cách ăn của chư vị Tổ sư đã thể nghiệm nên đưa ra pháp tu tương ứng nhằm duy trì mạng sống chúng Tăng được khỏe mạnh. Cách thức ăn uống của người Việt tương đối lành mạnh, nhưng chế độ ăn uống thường mang tính cách thói quen, ngon miệng, hợp khẩu vị mà có thể thiếu các chất bổ dưỡng cần thiết hoặc dư chất bổ dưỡng. Đại đa số chúng ta không ý thức được tầm quan trọng của nước đối với cơ thể con người nên thường uống quá ít nước, hoặc có uống thì dùng các chất khác như các loại nước ngọt hay rượu bia. Cách tốt nhất là uống nước mỗi ngày từ 2 lít đến 2,5 lít bằng nước đun sôi để nguội. Thân thể thiếu nước nên sinh ra nhiều bệnh tật như táo bón, nhức đầu, trĩ, sạn thận, thận suy, áp huyết cao, viêm gan siêu vi B và bụng hay sình chướng, khó tiêu… Từ đó chúng ta dễ trở nên giận dỗi, cáu gắt, hay nóng nảy, khó chịu, khiến cho không khí gia đình trở nên căng thẳng, mất tươi vui, hạnh phúc. Lượng nước trong cơ thể chiếm 70% dưới mọi hình thái của nó, do đó các tế bào và mọi bộ phận trong thân thể cần có lượng nước nhất định. Ngoài việc tắm rửa hằng ngày để da dẻ sạch sẽ, mịn màng, chúng ta ta cần uống lượng nước cần thiết để điều hoà thân thể khoẻ mạnh. Muốn tránh các thứ bệnh nói trên chúng ta cần phải uống nhiều nước, chừng hai ba ly ngay sau khi ngủ dậy mỗi sáng và trước khi đi ngủ buổi tối để giúp bộ máy tiêu hóa và tuần hoàn hoạt động tốt, dễ dàng lọc máu và thải mọi cặn bã ra ngoài.

Người cư sĩ tại gia nên ăn nhiều rau và trái cây, ăn ít thịt, nhiều cá, nhưng phải biết chọn lựa loại nào ít nhiễm độc. Một số lớn các bệnh tật phát xuất từ việc ăn uống không điều độ hay không biết chọn lựa thức ăn. Giảm bớt chất béo trong máu sẽ tránh được bệnh tim, huyết áp cao và ung thư gan. Để quân bình trong cuộc sống ăn uống hằng ngày, cơ thể chúng ta cần có đủ chất bổ đến từ thịt, cá và chất xơ trong các thứ rau, đậu và trái cây. Chất xơ giúp tiêu hóa dễ dàng và loại bỏ các thứ mỡ không cần thiết cho cơ thể. Nói chung, thức ăn kho và luộc tốt hơn là chiên, xào, nướng. Ngoài ra chúng ta nên để ý cách dùng các gia vị âm dương trong nghệ thuật nấu nướng và ăn uống của người Việt Nam. Theo đó, các loại thịt cá thuộc loại âm thường được nấu nướng hay ăn với các thứ gia vị và rau thuộc loại dương, và ngược lại. Rất nhiều bệnh tật phát xuất từ tình trạng máu huyết lưu thông không đều đặn, do ít hoạt động chân tay nên không chuyển tới các cơ phận mọi chất liệu cần thiết, nhất là hồng huyết cầu và dưỡng khí. Do đó, một trong những cách phòng bệnh hữu hiệu nhất là hay siêng năng hoạt động chân tay, uốn éo thân mình, tập thể dục, đi bộ, bơi lội, làm vườn, lau dọn nhà cửa và lạy Phật, Bồ tát mỗi ngày.

Một hôm, Phật hỏi các vị Tỳ kheo: “mạng người sống trong bao lâu”? Một thầy trả lời: “mạng người sống chừng 80 năm”. Phật hỏi vị khác, thầy đó trả lời:” mạng người sống trong bữa ăn”. Hai vị thầy trả lời Phật đều không chấp chận. Ngài hỏi tiếp vị thứ ba và vị này trả lời “mạng người sống trong hơi thở”. Phật nói, “đúng thế, đời người chỉ dài bằng một hơi thở”, bởi thở vào mà không thở ra thì xem như mất mạng. Ta có thể quên ăn một hai chục ngày vẫn được mà không chết, chính chúng tôi những năm nhiều bệnh phải nhịn ăn mỗi lần ba bốn tuần, hai ba lần như vậy mỗi ngày chỉ uống nửa lít nước đun sôi để nguội. Vấn đề nhịn uống cũng phải trên 10 ngày mới chết, bằng chứng là có một thầy nhịn ăn uống hai tuần chỉ mất sức đi không nỗi, sau ăn uống lại thầy vẫn lao động, làm việc nặng nhọc mà chẳng áp phê gì; nhưng thở ra mà không thở vô là chết ngay liền tức khắc. Chúng tôi có đứa em gái kế thầy Nhật Từ làm việc bên uỷ ban nhân dân Quận Thủ Đức, đang đứng nói chuyện trước mặt nhiều người thì bỗng nhiên nói nhức đầu rồi ngã lăn ra chết. Vì sao? Vì không còn thở nữa! Thở là một nghệ thuật sống nhưng ít ai quan tâm đến, suốt ngày này đến tháng kia, năm nọ chỉ lo ăn với uống mà quên đi hơi thở của mình. Ngày xưa đức Phật đa số dạy các tỳ kheo quán hơi thở, thở vô mình biết thở vô, thở ra mình biết thở ra, đến khi thuần thục không cần theo dõi hơi thở nữa mà chỉ nhìn hơi thở vô ra dài sâu, nhờ vậy tâm an định và trí tuệ phát sinh. Khi tâm an định, rỗng rang, bớt đi tạp niệm thì trí nhớ phát triển, tuệ giác tâm linh khai mở, nhờ vậy ta nhận biết cuộc sống vô thường, mạng sống vô thường và muôn loài vật cũng lại như thế. Mạng sống chúng ta ngắn như một hơi thở, nhờ thường xuyên quán sát như thế ta sẽ thấy biết đúng như thật nên dễ dàng buông xả phiền não tham-sân-si mà tự tại, giải thoát.

Là người Phật tử chân chính chúng ta phải biết chọn lựa những thức ăn và thức uống không làm ảnh hưởng xấu đến cơ thể. Người xuất gia nhưng lại thích ăn đồ giả mặn, loại thức ăn này rất có hại và lại mắc hơn những loại rau cải, nếu tiêu thụ thường xuyên e rằng dễ bị nhiễm mặn và nhiễm độc. Ăn chay trong thời buổi này phải cao thượng và có ý thức, như vậy sẽ ít bệnh. Trước khi ăn những món hiền lành và bổ dưỡng ta cũng nên nói, "chỉ xin ăn những thức ăn có tác dụng nuôi dưỡng và ngăn ngừa tật bệnh". Đó là ta biết áp dụng chánh niệm trong khi ăn và khi nấu ăn. Đời sống tu hành thức ăn uống là do đàn na tín thí đóng góp, ủng hộ. Thiền Viện Thường Chiếu có trên 300 thầy, Phật tử gần xa đóng góp, ủng hộ mỗi lần ăn có trên 400 suất, vì phải nấu bằng cái chảo lớn nên rất khó bảo đảm an toàn sức khoẻ, có khi rau cải quá nhiều ăn không kịp nên tiêu thụ rất dễ bệnh. Thời đại ngày nay nấu nướng số lượng quá lớn cũng khó đảm bảo an toàn thực phẩm, do đó mọi người phải tự ý thức trong ăn uống. Ăn kiêng, ăn những thứ cần thiết cho cơ thể là cách ăn tốt nhất.

Ngoài những thức ăn vật chất để nuôi thân tồn tại, thức ăn tinh thần mới thực sự quan trọng đối với mọi người trên thế gian này. Xúc thực, Tư niệm thực và Thức thực được coi là ba món ăn tinh thần của người xuất gia hay tại gia. Xúc thực là sự tiếp xúc hàng ngày với cuộc đời bằng mắt-tai-mũi-lưỡi-thân-ý. Nếu sống trong tu viện thì mỗi ngày đọc kinh, sám hối, ngồi Thiền, được gần gũi các bậc tu hành kiểu mẫu, trông thấy đức hạnh của họ sẽ giúp chúng ta sống tốt theo. Thật vậy, thức ăn nuôi dưỡng tinh thần chúng ta là Thiền ăn và Pháp hỷ thực. Mỗi ngày trước khi ăn đại chúng luôn nhắc nhở nhau “Thiền duyệt vi thực, Pháp hỷ sung mãn”. Vì vậy, bằng mọi cách phải làm cho Thiền và Pháp trở thành món ăn tinh thần thực sự của chúng ta. Người tu mà không thích ăn cơm Thiền, uống nước Pháp thì không thể sống đời tu hành viên mãn.

Ăn không có chánh niệm và ý thức cũng giống như hai vợ chồng và đứa con đi qua sa mạc mà hết lương thực đem theo, không còn cách nào khác họ phải ăn thịt đứa con để đủ sức đi ra khỏi sa mạc, nếu không làm vậy thì cả ba đều chết. Khi ăn như thế hai vợ chồng đó rất đau khổ nhưng không còn cách nào khác hơn. Khi ăn thiếu ý thức ta sẽ tạo nỗi khổ, niềm đau cho các loài vật khác và chính bản thân mình sẽ gánh lấy hậu quả khổ đau. Khi hút thuốc, uống rượu, ăn nhiều đồ nướng, chiên xào là đang huỷ hoại từng làn da, thớ thịt của mình. Ta đang ăn thịt của chính ta từ từ vì thuốc làm hại phổi, rượu làm hại gan, đồ béo làm cao huyết áp, đột quỵ và ung thư. Thành ra ta ăn như thế nào để đừng tạo ra nỗi khổ, niềm đau cho các loài vật và ăn trên sự khổ đau của kẻ khác, tức là ta ăn trong vội vã, vật vờ và si mê. Vì vậy, mỗi khi ăn thịt, ăn cá ta hãy ý thức có thể mình đang ăn thịt cha mẹ hay con cái vì luân hồi sống chết qua lại vô số kiếp. Do đó chúng ta phải tập ăn chay và tập không sát sinh hại vật để mở rộng tấm lòng từ bi, thương xót tất cả chúng sinh.

Loại thức ăn thứ hai là Xúc thực. Chúng ta có sáu căn là mắt-tai-mũi-lưỡi-thân-ý, khi chúng tiếp xúc với sắc-thanh-hương-vị-xúc-pháp ta phải thấy việc tiếp xúc đó có đem chất độc vào người hay không, chất độc này sẽ làm tâm ta bị ô nhiễm; như khi ta xem truyền hình, mắt ta tiếp xúc với hình sắc, tai nghe âm thanh đủ mọi sắc thái. Chúng ta phải thực tập chánh kiến trong khi xem truyền hình, phải biết lựa chọn kênh giải trí có đạo đức, nhân cách sống, hoặc y học đời sống. Chúng ta không nên đưa những phim ảnh có độc tố như giết hại, sợ hãi, căm thù và bạo động vào đầu; nên xem những bộ phim mang lại cho mình sự hiểu biết, lòng từ bi, sự san sẻ hay nâng đỡ, vượt lên chính mình, quyết tâm không làm những điều lầm lỗi. Nhiều người tối ngày chỉ xem phim bạo lực, chiến tranh, tình cảm uỷ mị mà không biết chọn lựa những đề tài lợi ích. Chúng ta phải biết có những chương trình chứa đựng rất nhiều độc tố có tác hại lớn như bạo động, căm thù và kích thích dục vọng. Những dịch dụ quảng cáo ngày nay cũng kích thích lòng tham lam và sự thèm khát dục vọng. Khi đọc một cuốn tiểu thuyết chúng ta có thể tiếp nhận rất nhiều độc tố làm cho mình càng thêm dính mắc và tham muốn. Đọc xong ta có thể mơ mộng ảo huyền một khung trời mới xa xôi, sẽ chán nản, lo lắng, thèm khát làm mệt cả thân tâm. Nếu mỗi ngày ta không tỉnh giác thì những câu chuyện đời thường cũng có thể mang lại cho mình nhiều độc tố. Mỗi ngày từ khi mở mắt thức dậy cho đến khi đi ngủ ta đều thấy-nghe và tiếp xúc với mọi việc, nếu khi tiếp xúc ta thấy thân khoẻ, tâm an ổn, nhẹ nhàng thì phải quyết gìn giữ chúng. Những thứ làm ta mệt, buồn phiền, lo lắng và giận dữ thì phải tránh để không tiếp xúc nhiều. Năm Giới là cội nguồn của an vui, hạnh phúc khi chúng ta đã lãnh thọ và hành trì, Giới là những bộ da vững chắc bao bọc lấy thân thể và tâm định tĩnh, sáng suốt của ta. Người không gìn giữ năm giới sẽ đánh mất lòng nhân ái vì đã đưa quá nhiều độc tố như giết hại, căm thù, bạo động, sợ hãi và làm tổn thương cho người và vật.

Loại thức ăn thứ ba là Tư niệm thực. Đó là những ước mơ, hoài bão ta đang khao khát, mong muốn được thực hiện trong tương lai. Ta muốn được làm thủ tướng hay bộ trưởng, hay chí ít cũng làm giám đốc, đậu bằng tiến sĩ để đem những hiểu biết ứng dụng vào đời, những mong muốn như thế thấm vào người ta giống như một loại thức ăn. Mong muốn chính là một loại thực phẩm làm cho con người không ngừng phấn đấu và rèn luyện. Ước muốn mạnh mẽ sẽ giúp ta có thêm năng lực để thực hiện những hoài bão, nhưng có những ước muốn sẽ làm ta bất hạnh, khổ đau suốt cuộc đời vì tham lam, dính mắc như quyền cao chức trọng, nhiều tiền bạc của cải, tài năng xuất chúng hay sắc đẹp hơn người. Muốn được mạnh khỏe và an vui, hạnh phúc để làm tròn trách nhiệm, bổn phận với gia đình, đóng góp cho xã hội; hay ước muốn trở thành bậc giác ngộ mà cứu độ tất cả chúng sinh là loại thức ăn Tư niệm thực chúng ta cần phải có. Thiền viện thiếu món ăn tinh thần thì chúng đói, còn tìm thức ăn không tốt sẽ bị nhiễm độc, bị nhiễm độc thực phẩm thì chết thân mạng, bị nhiễm độc tinh thần thì chết Giới thân Huệ mạng, dù còn trong đạo nhưng không dùng được việc có ích cho mọi người. Trên thực tế, các Thiền viện sinh hoạt tốt đẹp nhờ các vị lãnh đạo đều sống phạm hạnh thanh tịnh, do đó đại chúng nương theo mới thăng hoa đạo đức tâm linh. Nếu hàng ngày ta thường tiếp xúc với người phải trái, đúng sai, được mất, hơn thua, buồn thương, giận ghét, tiếp xúc với trần cảnh do thấy-nghe trong phân biệt, dính mắc thì ý thức bắt đầu suy nghĩ theo đường danh lợi, bị sự cúng kính làm mờ mắt, dẫn đến hư hỏng một đời tu.

Khi tu hành ta phải nên nhận rõ tầm quan trọng của Xúc thực, không cho sáu căn tiếp xúc với sáu trần để không bị chúng làm ô nhiễm và không lưu giữ điều xấu vào kho tâm thức. Chúng ta tu là biết chọn con đường tốt đẹp, không đi con đường xấu xa. Con đường hiền thánh không mở ra thì con đường tội lỗi sẽ làm ta mờ mắt mà quên cả lối đi của bậc hiền thánh Tăng và chư Phật. Dòng nước chảy xuôi thường gây ra lũ lụt, ngập úng nên người ta phải ngăn nó bằng cách mở đập cho nước chảy vào để chuyển thành dòng điện mang lại lợi ích cho nhân loại. Dòng đời cũng thế, vì đa số không biết giữ năm Giới của nhà Phật nên ba đường dưới địa ngục, quỷ đói, súc sinh rộng mở và đang chờ đón những người thiếu hiểu biết không tin sâu nhân quả. Suy nghĩ của con người lúc nào cũng như dòng nước chảy khó thể ngăn được nên ta chỉ tiếp xúc với những gì tốt đẹp, lợi ích và cao quý, nhưng phải thích hợp với trình độ và nghiệp lực của mình. Thiền là sự sống của con người, ta biết Thiền trong mọi hoàn cảnh thì an ổn, nhẹ nhàng, trí tuệ phát sinh. Chính vì vậy, khi đọc Kinh, sám hối hay tham Thiền, chúng ta cảm nhận niềm vui nên dần hồi buông xả được phiền não, tham-sân-si từ từ nhẹ bớt, không còn nặng như ngày xưa. Xúc thực là sự tiếp xúc hàng ngày giữa ta và cuộc đời, nếu chúng ta huân tập đầy đủ Phật pháp thì tất cả nhiễm ô thế gian sẽ được tiêu hóa dần hồi theo thời gian, từ kiến thức chuyển thành trí tuệ nhờ biết cách buông xả.

Loại thức ăn thứ tư gọi là Thức thực. Thân thể chúng ta được hình thành ngày hôm nay đẹp hay xấu là do tác động của ý thức, trong đó gồm có Chánh báo và Y báo. Chánh báo là thân thể này gồm có thân và tâm. Y báo thuộc hoàn cảnh chung quanh ta đang sống. Vì thói quen được huân tập lâu ngày từ nhiều kiếp xưa nên bây giờ ta có Chánh báo và Y báo. Chánh báo và Y báo đều là sự biểu hiện của tâm thức được hình thành qua nền tảng nhân quả. Loại thức ăn thứ tư này rất quan trọng vì nó là phần tinh thần. Tâm tư sáng suốt, hành động lương thiện sẽ giúp chúng ta tiếp nhận các món ăn trong sáng, từ bi và trí tuệ. Nếu trong quá khứ tâm thức đã tiếp nhận thức ăn độc hại quá nhiều thì ngày nay tâm thức ta biểu hiện ra Chánh báo, Y báo không lành mạnh mà còn tối tăm, mờ mịt. Những gì ta suy tư trong thấy-nghe-ngửi-nếm và tưởng tượng là những thứ được cất gữ trong kho chứa tâm thức. Nếu kho tâm thức này chứa vô minh, tham lam, ích kỷ, oán giận, thù hằn và phiền muộn, khổ đau thì khi đủ duyên chúng sẽ phát sinh. Chính vì vậy, chúng ta phải biết phân loại những thức ăn đưa vào kho tâm thức, phải nên đưa từ-bi-hỷ-xả, lòng bao dung độ lượng, giúp đỡ và sẻ chia, yêu thương và hiểu biết bằng tình người trong cuộc sống để nuôi dưỡng tâm thức mỗi ngày. Đức Phật đã dùng phương tiện hình ảnh một người tử tù đang bị vua hành hình để nói về Thức thực. Buổi sáng vua ra lệnh lấy 300 cây kim đâm vào thân thể người tử tội, đến chiều tối vua hỏi, “kẻ tử tù đó bây giờ ra sao?” Viên cai ngục trả lời, “tâu bệ hạ, nó vẫn còn sống nhưng rên la thê thảm lắm!” Phật dùng ví dụ này để nhắc nhở chúng ta đừng nên hành hạ tâm thức của mình y như thế, đừng đâm 300 mũi kim của độc tố tham lam, giận dữ, si mê, ganh ghét, tật đố, hận thù, bạo động và sợ hãi vào kho tâm thức của chúng ta mỗi ngày.

Bốn thí dụ trên được ghi lại trong Kinh Tử Nhục. Tử Nhục là thịt của đứa con. Hai vợ chồng và đứa con cùng đi qua sa mạc nhưng nửa đường hết thức ăn, nếu không có cả ba đều chịu chết, cuối cùng hai người đành phải giết con để ăn mà vượt khỏi sa mạc. Bốn ví dụ nghe rất khiếp đảm và ghê sợ, mục đích chính nhằm răn bảo chúng ta phải sáng suốt gìn giữ thân-miệng-ý để đừng làm tổn hại cho mình và người. Ăn uống là nhu cầu chính yếu hằng ngày, khi ăn ta phải tỉnh giác biết rõ thức ăn nào không làm tổn hại thân tâm, trong khi ăn phải biết mình đang ăn, thức ăn ngon hay dở đều biết rõ; mặn, lạt, chua, cay ta đều biết nhưng không để tâm bị lôi kéo về quá khứ hay mơ mộng đến tương lai, hoặc quá lo lắng mà đánh mất mình trong hiện tại. Trước khi ăn mọi người nên quán tưởng như sau: Cơm ngày ba bữa thường nhớ công khó nhọc của kẻ nông phu. Thân mặc ba y hằng xét nghĩ sự nhọc nhằn của người may dệt. Thuốc thang giường chõng bởi do sự nhín ăn bớt mặc của tín thí khắp nơi. Học đạo tiến tu nhờ lòng từ dạy răn của thầy Tổ. Nguyện cho thí chủ và tất cả chúng sinh phước huệ song tu, nhân tròn quả giác, kẻ mất người còn đều trọn thành Phật đạo. Trước khi ăn ta quán tưởng như thế để tâm hằng nhớ ghi huân vào kho tâm thức, do đó khi đưa thức ăn vào miệng ta nhìn thấy rõ thức ăn ấy với con mắt tỉnh giác, ta ăn để mà sống, ăn vì thành tựu đạo nghiệp chứ không phải sống để mà ăn. Khi ăn ta nhìn miếng đậu hũ như một dược liệu thuốc thang để chữa bệnh đói khát, nhờ vậy ta thấy rau cải, nước tương là đại sứ của đất trời đến với ta để nuôi dưỡng thân này. Lòng ta tràn đầy niềm biết ơn và hoan hỷ, vui vẻ với những người đã gieo mầm sống để chúng ta dưỡng thân mà tu tập. Khi nhai ta nhai trong ý thức, ta biết rằng mình đang tiếp xúc với những chất liệu trong sáng, lành mạnh. Thường khi ăn nếu không tỉnh giác ta sẽ nhai những buồn thương, giận ghét, phải quấy, tốt xấu, hơn thua và lo lắng. Vô tình ta đang nhai quá khứ và tương lai mà đánh mất mình trong hiện tại. Ta nhai đều đặn thức ăn rau cải được trộn chung với cơm sẽ trở thành chất loãng, nhờ vậy rất dễ tiêu và bổ dưỡng, không bị bón kiết. Như thế ta không cần phải ăn quá nhiều mà dinh dưỡng vẫn đầy đủ để nuôi dưỡng thân khỏe, tâm an.

Dưỡng khí là cái tối cần thiết cho cơ thể con người, nếu thở ra mà không thở vào coi như mạng sống chấm dứt. Không ăn uống con người có thể sống được vài tuần, nếu thiếu dưỡng khí chỉ trong 5 phút con người sẽ chết ngay. Dưỡng khí rất cần thiết cho nhu cầu cuộc sống con người nhưng chúng ta thường ít lưu ý đến, và cũng không biết cách hít thở để có lượng dưỡng khí đầy đủ giúp cơ thể khoẻ khoắn, lành mạnh. Chính vì thế, trong đạo Phật nguyên thuỷ Phật dạy Pháp quán hơi thở là một trong những Pháp đầu tiên để chúng ta tu. Đó là ý thức trở lại sự cần thiết của dưỡng khí đối với sức khỏe trong thân thể con người. Tập hít thở đúng đắn là hít thở dài và sâu, hít vô thở ra đều bằng mũi. Đây là lý do giải thích nguyên nhân của nhiều thứ bệnh bởi lượng dưỡng khí cần thiết cho não bộ, phổi và các cơ phận khác quá ít. Tình trạng thiếu dưỡng khí lâu ngày khiến cho các cơ phận suy yếu, hoạt động không bình thường và dễ lâm bệnh. Thiếu dưỡng khí là một trong những nguyên nhân gây ra nhiều tật bệnh, trong đó có bệnh nhức đầu và mệt mỏi. Bản thân chúng tôi là một bằng chứng thiết thực, khi mới vào Thiền Viện chúng tôi chỉ chú trọng tu tâm chớ không quan trọng tu thân, do đó bị rất nhiều bệnh. Trong vài năm gần đây tôi mới nhận ra sai lầm đó và áp dụng quán hơi thở trong đi-đứng-nằm-ngồi nên sức khoẻ ngày càng được tốt hơn.

7. Thiền trong lúc lái xe làm việc hoạt động hằng ngày

Khi lái xe ta dùng tâm biết của mình để điều hành. Mắt nhìn về phía trước để quan sát sự vật, liếc bên phải, bên trái để thấy các phương tiện khác. Tay lái xe, chân đạp thắng, vô ga, giảm ga. Tai lắng nghe tiếng kèn xin đường của xe khác để biết mà nhường đường. Trước khi lái xe chúng ta phải tâm niệm mình đang chở biết bao sinh mạng trên xe, do đó phải bảo đảm nguyên tắc trước khi lái xe không được uống rượu bia, một người tài xế không được chạy quá 8 tiếng đồng hồ liên tục mà phải đổi ca mới đảm bảo an toàn cho hành khách. Thường thì tai nạn xảy ra do tài xế quá mệt mỏi nên ngủ gật, uống rượu bia hoặc nhớ nghĩ lung tung nên không chú tâm trong khi lái.

Thiền trong lúc làm việc cũng thế, ta làm việc nào chỉ biết việc đó, chỉ chú tâm vào việc đang làm. Từ anh giám đốc cho đến công nhân viên, tất cả đều phải chú tâm vào công việc của mình. Giám đốc sau khi phân công, điều hành xong thì làm nhiệm vụ giám sát, theo dõi, nhờ vậy kịp thời giải quyết những khó khăn, bất trắc. Anh kế toán chú tâm vào việc đánh máy nên tính toán chính xác, không sai con số. Chị lao công chú tâm vào công việc sẽ nhìn thấy rõ chỗ nào dơ sạch mà lau chùi, quét dọn kỹ càng. Anh bảo vệ chú tâm quán sát người ra vào cơ quan nên biết rõ từng người một quan hệ, giao dịch gì để kiểm soát và bảo vệ tài sản chung. Tất cả mọi phòng ban ngành đoàn thể cứ như thế mỗi người đều có trách nhiệm riêng, chúng ta chỉ chú tâm vào công việc được giao để hoàn thành tốt nhiệm vụ, nhờ vậy năng suất lao động được nâng cao và công việc được hoàn thành trước thời hạn.

Phương pháp Thiền trong công việc cũng là một loại Thiền chỉ giúp mọi người ý thức được trách nhiệm của mình, nhờ chú tâm quan sát rõ ràng mà làm việc ít thấy mệt mỏi và không bị thời gian chi phối. Trong khi làm việc ta không biết tập trung sẽ lãng phí thời gian, làm thiệt hại cho cơ quan vì đi trễ về sớm mà khi làm việc lại trông mau hết giờ để về nhà. Chúng ta làm việc như vậy sẽ tập cho mình thói quen làm biếng, xén bớt giờ công mà suy nghĩ vớ vẩn, lung tung nên hiệu suất làm việc kém chất lượng. Thiền khi làm việc sẽ giúp ta dễ dàng kiểm soát tâm rong rủi chạy tìm giống như con vượn chuyền cành, nhờ chú tâm ta làm tốt công việc được giao, hằng ngày điều phục được tâm ý bất chánh như trộm cắp, lường gạt của người.

8. Thiền trong lúc mua bán, làm ruộng trồng hoa màu, nghiên cứu, phát minh, giảng dạy

Người mua bán ngoài chợ cũng phải Thiền, phải ăn nói nhỏ nhẹ, ôn tồn. Khi khách đến không nên nói thách quá, tốt nhất nên nói đúng giá, nếu khách không mua hay trả giá quá thấp cũng nên vui vẻ, cởi mở, đừng nên tỏ thái độ cằn nhằn, bực tức. Nhiều người thậm chí còn mê tín, sáng sớm khách mở hàng mà không mua thì đốt phông lông, la ó, chửi rủa um sùm, bán buôn như vậy dần hồi sẽ mất khách hàng. Cuộc sống này vốn thuận mua vừa bán chớ không có gì bắt buộc, người có Thiền vị sẽ biết cách thu hút khách hàng, giữ mối quan hệ mua bán lâu dài bằng tấm lòng chân thật của chúng ta.

Người làm ruộng, trồng hoa màu để cung cấp thức ăn, thực phẩm cho con người cũng phải biết tu Thiền. Do phải trải qua nhiều công đoạn từ khâu gieo giống, chăm sóc, cày cuốc, tưới tẩm và bón phân theo đúng quy trình, nếu chậm thời gian sẽ không có kết quả tốt nên phải chú tâm vào công việc; do đó cũng là một loại Thiền Chỉ giúp tâm dễ dàng an định, nhờ vậy ta tính toán làm việc theo đúng quy trình, thời gian cho phép. Khi có trải nghiệm trong Thiền vị ta sẽ ý thức không dùng nhiều hóa chất mà dùng theo liều lượng cho phép, nhờ vậy hoa màu đến tay người tiêu dùng không bị ô nhiễm các chất độc hại. Nhiều người vì lòng tham, ham lợi nhuận nên bị đồng tiền làm mờ mắt, chiều nay xịt thuốc liều lượng cao, sáng mai đem đi bán nên người ăn dễ bị ngộ độc. Báo chí vẫn thường đăng tin ngộ độc thức ăn hàng loạt, có khi lên đến vài trăm người, nếu không cũng bệnh ung thư, nóng gan, viêm gan siêu vi B, C… Người thời nay bệnh hoạn nhiều cũng do con người không biết tin sâu nhân quả, chỉ biết lợi trước mắt mà làm tổn thương rất nhiều người.

Các nhà khoa học, bác học cũng phải biết cách Thiền. Họ giam mình trong phòng kín lâu ngày để nghiên cứu, phát minh một vấn đề nào đó phục vụ cho xã hội loài người, nếu tâm vọng động, lăng xăng, nhớ nghĩ hết chuyện này đến chuyện kia thì làm sao phát minh được. Nhờ biết tu Thiền nên tâm họ định tĩnh, sáng suốt, làm việc gì cũng có kết quả tốt đẹp.

Thiền trong nghiên cứu, giảng dạy là chú tâm soạn bài giảng, tập trung vào nội dung cần triển khai về đề tài mình muốn nói. Khi soạn xong ta nên đọc lại từ 3 đến 5 lần để nắm khái quát đề tài giảng dạy. Trước khi lên Pháp tòa trong vòng một tiếng đồng hồ ta không cần nhớ nghĩ gì nữa mà chỉ cần nhiếp tâm theo dõi hơi thở, thở vô ta biết mình thở vô, thở ra ta biết mình thở ra, chỉ cần nhìn lại hơi thở mà không cần đối trị, nhờ vậy tâm được định tĩnh, sáng suốt, khi lên giảng những gì cần nhớ sẽ nhớ liền nên giúp người nghe nắm bắt nghĩa lý rõ ràng. Về phía người nghe cũng vậy, chỉ cần chú tâm khi nghe mà không khởi niệm phân biệt hay-dở, ta nghe chỉ để học hỏi, để biết cách tu tập hay ứng dụng vào trong cuộc sống hằng ngày.

9. Thiền trong lúc tắm, mặc quần áo, đi tiểu, đi đại

Nhiều người nghe nói Thiền trong lúc tắm rửa, mặc quần áo, đi tiểu, đi đại tưởng là bất kính. Song, chúng ta phải Thiền ngay trong mọi điều kiện sinh hoạt hằng ngày. Quý vị nghe chúng tôi hướng dẫn sẽ thấy giá trị và lợi ích thiết thực của nó. Khi vào trong nhà tắm và lột bỏ hết lớp quần áo bên ngoài ra ta mới thấy rõ con người chân thật của mình. Cũng vậy, khi chúng ta buông bỏ hết phiền não tham-sân-si thì Phật tính sáng suốt mới hiện ra. Người phụ nữ khi tắm mất thời gian rất lâu vì phải săm soi, ngắm nghía mình xem còn duyên dáng hay không, nhất là những người đã có chồng, có con. Phụ nữ thì sợ xấu, sợ già, sợ hôi, sợ cô đơn và vô vàn nỗi sợ khác nên khi tắm phải dùng nhiều xà bông, nước thơm, tắm như vậy là đã đánh mất chính mình vì tham đắm, dính mắc vào thân này quá nhiều. Ai mập quá thì rất khốn khổ vì nghĩ mình không còn sức hấp dẫn với chồng hay người yêu, đó là nỗi khổ, niềm đau hay dày vò phái đẹp. Ốm quá thì thân hình lòi xương, trông giống con khô hố, ai chạm đến tưởng như gốc cây. Người nữ mập quá hay ốm quá đều khổ cả. Tắm nhằm mục đích rửa sạch chất dơ bẩn sau một buổi hay một ngày làm việc để tẩy đi các chất ô uế bám dính trong người. Khi tắm nước lạnh ta cảm nhận nước mát khắp toàn thân, tắm nước nóng ta cảm nhận sự ấm áp của nó, tắm như vậy là không bị dính mắc vào thân. Con người chúng ta thường hay chấp thân này là thật; tâm suy nghĩ, hiểu biết cũng là thật; từ đó chấp thân tâm làm ngã rồi dính vào đó nên bị phiền não tham-sân-si chi phối, sai sử.

Người biết Thiền trong cuộc sống khi tắm chỉ biết mình đang tắm mà không ngắm nghía, săm soi thân hình, nhờ vậy trong lúc tắm cảm nhận được an ổn, nhẹ nhàng. Tắm như vậy là tắm Thiền khoẻ re. Mặc quần áo mục đích chính là để che thân không bị lõa lồ nhưng ta lại nghĩ mặc quần áo để khoe đẹp với người khác, do đó phải tốn tiền sắm sửa quá nhiều. Phụ nữ Việt Nam thời đại ngày nay đang dần đánh mất chiếc áo bà ba hay áo dài, thay vào đó là áo hở cổ, khoét ngực để khoe sự hấp dẫn, vô tình làm đấng mày râu mê muội, dính mắc vào đó. Phụ nữ nặng về luyến ái, tức tình cảm nặng nề, do đó làm đẹp là bản chất của phái đẹp; nhưng ta phải biết hài hoà cho có chừng mực vừa phải thì đỡ tốn thời gian, ít hao tiền bạc, nhờ vậy giảm bớt lòng tham muốn. Ăn mặc giản dị, gọn gàng là nét đẹp văn hoá của người phụ nữ Việt Nam. Cái đẹp của người phụ nữ là đẹp ở tấm lòng, đẹp ở nhân cách đạo đức. Người nam thì đơn giản hơn trong ăn mặc nhưng lại hay dính mắc vào thuốc lá, rượu bia, gái gú, hưởng thụ thức ăn các loài vật quá nhiều. Người uống rượu bia ăn các loài hải sản tươi sống nhiều nên chắc chắn sẽ thiếu lòng từ bi trong đối nhân xử thế, do đó sẽ gánh lấy hậu quả về sau như bệnh hoạn, mất trí nhớ, thần kinh rối loạn và bị nhân quả vay trả thù hằn không có ngày thôi dứt.

Thiền trong việc đi tiểu, đi đại cũng rất quan trọng trong đời sống vì nó gắn liền với chúng ta hằng ngày. Khi đi tiểu ta biết ta đang đi tiểu, nếu trong ngày ta đưa các thức uống vào quá nhiều cũng khổ, nhất là những tay bợm bia đã đưa vô thì phải xả ra, đó là lẽ đương nhiên. Khi tiểu ta không chú tâm vào chỗ tiểu mà nhớ nghĩ lung tung, tiểu trong vội vàng, không có ý thức. Khi tiểu ta chỉ cần nhìn nước tiểu vàng hay trắng sẽ biết được sức khỏe mình ra sao. Nếu nước tiểu vàng quá thì trong người nóng, ta phải biết điều hoà bằng cách ăn uống hay thuốc bổ thận âm. Ngược lại, nếu thấy nước tiểu trắng thì biết người quá yếu, thận bị suy nên hay mắc tiểu đêm ta phải dùng thuốc bổ thận dương để điều trị. Thông qua đó ta sẽ biết cách điều hòa để cảm nhận được niềm vui trong cuộc sống. Đi đại cũng vậy, nếu bị bón rặn không ra ta biết mình đang bị nóng gan hay bị trĩ, ta sẽ dùng thuốc trị hoặc ăn đồ mát thì sẽ từ từ hồi phục trở lại. Đi phân đen hay xanh, chảy hay chìm xuống ta biết đường ruột yếu thì phải thức ăn nóng cho có tính cách Dương tính, đây cũng là một pháp Thiền trong lúc đi đại. Mình bệnh mà không biết mình bệnh thì nguy cơ cao; ăn vô mà không thải ra chỉ trong vài ngày thì bụng sình chướng khó tiêu, người bức rức, nóng nảy, chộn rộn thật khổ tâm; nếu bị đi chảy nhiều quá thì coi chừng tiêu đời nhà ma. Vậy trong lúc đi tiểu, đi đại mình có tu không? Có chứ, nếu không ngồi trong nhà cầu khốn khổ đủ điều, mùi cặn bả xả ra hôi hám vô cùng mà tâm cứ nghĩ tưởng lung tung. Do đó ta phải biết rõ ràng từng trạng thái của nó mà không bám dính vào chỗ nào, coi như ta đang Thiền trong đi tiểu hay đi đại.

Cuộc sống nhân loại ngày nay trên đà phát triển ngày càng cao giúp con người hưởng thụ tiện nghi vật chất, nhưng ngược lại làm ô nhiễm môi trường, thức ăn uống bị nhiễm độc nặng nề. Các bệnh viện quá tải vì người bệnh quá nhiều, nguyên nhân chính là không biết điều hoà trong ăn uống. Người tại gia với bộn bề công việc nên không biết làm cách nào để điều hoà thân tâm cho tốt, do đó dễ phiền muộn, khổ đau, bệnh hoạn và bất an, lo lắng, sợ hãi. Hai bộ phận chủ yếu trong cơ thể chúng ta là thận và gan. Thận điều tiết, thải độc bằng nước và mồ hôi. Nếu để thận yếu, thận suy dễ phát sinh bệnh tim mạch và huyết áp cao, tai biến mạch máu não và đột quỵ. Ăn quá nhiều dầu mỡ, đồ nóng từ chiên-xào-nướng, dùng thức uống kích thích như rượu bia nhiều dẫn đến bệnh nóng gan, xơ gan, viêm gan siêu vi B, ung thư; nếu không chết liền cũng làm hao tiền tốn của, làm khổ người thân và khi chết mang theo lòng tham lam, ích kỷ nên càng bị đoạ lạc vào chỗ xấu. Điều hoà trong ăn uống, đi tiểu, đi đại là ta đã biết Thiền trong đời sống hằng ngày, vì những thứ này gắn liền với chúng ta. Biết ăn, biết uống, biết đi tiểu, đi đại, đã đưa vô thì phải xả ra, ta chỉ cần kiểm soát chúng chặt chẽ hằng ngày là vừa làm chủ thân tâm, vừa điều phục bệnh hoạn.

Bốn phương pháp Thiền ngồi, Thiền lạy, Thiền đi, Thiền nằm, hành giả miệng niệm Quán Thế Âm Bồ tát, tai chú tâm lắng nghe, nhờ vậy không bị thất niệm nên phát sinh định lực và trí tuệ. Tới khi đi ngủ thì phải Thiền nằm, miệng tiếp tục niệm Quán Thế Âm Bồ tát, chỉ cần nhiếp tâm vào câu niệm thì từ từ đi vào giấc ngủ mà không bị mộng mị xấu ác. Vậy trong bốn oai nghi đi-đứng-ngồi-nằm ta đều Thiền niệm Quán Thế Âm Bồ tát từ lúc mở mắt thức dậy cho đến khi đi ngủ, khi ăn uống, lái xe, làm việc, mua bán, trồng trọt, nghiên cứu, giảng dạy, tắm rửa hay đi tiểu, đi đại. Ta đều Thiền bằng cách chú tâm vào việc mình đang làm, nhờ vậy ta biết rõ ràng bản chất thực hư của nó mà biết cách buông xả để sống đời an vui, hạnh phúc bằng trái tim yêu thương và hiểu biết. Ai biết Thiền như vậy mỗi ngày từ lúc thức dậy cho đến khi đi ngủ, mỗi hành động tạo tác của thân tâm đều biết rõ đúng sai, cái gì đúng thì giữ lại, cái gì sai thì gạt bỏ nên tất cả mọi chỗ, mọi nơi đều là Thiền.

Phật dạy trong các Kinh nguyên thuỷ pháp Lục niệm: niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm Thiên, niệm Giới, niệm Thí. Lục niệm này liên kết với nhau đầy đủ mới thành tựu Phật quả. Niệm Phật để sống với Phật tính sáng suốt, niệm Pháp để nhớ lời dạy vàng ngọc của Phật, niệm Tăng để cung kính và học hỏi, niệm Thiên để được đầy đủ phước, niệm Giới để không làm các việc xấu ác, niệm Thí để biết cách buông xả và giúp đỡ người khác. Sáu niệm này thuần thục thì mới thành tựu Phật pháp viên mãn. Niệm Phật và niệm Bồ tát cũng giống nhau về hình thức, ta có thể niệm Phật Thích Ca, Phật A Di Đà hay Bồ tát Quán Thế Âm hay niệm hơi thở đều được vì đây chỉ là phương tiện bước đầu giúp mọi người dừng vọng niệm xấu ác. Trong nhà Phật phương tiện bước đầu phải là Thiền Chỉ. “Chỉ” là cột tâm vào một điểm nào để đánh bật các vọng niệm buồn thương, giận ghét, phải quấy, tốt xấu, hơn thua làm tổn hại thân tâm. Thiền Chỉ có nhiều loại giúp trụ tâm vào hơi thở nên đều là Thiền Chỉ. Kế đến là Thiền Quán, tức dùng ý thức để xem xét ta-người-hoàn cảnh, nhờ vậy biết tất cả đều vô thường, cái gì có hình tướng đều bại hoại, do đó phát sinh trí tuệ mà biết cách buông xả phiền não tham-sân-si. Ngày xưa Phật không dạy phương pháp Sổ Tức Quán, có nghĩa là đếm hơi thở, đếm từ một đến mười rồi quay trở lại đếm tiếp. Phật chỉ dạy pháp quán hơi thở là thở vô ta biết thở vô, thở ra ta biết thở ra, chỉ một bề quán sát tường tận như vậy. Người đời sau vì vọng niệm lăng xăng, dính mắc nhiều quá nên dạy quán hơi thở họ không đủ sức nhiếp tâm, do đó các Tổ phương tiện chế ra Sổ Tức Quán, đếm hơi thở từ một đến mười để mọi người dễ cột tâm vào đó, vừa đếm vừa hít thở. Tất cả chung quy cũng đều là phương tiện ban đầu.

TU THIỀN TRỰC CHỈ NƠI TÂM

Sau khi niệm danh hiệu Bồ tát Quán Thế Âm đã thuần thục, chúng ta dùng pháp quán chiếu - tức Thiền quán xem xét, soi sáng các pháp duyên sinh vô ngã, vô thường ngay nơi thân tâm, hoàn cảnh; nhờ vậy hành giả biết được lẽ thật của các pháp không thực thể cố định nên dễ dàng buông xả tâm dính mắc “ta-người” và hoàn cảnh bên ngoài; do đó hằng sống với tâm thanh tịnh sáng suốt, không nhơ, không sạch. Muốn vậy Bồ tát phải quán trí tuệ rộng lớn để chuyển hóa tối tăm, si mê và sống với tính biết sáng suốt, nương nơi mắt thấy tai nghe không lầm lẫn, thấy chỉ là thấy, nghe chỉ là nghe, mũi-lưỡi-thân-ý cũng lại như thế; từ đó phát khởi lòng từ bi rộng lớn đi vào đời cứu độ chúng sinh mà không thấy mình ban cho, người được cho và vật đã cho.

Trong Kinh Lăng Nghiêm Phật dạy Nhĩ Căn Viên Thông là thù thắng hơn hết. Một hôm sau khi 25 vị Thánh trình bày sự tu chứng của mình, Phật hỏi Ngài Văn Thù chọn lựa pháp tu Viên Thông để người đời sau bắt chước tu học. Bồ tát Văn Thù chọn lựa pháp tu của Bồ tát Quán Thế Âm là “Phản Văn Văn Tự Tánh”. “Phản” là ngược lại, là xoay cái nghe chạy theo người-vật quay lại chính mình, sống với tánh nghe thường hằng nương nơi tai nên thành tựu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, có tiếng nghe có tiếng, không tiếng nghe không tiếng mà không dính mắc vào âm thanh dù lớn hay nhỏ. Để thể nghiệm tánh nghe của mình có người hỏi, “bạn đang làm gì đó?” “Tôi đang nghe”; như vậy thì bạn đâu có quên mình theo vật, đâu có bị môi lưỡi của người khác lừa mình; như thế là bạn đang sống với tánh nghe thường hằng của mình, chỉ đơn giản vậy thôi. Người đời vì không biết nên lãng quên chính mình, nếu bạn khi nghe ai hỏi “anh đang làm gì đó?” rồi trả lời “tôi đang rửa chén” hay “tôi đang xem ti vi” là bạn đang quên mình theo vật, bạn đã chạy theo âm thanh, sắc tướng bên ngoài.

Sau đây xin mời quý vị hãy cùng chúng tôi lắng tâm nghe một câu chuyện nói về tánh nghe. Thiền sư Cảnh Thanh đang ngồi trong thất cùng một vị Tăng đứng kế bên. Sư hỏi, “bên ngoài có tiếng gì?” Vị Tăng đứng kế thưa, “tiếng con nhái bị con rắn bắt kêu”. Sư nói, “sẽ bảo chúng sinh đau khổ, lại có khổ chúng sinh”. Rắn bắt nhái là chúng sinh khổ vì con lớn hiếp con bé, song lại có khổ chúng sinh chính là vị Tăng quên mình chạy theo âm thanh bên ngoài. Đây là chiêu thuật của các vị Thiền sư để khám phá những người học đạo có sống được với tâm chân thật của mình qua tánh nghe hay không? Hằng ngày từ sáng sớm đến chiều tối, tai chúng ta chỉ chạy theo âm thanh tiếng lớn, tiếng nhỏ êm dịu hay chát chúa bên ngoài, chính vì vậy mà bị âm thanh làm cho khổ não; nghe âm thanh nặng nề ta cảm thấy bực tức, nghe âm thanh vừa ý ta đắm say, dính mắc vào đó do không chịu sống với tánh nghe thường hằng nương nơi tai; vừa nghe tiếng liền khởi niệm phân biệt hay dở, đúng sai rồi sinh tâm ưa thì thích thú bám víu vào đó, sinh tâm ghét thì chán bỏ không thích nghe; cho nên nói “chúng sinh khổ, lại có khổ chúng sinh” là vậy. Người không biết tu thì khổ đã đành, mà người đang tu cũng lại quên mình theo vật, hỏi sau tu hoài không hết phiền não tham-sân-si.

Qua hôm sau, Thiền sư lại hỏi vị Tăng khác, “bên ngoài có tiếng gì?” Vị Tăng quá thành thật nên trả lời “tiếng mưa rơi”. Thiền sư bảo, “chúng sinh điên đảo quên mình theo vật”. Chỉ có người đã thật sự sống với tâm chân thật, sáng suốt của mình mới không chạy theo âm thanh lớn nhỏ bên ngoài. Tai nghe tiếng thì biết mình đang nghe mà không chạy theo tiếng, có tiếng thì có nghe, không tiếng nghe không tiếng; lại biết mình có tính nghe thường hằng nương nơi tai là pháp tu của Bồ tát Quán Thế Âm đã thành tựu từ vô số kiếp đến nay, vì thương chúng sinh ở thế giới loài người này mà không thủ chứng ngôi vị Phật để tìm cách chia vui, sớt khổ bằng tình người trong cuộc sống. Âm thanh lớn nhỏ, xa gần lúc nào cũng có, tính nghe hằng hiện hữu nên mới thường nghe. Nếu tính nghe không thường hằng thì tai ta có lúc nghe, lúc không. Như trong kinh Lăng Nghiêm Phật bảo ngài A Nan đánh tiếng chuông rồi hỏi ngài có nghe không, ngài A Nan trả lời có. Đợi khi tiếng chuông im bặt một hồi, Phật hỏi lại ngài A Nan có nghe không. Ngài trả lời không nghe liền bị Phật quở tại sao quên mình theo vật. Phật nói tiếp, “có tiếng nghe có tiếng, không tiếng nghe không tiếng”. Tính nghe luôn thường hằng nên cái gì biết có tiếng, cái gì biết không tiếng? Vậy mà đa số chúng ta không chịu thừa nhận tính nghe của mình nên luôn sống trong đau khổ lầm mê. Câu chuyện trong Kinh Lăng Nghiêm cho thấy Phật dạy Ngài A Nan và những Thiền sư tu theo cách hành thẳng nơi tâm, không thông qua phương tiện, không hai, không khác. Mỗi hành giả tu theo hạnh nguyện Bồ tát Quán Thế Âm cần phải thể nghiệm sâu sắc lời dạy trên để được giác ngộ, giải thoát ngay tại đây và bây giờ.

Trong Thiền môn có một câu chuyện rất nổi tiếng về Bồ tát Quán Thế Âm. Một Thiền sinh trên đường đi tham vấn đã đến một chùa nọ có thờ Bồ tát nghìn tay nghìn mắt, thấy vậy anh hỏi Thiền sư, “Bồ tát nghìn tay nghìn mắt như vậy thì mắt nào là mắt chánh?” Thiền sư nói, “như người ngủ ban đêm với tay ra sau tìm chiếc gối, ngay khi đó mắt chánh hiện tiền”. Chỗ này mọi người tự biết, tôi không thể biết “cái gì biết tìm chiếc gối trong đêm tối”. Bồ tát nghìn tay là tượng trưng cho sự dấn thân làm việc không biết mệt mỏi, không biết nhàm chán vì lợi ích chúng sinh. Con mắt trong mỗi bàn tay tượng trưng cho trí tuệ thấy biết đúng như thật, nhờ vậy Bồ tát thương yêu bằng trái tim hiểu biết, giúp đỡ chúng sinh một cách bình đẳng, không phân biệt người thân hay kẻ thù. Trong Kinh Lăng Nghiêm Phật dạy “Phản Văn Văn Tự Tánh” là xoay cái hay nghe nghe lại tự tánh mình thì được đạo vô thượng. Hòa Thượng chúng tôi dạy biết vọng không theo, thấy biết là chơn tâm, nghe biết là chơn tâm, mũi-lưỡi-thân-ý cũng lại như thế. Vậy Thiền và Kinh đâu có khác, Phật và Tổ không hai, đồng một con đường hướng thượng để thể nhập tính biết sáng suốt của mình nương nơi mắt-tai-mũi-lưỡi-thân-ý.

Như chúng ta đã biết, Thiền không lệ thuộc vào một tư thế nào hay một hình thức, lễ nghi mà được vận dụng nhuần nhuyễn từ sáng sớm mở mắt thức dậy cho đến khi đi ngủ. Đối với người mới tu Thiền thì ngồi Thiền là tư thế tối ưu trong bốn oai nghi vì tư thế ngồi giúp tâm dễ an định. Thiền sư Đạo Nhất lúc còn là Thiền sinh đều ngồi Thiền hằng ngày rất tinh tấn từ sáng sớm cho đến trưa. Một hôm, Thiền sư Nam Nhạc đến hỏi, “đại đức ngồi Thiền để làm gì?” Ngài Đạo Nhất thưa, “ngồi Thiền để làm Phật”. Ngài Đạo Nhất chỉ chấp vào việc ngồi Thiền của mình mà không chịu Thiền trong các oai nghi khác, do đó khi ngồi thì yên, khi đi đứng hoạt động thì tâm niệm lăng xăng. Thiền sư Nam Nhạc muốn phá chấp và cảnh tỉnh ông nên mỗi ngày đem gạch trước chỗ ngài ngồi Thiền mài sột sạt. “Thầy mài gạch để làm gì?” “Mài gạch để thành gương.” À! Tới đây quý vị đã biết ý Tổ sư chưa? Ngài Đạo Nhất chấp vào việc ngồi Thiền và cho đó là cứu cánh, điều này cũng giống như người mài gạch mà muốn thành gương, đem cát nấu mà muốn thành cơm thì không thể được. Sau đó ngài Đạo Nhất thưa, “mài gạch đâu thể thành gương được?” Ngài Nam Nhạc hỏi lại, “ngồi Thiền đâu thể thành Phật được?” “Vậy con làm thế nào mới đúng?” Thiền sư nói, “như trâu kéo xe, nếu xe không đi, đánh xe là phải hay đánh trâu là phải?” Chiếc xe là vật vô tri, con trâu là vật kéo nên khi bị đánh đau thì nó kéo xe. Cũng vậy, chúng ta ai cũng có tánh biết ngay nơi thân này, như khi gặp lửa ta liền biết nóng, khi gặp gió ta liền biết mát, có khi ta không suy nghĩ nhưng vẫn thấy-nghe rõ ràng. Vậy cái gì biết thấy, biết nghe? Cái biết này luôn hiện hữu nơi ta, mắt thấy tức biết, tai-mũi-lưỡi-thân-ý cũng lại như thế. Trâu là dụ cho tâm mình, xe là dụ cho thân, chúng ta Thiền là hành thẳng nơi tâm mọi lúc, mọi nơi chứ không chỉ lúc ngồi Thiền. Người tại gia bận công lên việc xuống làm sao có nhiều thời gian để ngồi Thiền. Nếu ta chấp như vậy thì tu hoài cũng dậm chân tại chỗ, làm sao tu tiến cho được. Cho nên, người tại gia phải biết uyển chuyển tu từ khi mở mắt thức dậy cho đến khi đi ngủ, tu như vậy mới đủ khả năng hoá giải phiền não tham-sân-si. Người tại gia vì phải bận bịu với cơm áo gạo tiền, cha mẹ, vợ chồng, con cái, giao tế bạn bè, giữ mối quan hệ làm ăn nên phải Thiền bằng cách chú tâm, làm việc nào biết việc đó.

MỌI NGƯỜI THIỀN ĐỂ ĐƯỢC BÌNH YÊN HẠNH PHÚC

Chúng tôi hướng dẫn niệm Bồ tát Quán Thế Âm cũng y như niệm Phật Cầu vãng sanh, nhưng khác ở chỗ niệm Bồ tát để cầu cứu độ chúng sinh ngay nơi cõi đời này. Phương pháp này thể hiện tình người trong cuộc sống, lòng yêu thương nhân loại để cùng nhau dìu dắt mà vượt qua cạm bẫy cuộc đời, giúp cho nhiều người còn chìm đắm trong biển khổ sông mê thực tâm tỉnh giác, quay về nguồn cội của chính mình, tức tin tâm mình là Phật. Phật đã dạy trong bầu vũ trụ bao la này gồm có ba cõi sáu đường luân hồi, sống chết. Trong sáu nẻo luân hồi có ba đường trên là trời, A tu la, người; ba đường dưới là địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni thành Phật ở cõi người dưới cội cây Bồ đề tại đất nước Ấn Độ, trong Kinh Người còn thọ ký về sau khi thế giới Ta bà không còn ai biết Phật pháp thì đức Phật Di Lặc sẽ ra đời, cũng nơi cõi người, dưới cội cây Long Hoa.

Tại sao Phật không ra đời ở các cõi khác như cõi trời chẳng hạn? Vì người trời có quá nhiều phước báo nên tất cả đều hưởng lạc thú đầy đủ, không bị khổ não, bức bách nên rất khó tu. Thường con người khi khổ quá mới chịu tu, cụ thể như những người quá giàu có ở thế gian này, nếu có tu họ cũng chỉ làm phước, đóng góp nhiều cho xã hội mà thôi. Người A tu la cũng có phước báo hơn người, tương đương với cõi trời nhưng vì tâm sân hận quá mãnh liệt nên lúc nào cũng gây chiến với người trời, do đó cũng không tu được. Ba đường dưới cõi địa ngục quá khổ, súc sinh thì si mê, quỷ đói thì khát máu, sống theo nghiệp báo nên không đủ nhận thức sáng suốt để tu. Chỉ có cõi người mới tu được nhờ có suy nghĩ, nhận thức, biết suy xét, quán chiếu, tìm tòi, nếu đi theo chiều hướng thượng thì lợi ích cho người và vật; ngược lại, nếu ác thì cùng hung cực ác không có loài nào bằng. Chính vì lẽ đó nên loài người có đủ điều kiện tu hành vì có buồn vui lẫn lộn với các sự khổ như sinh khổ, già khổ, bệnh khổ, chết khổ, yêu thương xa lìa khổ, oán ghét gặp nhau khổ, mong cầu không như ý khổ, thân này thịnh hay suy đều khổ. Chính những cái khổ này làm cho con người có ý thức tu tâm sửa tánh, nếu không biết tu lại càng khổ nhiều hơn.

Người Phật tử tại gia do bộn bề công việc nên dính mắc vào gia đình, cha mẹ, vợ con, thân bằng quyến thuộc bị áp lực ngoài xã hội nên phải biết ứng dụng Thiền trong mọi hoàn cảnh thì họa may mới có chút phần an lạc trong cuộc sống, nếu không sẽ chịu nhiều phiền muộn khổ đau. Thiền chỉ là bước đầu để cột tâm con khỉ ý thức của chính mình, xưa nay chúng ta quen chạy rong ruỗi đầu này đầu kia, muốn cho tâm an định thì phải chú tâm vào câu niệm Quán Thế Âm Bồ tát, chú tâm vào mọi oai nghi đi-đứng-nằm-ngồi, nhờ vậy mới từ từ đánh bật những vọng niệm lăng xăng khác. Thiền Chỉ lâu ngày thuần thục thì phát sinh định tĩnh, nhưng trụ vào đây mãi sẽ trở thành si định vì không có trí tuệ nên không đủ sức hóa giải phiền não tham-sân-si. Do đó ta phải chuyển qua Thiền Quán để thấy rõ thực chất thân tâm và hoàn cảnh. Nhờ xem xét, quán chiếu, ta thấy thân này không thật có, do bốn chất đất-nước-gió-lửa hợp thành bởi tinh cha, huyết mẹ cùng với thần thức một chúng sinh. Nếu thân này thiệt thì trước sau như một không biến chuyển, đổi thay, bởi nó giả nên phải già-bệnh-chết. Rồi hằng ngày ta phải vay mượn các thức ăn uống để nuôi thân, mượn vô rồi phải trả ra, cứ như thế hết vay mượn lại trả ra, cho đến khi nào không còn vay mượn nữa thì mạng sống chấm dứt. Nhưng chết không phải là hết, chết chỉ là thay hình đổi dạng, nếu trong đời này ta không biết tu tâm sửa tánh để sống có nhân cách đạo đức và giúp đỡ người khác thì mình khó có cơ hội làm người trở lại khi mất thân này.

Chính vì vậy, ai biết tu Thiền sẽ sống một đời bình yên, hạnh phúc trong hiện tại và mai sau. Ai không biết tu Thiền khi phước hết họa đến sẽ trả quả xấu ác, lúc này dù có ăn năn hối hận cũng đã muộn. Phật dạy “giống như con rùa mù 100 năm mới trồi lên trong biển cả, để tìm được bọng cây chui vào rất khó”. Cũng vậy, nếu ngay trong hiện đời ta không biết gieo trồng phước báo thì khó có cơ hội được làm người trở lại. Người tại gia phải cố gắng gia công Thiền định trong bốn oai nghi cho đến khi nào tâm dứt hết các tạp niệm phải quấy, hơn thua, buồn thương, giận ghét mà lặng lẽ, thanh tịnh mới thật là an nhiên, tự tại. Có nhiều người nhất là độ tuổi học sinh, sinh viên nói “tu cái gì cũng bỏ hết” thành ra ngu ngốc, không biết gì hay sao? Thật ra không phải vậy, người tu bỏ những niệm lăng xăng tạp loạn để tập trung vào một việc thì sáng thêm chớ làm sao ngu được. Khi làm việc cũng vậy, nếu buông hết chuyện tạp, tập trung, chú tâm vào công việc thì kết quả sẽ tốt hơn. Khi ta càng buông lại càng nhớ, nhớ một cách tự nhiên, trong sáng nên mọi việc hiện ra rất rõ ràng, phân minh. Chúng ta thử nghiệm xét lại xem khi nào mình rối mà việc này, việc kia cứ dồn dập đến thì mình quên trước, quên sau, không có đầu đuôi gì hết. Khi ấy chúng ta chỉ cần ngồi Thiền, tập trung lại một chút sẽ nhớ rõ ràng trở lại, chính vì vậy nhiều người mới tập tu Thiền. Nhiều người nói không nhớ gì hết nhưng sao đến lúc ngồi Thiền lại nhớ nghĩ đủ chuyện trên đời. Lúc chưa Thiền ta không có thời gian định tâm nên việc này việc kia chồng chéo lên nhau nên mình không nhớ, khi ngồi Thiền tâm an tịnh nên ta nhớ biết rõ ràng đủ thứ chuyện. Xưa nay ta lãng quên không biết ứng dụng Thiền vào cuộc sống nên thấy khó tu, giờ đã tu nên khi ngồi lại thấy rõ ràng từng vọng niệm thương ghét phát sinh nhưng không dính mắc theo, chỉ nhìn chúng rõ ràng thì tự động chúng lặng xuống, ta khỏi cần phải xua đuổi hay đối trị gì hết.

Ngày xưa khi Đức Phật ngồi Thiền dưới cội bồ-đề và chứng được Túc Mạng Minh, Ngài nhớ lại vô số kiếp trước đã làm gì, ở đâu như nhớ chuyện ngày hôm qua. Khi buông hết các tạp niệm lăng xăng ta tưởng như quên hết mọi việc nhưng trái lại càng Thiền càng nhớ rõ nhưng tâm không dính mắc, việc gì cần nhớ thì nhớ, không cần thì thôi. Hiểu như vậy ta mới thấy tâm mình là kho chứa đựng các thứ buồn thương, giận ghét, tốt xấu, phải quấy, hơn thua. Những thứ cần biết thì ta không biết, những thứ không cần biết ta lại tìm tòi để dính mắc vào đó nên sinh ra phiền muộn, khổ đau. Tóm lại, chúng ta nên nhớ việc gì đáng lo thì mình lo, việc gì không đáng lo thì đừng bận tâm đến. Người khéo tu Thiền trong mọi hoàn cảnh lúc nào cũng nhớ quay lại chính mình, nhận ra và sống được với Phật tính sáng suốt; ngoài ra tất cả đều là vô thường hư ảo nên không cần chú tâm đến làm gì, như thế các tạp niệm lăng xăng từ từ không có chỗ bám víu sẽ tan hòa vào hư không. Đến đây thì,

Ở đời vui đạo hãy tuỳ duyên,

Đói đến thì ăn, mệt ngủ liền.

Trong nhà có báu thôi tìm kiếm,

Đối cảnh không tâm chớ hỏi thiền.


Đây là bài kệ của vua Trần Nhân Tông khi còn làm Thái Thượng Hoàng. Ở giữa cuộc đời này mà ta luôn sống làm tròn trách nhiệm, bổn phận đối với gia đình người thân và còn đóng góp lợi ích cho xã hội. Sống và làm việc như vậy mà không bị dính nhiễm bụi trần nên thân tâm an ổn, nhẹ nhàng. Người đã thể nhập chân lý không còn lo toan, bận bịu một thứ gì. Việc gì cần làm thì làm, làm trong vui vẻ, an nhiên; cho nên đói thì ăn mà không thèm khát, khi mệt thì đi ngủ một giấc ngon lành như Lục tổ nói, “duỗi thẳng hai chân ngủ”. Ngay nơi thân này mình đã sống với ông Phật của chính mình nên đâu cần tìm cầu, tìm kiếm nơi khác, khỏi phải lăng xăng chạy tìm Phật pháp ở phương nào. Ý nghĩa câu kệ cuối cùng rất quan trọng, khi làm việc, tiếp xúc, đối duyên chạm cảnh thì tâm hằng biết mà không tính toán so đo, do đó bình an, tự tại nên không cần phải hỏi tới Thiền. Tâm không vướng mắc với trần cảnh, thấy tức là biết mà không dính vào hình ảnh sự vật, như vậy không phải Thiền là gì? Còn đi tìm kiếm, còn hỏi Thiền là dư rồi, tới đó trong nhà đã có báu nên thôi tìm kiếm, đối cảnh đã vô tâm nên không phải hỏi Thiền.

Như vậy, quyền cao chức trọng, địa vị danh vọng, nhà lầu xe hơi, tiền bạc dư dã, vợ đẹp con xinh, những thứ này người thế gian ai cũng ước ao mong muốn; nhưng vị vua Thiền sư Trần Nhân Tông tuy có đầy đủ mà dám bỏ hết để lên núi tu hành và thành tựu đạo pháp. Gương sáng của Phật hoàng Trần Nhân Tông là ông vua thiền sư đã biết áp dụng Thiền khi làm Thái thượng hoàng, đã truyền mãi đến bây giờ hơn 700 năm, chúng ta may mắn là người dân đất Việt nên được thừa hưởng trực tiếp tinh ba của ngài nhờ biết Thiền trong cuộc sống. Vua Trần Nhân Tông đã biết áp dụng “Thiền” trong cuộc sống, nên khi xuất gia lên núi Yên Tử tu hành chỉ trong thời gian ngắn đã sáng đạo. Thiền sư xuống núi khuyên dạy mọi người giữ năm giới, tu mười điều thiện và phá bỏ những tập tục mê tín có tính cách làm tổn hại nhân loại. Nhờ vậy Phật giáo đời Trần là một nét son vàng chiếu sáng khắp toàn thể nhân gian nước Việt, phát triển tinh thần làm chủ bản thân nhờ biết “thiền” trong gia đình và cuộc sống.

Chỉ cần mọi người chúng ta noi theo gương hạnh của người xưa qua sự hướng dẫn của chư Tăng ni trong thời hiện tại. Chúng ta có đầy đủ lòng kính trọng Tam bảo và tin tâm mình là Phật mà cố gắng kiên trì, bền bỉ, dù không thành tựu trọn vẹn trong kiếp này, ta vẫn là người tốt trong hiện tại và mai sau vì đã ta có chất Thiền trong người. Cứ như thế, ta sẽ hành Bồ tát đạo dưới nhiều hình thức khi thì làm thủ tướng, nữ hoàng, người nam, người nữ để tuỳ duyên hoá độ chúng sinh theo tinh thần của Bồ tát Quán Thế Âm đang đi vào đời để cùng chia vui sớt khổ. Muốn được thành tựu viên mãn ta phải dùng cây cung Thiền định và lưỡi kiếm trí tuệ để quét sạch mọi ma mị trong tâm, cho đến khi nào thanh tịnh, sáng suốt, lặng lẽ mà hằng chiếu soi muôn sự vật. Cảnh là cảnh, vật là vật, ta là ta cùng hoà hợp nhịp nhàng với nhau bằng tình người trong cuộc sống với trái tim yêu thương và hiểu biết. Mỗi hành giả tu Thiền nên lấy bài kệ của Thiền sư Huyền Giác để nghiệm xét chính mình:

Tỉnh tỉnh lặng lặng phải,

Vô ký lặng lặng sai,

Lặng lặng tỉnh tỉnh phải,

Loạn tưởng tỉnh tỉnh sai.

“Tỉnh tỉnh lặng lặng phải” là sao? “Tỉnh tỉnh” có nghĩa là chúng ta thường biết rõ ràng, “lặng lặng” có nghĩa là không vọng niệm lăng xăng, cho nên “tỉnh tỉnh lặng lặng” là thành tựu viên mãn. Phật đã sống được như vậy trọn vẹn nên không có gì làm cho Ngài dao động, suốt 49 năm giáo hóa bị người mắng chửi, vu oan giá họa bằng mọi thủ đoạn nhưng Phật vẫn an nhiên, tự tại mà chứng minh sự trong sáng của mình. “Vô ký lặng lặng sai” là sao? Ở đây ý nói người tu Thiền nhờ chú tâm vào một chỗ nên tâm an định nhưng không có trí tuệ, do đó rơi vào hôn trầm, không biết gì. “Lặng lặng tỉnh tỉnh phải” cũng giống như đã nói, còn “loạn tưởng tỉnh tỉnh sai” ý nói chúng ta sử dụng Thiền quán nhiều mà phát sinh trí tuệ, nhưng có trí tuệ mà cứ nhớ hoài Thiện pháp, không buông xả được nên khi đó chúng là vọng niệm lăng xăng, tức loạn tưởng. Chỉ có “tỉnh tỉnh lặng lặng” là đúng, coi như thành tựu Phật đạo mà bình thản, an nhiên, tự tại. Chút duyên lành có được ngày hôm nay nhờ ân giáo dưỡng của Hòa Thượng tôn sư Trúc Lâm Phụng Hoàng và sự chỉ dạy trực tiếp của Hòa Thượng trụ trì Tổ đình Thiền Viện Thường Chiếu. Chúng con nguyện khắc cốt khi tâm, cố gắng tu hành cho đến khi nào viên mãn mới thôi. Công ơn của thầy Tổ bao la, rộng lớn không gì có thể sánh bằng, dù thành Phật vô số kiếp cũng chưa chắc trả hết công lao này. Khi sống được với hương vị của Thiền, mỗi hành giả sẽ dần hồi gột rửa các tập khí, thói quen xấu ác có tính cách hại người hại vật, cho đến khi nào hết sạch vọng niệm thì thành tựu Phật đạo viên mãn.

Mọi người đều có tánh biết sáng suốt của mình, nương nơi mắt thì thấy biết rõ ràng không lầm lẫn, thấy chỉ là thấy, nghe chỉ là nghe, không thêm một niệm nào để phân tích sự vật tốt hay xấu, đúng hay sai; mũi-lưỡi-thân-ý cũng lại như thế. Cái thấy biết này nói theo tổ Huệ Khả ở Trung Hoa là “thường biết rõ ràng”, nói không thể đến. Chỗ đó thấy chỉ là thấy, nghe chỉ là nghe; như cái hay thấy nương nơi mắt thấy rõ ràng không lầm lẫn, cảnh vật có thể đổi thay trăm ngàn thứ nhưng cái hay thấy không bao giờ thay đổi. Cái hay thấy lúc nào cũng hiện tiền, mở mắt thấy sáng, nhắm mắt thấy tối. Thấy tối, thấy sáng là do sự nhắm mở của con mắt chớ không liên can gì đến cái thấy; như người có mắt sáng đi vào phòng tối thì vẫn thấy tối đen; như bóng đèn điện gắn bóng vào thì điện cháy, mở bóng ra thì điện tắt, có cháy có tắt là do bóng đèn chớ điện đâu bao giờ bị mất. Như vậy, cái hay thấy thì thường hằng, cảnh vật thì khi có khi không, thấy tức là tâm thấy, vì có thấy tức là có biết, biết tức là tâm thấy. Vậy rõ ràng mỗi người chúng ta ai cũng đều biết, thấy tức biết mình có Phật tánh, chỉ tại vì ta không chịu thừa nhận đó thôi.

Có chú Sa di đến tham vấn Thiền sư để tìm ra chân lý sống của chính mình. Một hôm Thiền sư gọi chú lại bảo, “ta nghe Thăng Long rất náo loạn, ngươi có biết chăng?” “Kính bạch thầy, nước con an ổn.” “Vậy ngươi do xem Kinh được hay do thưa hỏi được?” “Con chẳng do xem Kinh được, cũng chẳng do thưa hỏi được.” Thiền sư nói, “tại sao nhiều người chẳng xem Kinh, chẳng thưa hỏi mà họ chẳng được?” “Tại vì họ chẳng chịu thừa nhận đó thôi!” Thiền sư nói, “ông biết, ta cũng biết, hãy khéo gìn giữ và bảo trì!” Bây giờ chúng ta đã thấy chưa? Nếu thấy thì hãy ráng gìn giữ và bảo trì, còn nếu chưa thấy thì phải cố gắng nghiên tầm học hỏi, tu tập cho giỏi để nhận lại cái biết sáng suốt của chính mình. Nếu nhận được thì chúng ta sẽ đi thẳng đến một bầu trời trong sáng mà các thứ tối tăm khác không thể nào che lấp được. Chúng tôi lúc nào cũng thầm cầu nguyện cho tất cả mọi người đi trọn con đường sáng để chúng ta được sống yêu thương và hiểu biết, dấn thân và phục vụ, bao dung và tha thứ, độ lượng và cảm thông, lấy niềm vui của tất cả chúng sinh làm niềm vui chính mình.

Bây giờ tất cả mọi người hãy lắng lòng trong sạch để cùng chúng tôi nhận lại hòn ngọc vô giá mà ta đã lãng quên từ lâu nay. Chân thành thay! Chân thành thay! Chú Sa di đến học đạo tìm cầu chân lý chưa kịp thưa hỏi đã bị ông thầy tung ra cái bẫy để thử nghiệm người đệ tử có bị miệng lưỡi của Hòa Thượng lừa hay không. “Ta nghe Thăng Long rất náo loạn, ngươi có biết chăng?”, chú Sa di này quả đúng là người có tỉnh giác nên không bị Thiền sư lừa. “Dạ thưa thầy, nước con an ổn”. Chúng ta nghe chú Sa di trả lời như vậy có thấy lạ kỳ không? Ngày xưa kinh đô của nước Việt Nam là Thăng Long, mà đã là kinh đô thì cuộc sống nơi đây phải ồn ào, náo nhiệt, người đến người đi rất đông đúc, phồn vinh. Vậy mà chú vẫn sáng suốt trả lời, “nước con an ổn”. Chúng ta nghe có điếc tai không? Ông thầy hỏi một đường, đệ tử trả lời một nẻo, sao kỳ lạ quá? Thiền sư mới thầm nghĩ thì ra chú đã vào đến cổng nhà Thiền, nhưng vào cổng chưa phải là xong. Thiền sư sợ đệ tử lọt vào chỗ hiểu biết rồi sinh kiến giải mà trong nhà Thiền thường gọi là Khẩu Đầu Thiền (Thiền trên miệng lưỡi), chỉ bắt chước nói lại lời của người xưa mà mình thực sự không phải chứng đạo hay tự thấy. Tới đây Thiền sư bồi thêm một câu, nếu chú Sa di ấy không phải là người chứng thiệt thì sẽ ôm câu này mà nghi vấn cả đời, “ngươi do xem Kinh được hay do thưa hỏi được?” Chú đệ tử liền nói như đinh đóng cột, “con chẳng do xem Kinh được, cũng chẳng do thưa hỏi được”. Thiền sư lúc này mới thầm khen trong lòng chú đệ tử đã vào đến nhà Thiền. Không ngờ chú Sa di quá lợi hại, câu thứ nhất chú trả lời in tuồng như loài sư tử còn ở trong hang nhưng đã biết gióng lên tiếng gióng loài sư tử, làm cho muôn loài thú khiếp sợ. Câu thứ hai chú trả lời để khẳng định mình đang sống với cái tính biết sáng suốt, thanh tịnh hằng tri, hằng giác. Nhưng để kiểm chứng đệ tử của mình đã thật sống với bản tâm chân thật hay chưa nên Thiền sư đã bồi thêm câu, “tại sao nhiều người chẳng do xem Kinh, cũng chẳng do thưa hỏi mà họ chẳng được?” Vì đã thật sống với bản tâm chân thật rồi nên chú Sa di đã xác định lại, “vì họ chẳng chịu thừa nhận đó thôi!” Tới đây Thiền sư mới xác nhận, “ông như thế, ta cũng như thế, hãy khéo gìn giữ và bảo trì!” Cho nên,

Cái biết ai cũng có

Ngay nơi thân mọi người

Chỉ vì ta không nhận

Nên đành chịu khổ đau.

Khi mê thì Phật độ

Khi biết thì tự độ

Đó là lý nhiệm mầu

Của tất cả chư Phật.


Tại vì chúng ta không chịu thừa nhận nên suốt đời sống trong đau khổ lầm mê, thôi thì chỗ này chúng tôi cũng không giúp gì được cho ai mà chính mọi hành giả phải tự nhận lấy. Nhận được thì chúng ta sẽ sống một đời thánh thiện, đạo đức, luôn vì lợi ích tha nhân, lấy niềm vui nhân loại làm niềm vui chính mình. Phật tánh sáng suốt mà chúng tôi đang nói với tất cả mọi người là “Phật tại tâm”, Phật không có trong núi rừng, chẳng phải tìm cầu bên ngoài mà ngay nơi chính mình nhận ra.

Bây giờ chúng ta hãy nghe chuyện vị vua Thiền sư Trần Thái Tông, ông Tổ của Phật hoàng Trần Nhân Tông đã lên núi xin Quốc sư Trúc Lâm làm Phật. Quốc sư ân cần nắm tay vua bảo, “trong núi vốn không có Phật, Phật ở trong tâm ta, nếu tâm lắng lặng thường biết rõ ràng thì đó chính là tâm Phật. Bệ hạ giác ngộ được tâm ấy thì tức khắc thành Phật, không cần phải khổ nhọc tìm cầu bên ngoài”. Ngay nơi đây mọi hành giả tu Thiền sẽ nhận lại cái sẵn có nơi mình, cái đó rỗng rang, sáng suốt, nhiệm mầu, nói không thể đến. Trong nhà Phật có nhiều danh từ để chỉ ra cái biết sáng suốt của mình. Để nói lên sự bình đẳng của một chúng sinh Phật đã từng xác quyết, “ta là Phật đã thành, chúng sinh là Phật sẽ thành”. Phật là danh từ chung, ai cũng có quyền sống với cái biết sáng suốt của mình nương nơi mắt-tai-mũi-lưỡi-thân-ý, hay còn gọi là “Phật tánh”. Ngày xưa Bồ tát Sĩ Đạt Ta phải bỏ cung vàng điện ngọc, vợ đẹp con ngoan, thần dân thiên hạ và quyền uy thế lực và phải mất 11 năm lao công nhọc sức mới tìm ra chân lý sống cho con người. Chúng ta bây giờ đâu cần khổ nhọc tìm cầu vì Phật đã chỉ dạy tường tận, rõ ràng, chúng ta cứ y như thế mà gìn giữ, hành trì. Giữ tròn năm giới, thường quán niệm về Phật và biết tu Thiền trong mọi hoàn cảnh thì chúng ta sẽ là bậc hiền Thánh trong hiện tại và mai sau, luôn làm lợi ích cho bản thân, gia đình và xã hội.

Giữ tròn năm giới, tôn trọng, bảo vệ sự sống của muôn loài và thường xuyên tưởng nhớ Phật là một nhân cách cao đẹp, là mẫu người đạo đức xứng đáng làm bậc hiền thánh trong hiện tại và mai sau. Không giết hại là đem lại bình an cho tất cả chúng sinh, không sợ oán ghét, thù hằn vay trả, lại còn hay phóng sinh giúp người, cứu vật là tinh thần Bồ tát trong thời hiện đại. Sở dĩ thế giới loài người lúc nào cũng xảy ra chiến tranh, binh đao, con người sống tàn nhẫn và độc ác với nhau là do nhân giết hại mà ra. Rồi thiên tai, lũ lụt, hỏa hoạn, sóng thần, động đất làm tổn hại biết bao con người và tài sản cũng từ sự phá hủy môi trường thiên nhiên. Cho nên, để bảo vệ sự sống chung của cõi Ta Bà mọi người không nên giết hại, lại còn trải rộng lòng từ đến tất cả chúng sinh. Không gian tham, trộm cướp là đem lại sự an tâm cho con người, không sợ bị chiếm đoạt của cải, lại hay bố thí cúng dường, giúp đỡ chia sẻ khi thấy người bất hạnh. Gian tham, trộm cướp là nhân dẫn đến nghèo cùng, khốn khổ vô số kiếp, vì vậy Bồ tát cần nối vòng tay lớn để giúp đỡ chúng sinh trong cơn hoạn nạn. Không tà dâm là bảo vệ hạnh phúc cho gia đình mình và người, đem lại sự yên tâm cho nhân loại, không sợ bị mất mát, thiệt thòi, lại hay khuyên người chung thủy, bảo vệ hạnh phúc gia đình nên không có sự nghi ngờ, ghen tuông của vợ hoặc chồng. Không nói dối để hại người hại vật, lại hay nói lời thật để giúp người vững niềm tin trong cuộc sống. Nhân nói dối sẽ làm người mất tin tưởng nên nói người không nghe. Do vậy Bồ tát phải học hạnh lắng nghe và nói lời hòa nhã, êm dịu để đem niềm vui đến mọi người. Không uống rượu và dùng các chất độc hại như xì ke, ma túy vì nó là những thứ làm chính mình khổ đau, lại còn ảnh hưởng đến gia đình và xã hội. Nó là nhân dẫn đến bệnh hoạn, si mê, trong hiện tại và mai sau sẽ chịu quả nghèo cùng, dốt nát, tối tăm, bị bệnh tâm thần vô số kiếp. Người cư sĩ tại gia nếu gìn giữ được như vậy và thường xuyên quán tưởng về Phật, biết tu Thiền trong mọi hoàn cảnh thì sẽ là viên ngọc quý cho đời và luôn sống an lạc, hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ.

Mỗi hành giả tu Thiền hãy nên nhớ bài kệ này mà cùng nhau động viên, tự răn nhắc chính mình, tin tâm mình là Phật để chúng ta có đầy đủ niềm tin, đầy đủ dũng lực vươn lên vượt qua cạm bẫy cuộc đời để được sống yêu thương với trái tim hiểu biết bằng tình người trong cuộc sống.

Nam mô Thánh đức Bồ tát Quán Thế Âm.
____________

Thích Đạt Ma Phổ Giác

Nguồn: thuvienhoasen.org

AM MÂY NGỦ (TRUYỆN)

AM MÂY NGỦ

Truyện Ngoại Sử của Nhất Hạnh

Lá Bối Xuất Bản, Paris 1982

 

 

LỜI NHÀ XUẤT BẢN

 

 

AM MÂY NGỦ (TRUYỆN)


Chương 1

Chương 2

Chương 3

Chương 4

Chương 5

Chương 6

Chương 7

Chương 8

Chương 9 

Chương 10

Lời bạt 

Niên biểu

 

Truyện Am Mây Ngủ tuy nói về công chúa Huyền Trân nhưng ở đây hình ảnh công chúa Huyền Trân không thể tách rời ra khỏi hình ảnh của người tăng sĩ áo vải sống trên am Ngoạ Vân núi Yên Tử. Người  ấy là Trúc Lâm đại sĩ, tổ thứ nhất của thiền phái Trúc Lâm.


Trước khi thành Thiền sư, Trúc Lâm đại sĩ đã từng làm vua nước Đại Việt. Đó là vua Trần Nhân Tông, người đã từng đẩy lui cuộc xâm lăng của quân Mông Cổ. Từ ngày xuất gia, Trúc Lâm đã sống đời khổ hạnh, mặc áo vải sô, ngủ am lá, và đi chân đất. Ông đã tu như thế trên mười năm trời, trong khi vẫn không quên tiếp tục xây dựng và bồi đắp nền đạo đức và văn hóa dân tộc. Ông đã du hành sang đất Chiêm để thắt chặt tình hữu nghị Chiêm Việt, mong dựng nên một nền hòa bình lâu dài giữa hai nước. Công chúa Huyền Trân con gái của ông đã tự nguyện làm một trong những viên gạch đầu tiên cho nền móng hòa bình.


Trong Am Mây Ngủ, tác giả đã lấy lòng của một Thiền sư để hiểu lòng một vị Thiền sư. Đó là nét cảm động nhất trong tác phẩm mà Lá Bối trân trọng giới thiệu với các độc giả thân mến hôm nay.


Paris mùa Hè năm Nhâm Tuất.

_____________

 

Thiền Sư Thích Nhất Hạnh

Nguồn: quangduc.com

TRỊ QUỐC MÀ CỰC ĐOAN THÌ HỎNG

GS.Cao Huy Thuần: Phật giáo đời Trần vừa rộng vừa sâu, rộng ở nền móng, sâu ở thượng đỉnh, dưới trên đều cùng một tư tưởng thông suốt. Muốn biết hệ tư tưởng đó sâu rộng thế nào, thắt chặt đoàn kết đến đâu, chỉ cần đọc mấy câu của nho gia Lê Quát: "Nhà Phật lấy họa phúc để cảm động lòng người sao mà được người tin theo sâu bền như thế! Trên từ vương công, dưới đến dân thường, hễ bố thí vào việc nhà Phật dù đến hết tiền của cũng không sẻn tiếc... Cho nên trong tự kinh thành, ngoài đến châu phủ, cho đến thôn cùng ngõ hẻm, không phải ra lệnh mà tuân theo, không bắt phải thề mà giữ đúng". 


LTS: Cả hai cùng tu một pháp, cùng vào một cửa, cùng ngộ như nhau, nhưng khi truyền đạt, giáo huấn, dạy dỗ, áp dụng, một bên thì cực đoan, một bên thì diệu dụng. Tại sao? Tại vì một bên chỉ là ông thiền sư, bên kia ông thiền sư còn là ông vua! Ông thiền sư chỉ có vài trăm đệ tử, ông vua có cả một nước! Cả triệu dân! Trị quốc mà cực đoan thì hỏng.
 
Để rộng đường dư luận, Tuần Việt Nam giới thiệu bài viết của GS Cao Huy Thuần về đề tài Thiền đời Trần, thiền Việt Nam.

Tôi sẽ trả lời hai câu hỏi:

1. Có hay không một dòng thiền mang sắc thái Việt Nam?

2. Có đúng hay không dòng thiền Yên Tử đã tạo nên sức mạnh cho Việt Nam để đánh bại xâm lăng Nguyên Mông?

Đó là hai câu hỏi mà Tuần Việt Nam đã đặt ra cho tôi để trò chuyện về Phật giáo đời Trần nhân dịp kỷ niệm Ngàn năm Thăng Long. Tôi hứa sẽ trả lời, không phải trong một cuộc phỏng vấn mà trong một dịp khác, và dịp đó là đây, giữa Tuần Lễ Văn Hóa Phật Giáo này.

Thật lòng, tôi đã rất ngạc nhiên khi nghe hai câu hỏi này. Phật hoàng Trần Nhân Tông, thiền Trúc Lâm Yên Tử, và ảnh hưởng của Phật giáo trong chiến thắng Nguyên Mông đã được thảo luận nhiều rồi trong sách vở và trong các cuộc hội thảo, làm sao tôi có thể nói thêm điều gì mới lạ trong tình trạng tư liệu ít ỏi đã được khai thác lâu nay? Riêng về thiền tông đời Trần, có ai giảng giải rành mạch và đủ thẩm quyền hơn Hòa thượng Thanh Từ? Có ai vừa giàu tưởng tượng vừa không sợ đưa ra những giả thuyết độc đáo bằng học giả Lê Mạnh Thát? Ấy là chưa kể bao nhiêu bài viết công phu, đầy giá trị, của các nhà trí thức trong và ngoài Phật giáo. Để trả lời hai câu hỏi đó, tôi chỉ cần nói: xin đọc lại những gì mà các vị ấy đã viết.

Nhưng tôi lại nghĩ, và điều này lại càng làm tôi ngạc nhiên hơn: chẳng lẽ, với bao nhiêu công trình nghiên cứu đó, vẫn cứ có câu hỏi đặt ra, như tuồng vẫn còn hoài nghi về sự có thực của của một dòng thiền đặc biệt Việt Nam? Chẳng lẽ vấn đề cần làm sáng tỏ hơn nữa? Chẳng lẽ lý luận chưa đủ vững chắc? Chẳng lẽ vẫn cần phải nói thêm?

Vì bắt buộc phải trả lời hai câu hỏi nói trên, tôi đánh liều nói thêm, hy vọng không phải là thừa. Tôi nói thêm bằng cách mở một cánh cửa hình như chưa mở: cánh cửa của phương pháp so sánh, so người để biết ta. Tôi muốn so ta với Nhật, vì cả hai cùng có chung một vấn đề: làm thế nào thu nhập thiền từ Trung Hoa đến, làm thế nào chuyển một của báu từ ngoài vào để biến thành của báu của mình? Người Nhật tự hào đã chuyển biến được, và ai cũng đều công nhận có một thiền tông Nhật Bản chẳng giống ai, vậy ta xét trường hợp của họ để so sánh với ta xem sao. Cái gì làm họ đã thành họ, xét cho kỹ, biết đâu ta sẽ thấy ra cái gì đã làm ta thành ta? Vậy, từ đầu, thiền đã nảy mầm ở Nhật như thế nào?

Phật giáo ở Nhật

Thiền vào đất Nhật rất trễ, sau ta 5 thế kỷ, nhưng trước khi Trần Thái Tông viết Khóa Hư Lục vài chục năm, Nhật đã sản sinh ra một thiền sư xuất chúng, một triết gia lỗi lạc bậc nhất trong lịch sử Nhật mà ảnh hưởng vẫn còn sâu đậm trên thiền học thế giới cho đến ngày nay: đó là Đạo Nguyên (Dogen), người đã xây dựng nên thiền tông Nhật. Cùng một thời đại, cùng là những nhà cải cách Phật giáo, cùng là những tư tưởng gia cỡ lớn, cùng bắt tay đặt nền móng cho ngôi nhà thiền, mỗi người trên dải đất của mình, sự so sánh hoàn toàn có thể được giữa thiền học đời Trần và thiền học của Đạo Nguyên để biết đâu là Nhật đâu là ta, đâu là nét đặc thù của Việt Nam, đâu là ảnh hưởng của nét đặc thù đó trên xã hội, trên chính trị, trên quân sự, trên chiến thắng ngoại xâm.

Bởi vậy, tôi bắt đầu với Đạo Nguyên và thiền học của ông. Nhưng để hiểu Đạo Nguyên đã cải cách Phật giáo như thế nào và tại sao, tôi lại phải nói sơ lược về tình hình Phật giáo ở Nhật trước Đạo Nguyên. Trên điểm này, có nhiều chỗ tương đồng thú vị giữa Phật giáo ở ta và Phật giáo ở bạn. Tương đồng thứ nhất là ở chỗ thịnh suy, có thịnh suy mới có cải cách. Tương đồng thứ hai là mối liên hệ giữa mật tông với Phật giáo cung đình, và giữa tịnh độ với Phật giáo quần chúng. Tôi đi vào chi tiết.

Phật giáo được du nhập vào Nhật từ Triều Tiên giữa thế kỷ thứ 6. Như đất khô gặp mưa, triết lý mới, văn hóa mới, tôn giáo mới, ánh sáng mới đó được vua Thái Đức (Shotoku) trọng dụng để xây dựng Nhà nước và củng cố xã hội. Rất thịnh cho đến cuối thế kỷ thứ 8 với kinh đô ở Nara, Phật giáo bắt đầu suy thoái vì một lý do giản dị muôn đời: hễ thịnh thì sinh ra lạm dụng. Chùa chiền xây nhiều quá, kỷ luật tu hành lỏng lẻo quá. Ở ta, cuối đời Lý, tình trạng không khác.

Suy thoái ở Nara, Phật giáo chấn chỉnh lại khi kinh đô được dời từ Nara về Kyôto. Hai tông phái mới phát triển ở kinh đô mới: thiên thai tông và mật tông. Thiên thai thì quá triết lý, cao siêu, mật tông thì quá hình thức, nghi lễ, cầu đảo, cả hai đều thích hợp với tầng lớp quý tộc ở cung đình. Đến cuối thế kỷ 11 thì hầu hết giới tăng lữ ở cấp cao của tông thiên thai đều xuất thân từ quý tộc. Phật giáo ở Kyôto là Phật giáo quý tộc, cung đình.

Suốt hậu bán thế kỷ 12, nước Nhật lâm vào một trận nội chiến khủng khiếp, thậm chí cha con, anh em giết nhau. Từ nội chiến đó, lịch sử nước Nhật bước qua một giai đoạn khác hẳn, vì quyền hành không còn thuộc về vua nữa. mà về tay các samourai. Giai cấp quý tộc nhường chỗ cho giới võ sĩ  trong đó lắm người thất học. Kamakura là thủ phủ của họ, cầm đầu là Tướng Quân (Shogun), trị vì suốt 7 thế kỷ.

Giữa thời đại hỗn loạn đó, đạo Phật vẫn còn giữ được hào nhoáng bề ngoài, nhưng bên trong thì mất nhuệ khí, sáng tạo, không đủ sức để cung cấp cho con người một niềm tin giản dị, dễ nhận, dễ hiểu. Từ đó, xuất hiện ba hình thức Phật giáo mới mà các sách Nhật gọi là mang sắc thái tâm linh đặc biệt Nhật: một là tông Tịnh Độ, hai là Thiền tông và ba là Nhật Liên tông. Phật giáo của kinh đô Kyôto biến thành Phật giáo của tướng phủ Kamakura và thiền tông bắt gặp hưởng ứng nồng nhiệt của Tướng Quân và của giai cấp võ sĩ.

Như vậy, trước Đạo Nguyên, thiền đã du nhập vào đất Nhật, với Eisai (1141-1215). Nhưng Đạo Nguyên vẫn cho rằng đó chưa phải là thiền thực sự, cho nên ông vượt biển sang Trung Hoa của nhà Tống để tìm thầy học đạo. Và ông đã học, đã ngộ, đã trở thành người khai sáng dòng thiền của Nhật.

Đạo Nguyên: Ngồi!

Thầy đầu tiên của Đạo Nguyên là Jou-tsing. Ông học gì trước hết? Tọa thiền. Jou-tsing ngồi thiền cả ngày, cho đến 11 giờ khuya, rồi lại dậy ngồi thiền từ 3 giờ sáng. Chỉ thế thôi. Không dạy gì khác. Đạo Nguyên cũng ngồi như vậy, hết ngày đến đêm, thề chết cũng ngồi, mà nếu chết thì cứ lấy ngồi làm vốn, kiếp sau ngồi nữa. Về sau, ông dạy: giác ngộ là nhờ tọa thiền; ngay cả người không hiểu gì cả, người dốt, người ngu vẫn có thể vượt qua người thông minh, đầy kiến thức, nếu cứ kiên trì tọa thiền, lấy ánh sáng từ định. Bởi vậy, ai muốn học đạo chỉ cần duy nhất tọa thiền, không học gì khác.

Thế có học quán không? Có quán công án? Đạo Nguyên trả lời dứt khoát: "Dù cho ai đó nghĩ rằng mình có hiểu đôi chút công án, điều đó cũng dẫn xa Phật, xa Tổ. Cứ ngồi cho đúng, chẳng cần muốn được gì hay hiểu gì. Cứ ngồi mãi như vậy. Đó là Đạo của Tổ. Các vị tiền bối cũng khuyên kết hợp quán công án với tọa thiền, nhưng các vị ấy khuyên trước hết hãy tọa thiền. Cũng có người ngộ đạo nhờ công án, nhưng điều đó là nhờ công năng duy nhất của thiền tọa. Muốn thành công phải tìm trong tọa thiền" (1). Quả quyết chắc nịch.

Như vậy mà Đạo Nguyên chứng ngộ. Ông chứng ngộ lúc 26 tuổi, trở thành tổ thứ 8 của phái thiền Tào Động. Trở về Nhật, có người hỏi ông đã học được gì ở Trung Hoa, ông nói: học được mắt ngang mũi dọc.

Chân lý của ông cũng chắc nịch như mũi dọc mắt ngang. Chỉ ngồi, chỉ ngồi, chỉ ngồi. Không làm gì. Không tìm gì. Không chờ đợi gì. Nhờ định, tuệ sáng. Như con rồng gặp nước, như con cọp gặp rừng. Thực hành, thực hành, thực hành: tọa thiền với giác ngộ là một.

Giác ngộ đến từ thực hành
Vì vậy giác ngộ là vô biên.
Thực hành đến từ giác ngộ
Vì vậy thực hành không có khởi thủy (2) .

Ông đả kích kịch liệt việc tụng kinh: tụng kinh cũng giống như ễnh ương kêu ngoài ruộng. Ông coi trọng việc giữ giới, nhưng ông quả quyết rằng tọa thiền sâu và đúng thì đương nhiên giới cũng được giữ. Thế người tu thiền có được tu theo pháp môn nào khác không? Không! Nhất quyết không! "Đừng bám vào lời, vào chữ; hãy nhìn vào mình mà quán. Như vậy, thân và tâm tự nhiên biến mất và Phật tính nguyên thủy hiện ra" (3). Buông cả thân lẫn tâm, vất cả thân lẫn tâm vào nhà của Như Lai: đó là lời dạy căn bản của Đạo Nguyên. Ông đã giác ngộ trên khám phá đó.

Thiền của Đạo Nguyên trở thành một tông phái độc lập, vừa thay thế cho Phật giáo cung đình đã biến chất, vừa đối lập với tông phái tịnh độ đang phát triển song song. Khỏi cần nói, Đạo Nguyên đả kích Khổng và Lão. Ông đanh thép, cứng rắn với cả quan niệm thông thường về chữ hiếu. Tôi nói thêm chút ít về điểm này để nhấn mạnh lòng tin tuyệt đối của ông về cách tu thiền thuần túy, khai tuệ nhờ định:

Học trò của ông, Ejô, có mẹ đau, gần chết, muốn thấy mặt con lần cuối. Theo luật của tu viện, mỗi tháng thiền sinh chỉ được phép ra ngoài hai lần, mỗi lần không quá ba ngày. Ejô về nhà thăm mẹ hấp hối là việc gần như tự nhiên, nhưng ông đã hết phép rồi. Ông hỏi ý kiến mọi người và ai cũng đồng ý là ông chỉ cần xin phép là xong: thăm mẹ gần chết là việc trọng đại, khác với các duyên cớ lặt vặt thông thường.

Câu chuyện đến tai Đạo Nguyên. Đạo Nguyên nói: "Chắc chắn Ejô không ra khỏi tu viện, chắc chắn Ejô không đồng ý với các thiền sinh khác". Quả thật vậy. Ejô trả lời bạn bè: "Nguyên tắc của tu viện quan trọng hơn là lời khuyên của tập thể. Nếu tôi làm theo ý mẹ và vì vậy mà vi phạm nguyên tắc của chư Phật, chẳng phải tôi cũng làm trái với đạo hiếu hay sao? Nếu tôi vi phạm nguyên tắc của chư Phật, đó là tội lớn nhất cuối cùng mà mẹ tôi phạm. Người tu hành phải đưa cha mẹ vào con đường giác ngộ. Chẳng lẽ tôi làm mẹ tôi vĩnh viễn sa xuống địa ngục bằng cách buông theo tình cảm mẹ con trong chốc lát? (4)

Đây không phải chỉ là chi tiết. Đạo Nguyên cực kỳ nghiêm minh trong kỷ luật. Từng sự việc cụ thể trong ngày, dù nhỏ đến bao nhiêu, cũng phải làm cho đúng: từ súc miệng, rửa mặt, gội đầu. Ông than phiền về mấy ông sư bên Tàu, không chịu súc miệng, xỉa răng, miệng nói có mùi. Ông viết cả một chương trong sách để nói về rửa mặt. Từng chi tiết đó, ông dạy cho đệ tử với tất cả nghệ thuật, như một đạo diễn tài ba dạy cho diễn viên từng cử động nhỏ của bàn tay. Nói gì việc ngồi thiền! Ông dạy rất kỹ về kỹ thuật ngồi, gian phòng phải như thế nào, ăn uống làm sao, áo quần làm sao, tai phải ngang vai thế nào, mũi phải ngang rốn làm sao... Đâu phải chi tiết! Đâu phải tự nhiên mà thiền được tầng lớp võ sĩ hưởng ứng! Đâu phải tình cờ mà thiền đi vào văn hóa của Nhật! Cho đến ngày nay tiếng nói của Đạo Nguyên vẫn còn thét lên bên tai các thiền sinh ở Mỹ, ở Tây phương: "Ngồi! Ngồi! Just sit!"

Nhưng có thật just sit là đủ để giác ngộ? Nếu chắc chắn Đạo Nguyên nói không sai thì cũng chắc chắn Đạo Nguyên không phải là người chỉ biết ngồi. Ông là triết gia hàng đầu của Nhật, sách ông viết vẫn còn là chữ nghĩa gối đầu giường ở Âu Mỹ, ông thuộc làu kinh kệ, thơ của ông thơm tho trong sử thiền của thế giới, vậy nếu ông bảo vất hết chữ nghĩa thì ai dám làm theo một cách máy móc? Sử thiền ngày nay trách ông đã quá cực đoan, tự cho mình là Phật giáo chính thống, còn tất cả đều trật hướng, kể cả thiền Lâm Tế, nói gì Tịnh Độ. Ông dám chỉ trích, dù chỉ là gián tiếp, cả Lục Tổ Huệ Năng, cho rằng kinh Pháp bảo đàn không phải là của ngài.

Nhưng thế đấy, sử sách xem Đạo Nguyên như đích thực là người khai sáng thiền tông ở Nhật, và phái Tào Động mà ông là Tổ ở Nhật vẫn còn giữ được tính thống nhất cho đến ngày nay như là nhánh chính của cây thiền ở đất Phù Tang.

Vậy nghĩ gì khi so sánh nhà tư tưởng lớn nhất của Nhật và nhà tư tưởng lớn nhất của Việt Nam, Trần Thái Tông, đồng thời với nhau, đồng thời là những nhà cải cách, đồng thời là những Tổ thiền - nếu ta so sánh thêm với Trần Nhân Tông? Đã đành, không thể so sánh tình trạng của thiền tông ở Nhật với thiền tông ở Việt Nam lúc đó, vì thiền được truyền vào Nhật sau Việt Nam đến 5 thế kỷ, và thiền tông đã phát triển rất mạnh, đã có nhiều thiền sư rất lớn ở Việt Nam suốt đời Lý. Thế nhưng, đứng về mặt chứng ngộ, đứng về mặt uyên bác, đứng về mặt cá nhân, ba vị tổ sư thiền đó có thể so sánh với nhau, và qua đó, thấy rõ sắc thái của nhau, ở Nhật và ở ta.

Cái gì là khác biệt căn bản giữa thiền của Đạo Nguyên và thiền của đời Trần? Một điểm thôi, nhưng đó là tinh túy: thiền của Đạo Nguyên cực đoan, thiền của đời Trần không cực đoan.

Trần Thái Tông: Dung thông

Chữ "cực đoan" ở đâykhông bao hàm một phán đoán tốt xấu; vỏn vẹn chỉ là một nhận xét. Nếu ta đọc lại cuộc đời của các thiền sư đời Lý, hầu như ai cũng lấy nhập định làm cách tu hành, nhập định cả ngày cả đêm, không thua gì Đạo Nguyên, có vị ngồi suốt ba ngày mới xuất định, nhưng chẳng ai chủ trương just sit. Đến Trần Thái Tông thì tinh thần dung thông, tránh cực đoan, nổi bật như trăng sáng giữa trời. Mở Khóa Hư Lục, thấy gì đầu tiên? Năm giới. Gì nữa? Niệm Phật. Gì nữa? Sám hối. Dâng hương. Gì nữa? Giảng kinh. Ngồi thiền không loại bỏ niệm Phật, học kinh, và gì nữa? Nhận ra Di Đà! "Nên biết mạng người khó thường, chớ để thời này qua rỗng. Nhìn thấy Tịnh Độ trước mắt, nhận ra trong tâm Di Đà".

Đường lối tu thiền đời Trần, bắt đầu từ Trần Thái Tông, là như thế: thiền, giáo, tịnh, không loại bỏ ai. Thú thật, tôi tụng kinh Di Đà nhiều lần mà chỉ hiểu được tướng lưỡi dài rộng của Phật sau khi đọc Khóa Hư Lục. Trong mười hai nguyện đọc khi dâng hương đầu hôm, nguyện thứ chín là "chín nguyện lưỡi dài cùng Phật phủ". Tại sao lưỡi Phật lại dài rộng phủ cả mặt? Là vì trong ba đời, Phật chưa hề nói dối! Khuyên chúng ta đừng nói dối, Trần Thái Tông trích kinh Di Đà! Hèn gì lưỡi tôi ngắn ngủn!

Mà Trần Thái Tông cũng không loại bỏ Khổng với Lão. Khổng Tử, Lão Tử xuất hiện nhiều lần trong Khóa Hư Lục, với tất cả thành kính của Vua. "Sách Nho dạy: "Thi ân bố đức". Kinh Đạo dạy: "Ái vật háo sanh". Ấy là Vua trích Khổng Lão để dạy giới cấm sát sanh trong đạo Phật. Vua còn khen Tử Cơ, Nhan Hồi ngồi yên cả ngày "thân như cây khô", "tay chân rời rã": Tử Cơ tu tiên, Nhan Hồi là học trò cưng của Khổng. Dung thông thiền, giáo, tịnh, Trần Thái Tông còn dung thông cả Khổng với Lão, không cực đoan với ai. Sách vở đã nói nhiều về điểm này, tôi không cần phải nói thêm. Chỉ xin đặt một câu hỏi: như vậy phải chăng thiền của Trần Thái Tông là một thứ cháo hổ lốn? Một tả pí lù?

Đâu phải! Đặt câu hỏi một cách vô lễ như vậy cốt để biết rằng thiền của đời Trần cao vòi vọi mà lại đặc biệt Việt Nam. Trần Thái Tông dung thông tất cả dưới ánh sáng của thiền. Tu Tịnh Độ? Rất hay, nhưng phải tu thế nào cho đúng nghĩa, đúng phép. Niệm Di Đà? Rất hay, nhưng ý nghĩa của niệm Di Đà là gì. Niệm Phật? Rất hay, nhưng Phật ở đâu? Dưới ánh sáng của thiền, Trần Thái Tông cắt nghĩa: Phật ở trong tâm, "phản chiếu hồi quang", xoay ánh sáng trở về chiếu soi lại mình, thấy tánh giác của mình nơi mình là thấy Phật.

Tôi khó lòng không trở lại với Đạo Nguyên để so sánh. Trước khi đi qua Trung Hoa để học thiền, Đạo Nguyên đã đọc rất nhiều kinh sách, và câu hỏi mà ông cho là căn bản, khiến ông trăn trở hoài không yên là một câu hỏi triết lý: "Kinh sách nói ai cũng có Phật tánh, vậy tại sao chư Phật còn phải tu hành gian khổ để tìm giác ngộ?". Nếu Phật tánh đã có, tại sao phải tìm? Còn nếu Phật tánh phải tu mới thấy, tại sao nói chỗ nào cũng có tánh Phật? Đạo Nguyên lang thang từ ông thầy này đến ông thầy khác cũng để trả lời câu hỏi đó. Nhưng câu hỏi ấy có khác gì câu của ông tăng hỏi Trần Thái Tông trong Khóa Hư Lục :

Người người vốn tự người ngưòi đủ
Mỗi mỗi xưa nay mỗi mỗi tròn.
Vì sao Thế Tôn vào núi tu hành?
Vua đáp:
Kiếm vì bất bình mở hộp báu
Thuốc do trị bệnh ra khỏi bình.

Tánh giác ai cũng đủ, ai cũng đầy, vào núi tu hành chi nữa? Câu trả lời của Trần Thái Tông đúng là câu trả lời của ông vua thắng giặc Nguyên. Trong hộp lúc nào cũng nằm sẵn thanh kiếm báu, nhưng vì bất bình, vì để cứu dân, trừ loạn, nên kiếm phải ra khỏi hộp. Thuốc hay vẫn nằm sẵn trong bình vàng, nhưng vì để trị bệnh nên thuốc phải ra. Vì lợi ích của chúng sinh, vì bệnh của chúng sinh, Thế Tôn phải đi tu.

Nhưng tu có phải để đi tìm tánh giác không? Cũng không! Đạo Nguyên dạy: cứ ngồi, đừng làm gì cả, đừng tìm gì, tìm là hỏng, vướng vào cái chuyện tìm, dính mắc chuyện chứng đắc là tâm dính bụi, là kẹt. Trần Thái Tông cũng dạy như vậy, bằng thơ:
Nước chảy xuống non đâu có ý
Mây bay qua núi vốn không tâm.

Cả hai cùng tu một pháp, cùng vào một cửa, cùng ngộ như nhau, nhưng khi truyền đạt, giáo huấn, dạy dỗ, áp dụng, một bên thì cực đoan, một bên thì diệu dụng. Tại sao? Tại vì một bên chỉ là ông thiền sư, bên kia ông thiền sư còn là ông vua! Ông thiền sư chỉ có vài trăm đệ tử, ông vua có cả một nước! Cả triệu dân! Trị nước mà cực đoan thì hỏng. Huống hồ trị một nước nhỏ phải đối phó với xâm lăng như mối họa truyền kiếp. Đố ai tìm được một mưu chước nào khác để giữ nước ngoài quốc sách đoàn kết toàn dân.

Và như vậy, tôi đã bước qua câu hỏi thứ hai: phải chăng dòng thiền Yên Tử đã giúp Việt Nam đánh bại xâm lăng?

Thiền đời Trần và chiến thắng xâm lăng

1. Đoàn kết quốc gia. Thử ngẫm mà xem: có đoàn kết nào bền chặt hơn đoàn kết tư tưởng? Rồi ngẫm mà xem đời Trần: vua Phật tử, vua thiền sư, vua tư tưởng gia, vậy mà Trần Thái Tông sùng kính Khổng Lão trong chính tư tưởng, chứ không phải chỉ dùng Khổng Mạnh như một dụng cụ chính trị. Khóa Hư Lục tôn trọng đến thế này: nếu liễu ngộ thì tam giáo đều giống nhau, bởi vì chỉ cần xoay lại ánh sáng rọi vào mình thì tánh giác ở ai cũng giống nhau. "Người chưa rõ dối chia tam giáo, liễu được rồi đồng ngộ nhất tâm. Nếu hay phản chiếu hồi quan, đều được kiến tánh thành Phật".

Hòa thượng Thanh Từ giảng giải: "Dầu người tu theo Khổng giáo cũng có Phật, người tu theo Lão giáo cũng có Phật, và chúng ta tu theo Phật cũng có Phật. Ai cũng có Phật thì đều giống nhau. Không thể ông Phật này khác ông Phật kia được" (5). Thưa Hòa thượng, không phải ở đâu cũng được thế đâu. Trên thế giới hiện nay, ông thượng đế của tôi không phải là ông thượng đế của anh và chiến tranh hiện nay là chiến tranh giữa các ông thượng đế.

Đời Trần để lại một gia bảo vô song cho văn hóa Việt Nam: "lấy thiền tông làm chỗ tựa để dung hợp Khổng Lão vào một nhà", như Hòa thượng Thanh Từ đã viết.Triết lý đoàn kết, nhưng không phải là triết lý ba phải. Từ lâu, ai cũng nói: tam giáo đồng nguyên là nền tảng của văn hóa Việt Nam. Đúng. Nhưng đừng quên: tam giáo đồng nguyên ở thời Lê không phải như vậy. Thời Lê đã để mất cái đặc sắc nhất của tinh hoa Việt Nam, nét độc đáo nhất, độc lập nhất của tư tưởng Việt Nam: lấy thiền tông làm chỗ tựa để dung hợp. Bất cứ dung hợp nào cũng phải có chỗ tựa, và nếu chỗ tựa đó là vay mượn thì văn hóa đó cũng chỉ là vay mượn mà thôi.

Thiền đời Trần là nét văn hóa độc đáo Việt Nam chính là vì vậy: vì dung hợp mà có chỗ tựa. Thiền của Đạo Nguyên, của Nhật Bản, không như vậy. Thiền đời Trần là thiền Việt Nam, tư tưởng của Việt Nam. Việt Nam cần đoàn kết để chống xâm lăng trước mắt; ông vua là tư tưởng gia; dung hợp là quốc sách; thực tế ấy đi vào tư tưởng thiền của ông vua; thiền ấy kết tinh thực tiễn Việt Nam; ấy là thiền Việt Nam, đặc biệt Việt Nam.

Đoàn kết tư tưởng lại còn được thực hiện trong chính tư tưởng Phật giáo, giữa thiền và tịnh. Từ trong bản chất, thiền đòi hỏi một khả năng trí tuệ mà không phải ai cũng có, trong khi đại đa số quần chúng đến với Phật giáo nhiều hơn vì lòng tin, nhất là tin ở họa phúc và ở vãng sanh tịnh độ. Là thiền sư, Trần Thái Tông trọng thiền. Nhưng là ông vua, ông thừa hiểu lòng dạ của quần chúng. Kết hợp cả hai thiền và tịnh mà không để mất tinh túy của thiền, đó là Phật giáo của mọi giai tầng xã hội, từ bậc thượng trí đến bậc hạ trí mà Thái Tông xem như căn bản. Ông dạy: "Bậc hạ trí thì miệng siêng niệm lời Phật, tâm muốn thấy tướng Phật, thân nguyện sanh về nước Phật".

Rất thực tiễn, ông giải thích: "Như muốn niệm Phật, tức lấy bậc hạ trí làm trước. Tại sao? Vì có chú ý vậy". Có khác gì ngồi thiền? Mà ngồi thiền có khác gì "nhất tâm bất loạn" trong kinh Di Đà? Tu như vậy, đúng như ông quả quyết: không phân biệt xuất gia tại gia, người tăng kẻ tục, nam hay nữ, ai tu cũng được. Phật giáo của quảng đại quần chúng được nâng cấp để kết hợp làm một với Phật giáo của giới ưu tú, uyên bác. Sau này, vua Trần Nhân Tông, sơ tổ của thiền Trúc Lâm, vân du nhiều nơi trong nước để khuyên dân tu trì ngũ giới và làm mười điều thiện. Bởi vì Vua biết: tu thiền không phải ai cũng tu được, khó như "trúc hóa nên rồng" (6) 
.
Ngược lại, trì ngũ giới và hành thập thiện thì toàn dân ai cũng tu được cả, Phật giáo không bị kẹt trong một thế khu biệt chuyên môn nào. Đó là, nói như Hòa thượng Thanh Từ, Phật giáo được quần chúng hóa, thiền tông được quần chúng hóa, ta ở giữa bụi đời mà vẫn "cư trần lạc đạo"(7). Ông thiền sư ở Nhật thấy một mặt; ông vua thiền ở Việt Nam thấy cả hai. Ông thiền sư ở Nhật chỉ thấy trên cao; ông vua thiền Việt Nam thấy cả cao lẫn thấp. Cho nên Phật giáo đời Trần vừa rộng vừa sâu, rộng ở nền móng, sâu ở thượng đỉnh, dưới trên đều cùng một tư tưởng thông suốt.

Muốn biết hệ tư tưởng đó sâu rộng thế nào, thắt chặt đoàn kết đến đâu, chỉ cần đọc mấy câu của nho gia Lê Quát: "Nhà Phật lấy họa phúc để cảm động lòng người sao mà được người tin theo sâu bền như thế! Trên từ vương công, dưới đến dân thường, hễ bố thí vào việc nhà Phật dù đến hết tiền của cũng không sẻn tiếc... Cho nên trong tự kinh thành, ngoài đến châu phủ, cho đến thôn cùng ngõ hẻm, không phải ra lệnh mà tuân theo, không bắt phải thề mà giữ đúng" (8). Đố bất cứ thời nào và bất cứ nước nào, Nhà nước không ra lệnh mà dân vẫn tuân theo, và tự ý tuân theo, cho đến tận thôn cùng ngõ hẻm. Điều lạ lùng ấy, nhấn mạnh bao nhiêu vẫn thấy thần kỳ, đố luật pháp trên thế gian này chỗ nào có. Có sức mạnh nào bền chặt hơn để chống xâm lăng?

2. Lãnh đạo tài ba. Đó là nói về yếu tố thắng lợi thứ nhất: đoàn kết dân tộc. Yếu tố thắng lợi thứ hai là lãnh đạo tài ba. Tôi không nói ở đây tài ba lãnh đạo của các vua Trần về chính trị và quân sự. Tôi chỉ nói về lãnh đạo trong tư tưởng. Bất cứ ở đâu và bất cứ thời nào, không Nhà nước nào cai trị mà không dựa trên một hệ ý thức. Vấn đề là hệ ý thức đó phục vụ ai và có được chấp nhận không. Nho thần Lê Quát đã trả lời câu hỏi này. Còn lại phải xét là: hệ tư tưởng đó đã ảnh hưởng lên thế nào trên tài ba lãnh đạo của các vua Trần của ta.

Về điểm này, tôi lại đem Nhật ra để so sánh. Giống ta, Nhật cũng bị Mông Cổ uy hiếp. Năm 1274, Hốt Tất Liệt huy động chiến thuyền để xâm lăng; may cho Nhật, trời xấu, biển động, chưa đánh, tàu thuyền của Mông Cổ đã bị đắm. Biết là Mông Cổ sẽ không tha, Tướng Quân Tokimune bắt chước cha (Tokyiuri) rèn luyện tính khí của mình và tính khí của tả hữu bằng cách học thiền thực sự.

Trong thời gian đó, nhiều thiền sư Trung Hoa đã qua lánh nạn tại Nhật khi nhà Tống bị Mông chinh phục, và chính Tokimune cũng có một thiền sư như vậy là thầy. Một chi tiết nhỏ cho vui: các ông thiền sư đó không biết nói tiếng Nhật nên phải nhờ thông dịch viên; khi ngồi thiền, thay vì quất thiền trượng vào lưng ông tướng, sư phụ quất nhẹ nhẹ vào lưng... thông dịch viên! Chuyện đáng nói hơn là tầng lớp võ sĩ đặc biệt thích thiền vì hợp với tính kỷ luật, tính thực tiễn, tính đơn giản, phi trí thức, chuộng hành động của họ. Đặc biệt hơn, có lẽ chỉ thấy ở đất Nhật, thiền lại còn đáp ứng được bổn phận trung thành đối với chủ, dù chết cũng không từ. Về phía các ông thiền sư Trung Hoa, vì ngôn ngữ không thông, các ông giản dị hóa thiền để dễ thích hợp hơn nữa với giới võ biền mà đa số kém chữ nghĩa.

Năm 1281, Mông Cổ cất đại quân đánh Nhật, mười vạn binh Nhật đang cầm cự thì một trận thần phong nổi lên đánh đắm cả hạm đội Mông Cổ. Thiền đã đóng góp đến mức nào vào thắng trận, đó là chuyện có thể bàn luận, nhưng không ai có thể chối cãi lòng can đảm của Tokimune và quân đội của ông, phát xuất từ luyện tập kỷ luật sắt đá dưới ảnh hưởng của thiền. Chính ông tướng này tuyên dương thiền bằng cách ra lệnh xây một ngôi chùa ở Kamakura để kỷ niệm thắng trận (9).

Bởi vậy, nói đến thiền ở Nhật là phải nói đến mối liên hệ với giai tầng võ sĩ. Ngôn ngữ thiền đặc biệt hợp với tai họ: "không làm không ăn"; "mỗi ngày đều là ngày tốt"; "đạo là tâm hàng ngày"; sống là dạy"; "đi đứng nằm ngồi đều là đạo" ... tất cả đều thể hiện lý tưởng của họ. Thiền dạy họ nghe tiếng nói trong im lặng, tìm thấy hành động trong bất động, di chuyển trong bất di, khuấy động trong hòa bình, không sợ trước cái chết: tất cả đã tạo thành đạo của họ, võ sĩ đạo. Các tác giả Nhật cho rằng chính mối liên hệ đó đã tạo thành sắc thái đặc biệt của thiền Nhật Bản, khác với thiền Trung Hoa, khác với thiền Ấn Độ (10).

Ta không có giai cấp võ sĩ, nhưng hãy tưởng tượng quân đội thiện chiến đời Trần, luôn luôn tự đặt trong tinh thần sẵn sàng chiến đấu vì bị đe dọa ba lần, mà lần nào cũng đại chiến, lại đặt dưới sự chỉ huy của các tướng lĩnh được luyện tập trong khí thế thiền, chẳng lẽ thiền chỉ có ảnh hưởng trên quân đội Nhật Bản hay sao? Chẳng lẽ quân đội ta không được thừa hưởng về tính kỷ luật? Về lòng can đảm, gan dạ?

Cái gì khiến Trần Hưng Đạo tin chắc ở thắng trận ngay lúc đầu, khi thế giặc đang mạnh như chẻ tre, cái gì khiến ông quả quyết: "Nếu Bệ Hạ muốn hàng, hãy chặt đầu thần trước đã"? Cái gì làm ông quả quyết chắc nịch lần thứ hai, khi quân Nguyên lại chuẩn bị xâm lăng năm 1287: "Năm nay giặc đến dễ đánh"? (11) Ông tin ở gan dạ của quân đội, ông tin ở khí thế của các tướng, ông tin ở ông, và trên hết, ông tin ở tài lãnh đạo. Tài của ông và tài của Vua. Bởi vì vua này là vua thiền. Các tác giả Nhật cho rằng trong thiền ngấm ngầm một sức mạnh vô song do sự tin tưởng rằng con người có đủ khả năng để tự mình thấy được tánh giác. Nơi người lãnh đạo, sức mạnh đó đem lại bình tỉnh, ung dung, khi chỉ huy ở giữa gian nguy vẫn bình yên, sáng suốt.

Hãy đọc lại sử sách để xem Trần Nhân Tông ung dung như thế nào giữa trận mạc, có khi bị giặc đuổi trên sông nước, vẫn bình yên lấy gươm khắc thơ lạc quan vào mạn thuyền. Vua như thế, tướng như thế, làm sao quân không như thế? Lấy một chọi mười là chuyện thường nghe trong chiến trận ngày xưa và cả ngày nay.

Hơn ai hết, ông vua thiền của chúng ta đã đưa vào trận mạc, vào chính sự, vào đời sống, vào hành động, tính không khiếp sợ của triết lý có/không trong Bát Nhã, kinh ruột của thiền tông. "Bồ tát nương trí tuệ bát nhã nên tâm không ngăn ngại; vì tâm không ngăn ngại nên không sợ hãi..." Có gì mà sợ hãi khi đã thâm nhập triết lý có/không, vượt lên trên cả không lẫn có?

Câu có câu không
Đau đáu lo sợ
Cắt đứt sắn bìm
Đó đây vui thích (12)

Trong hành động, vượt lên trên có/không còn bao hàm một ý nghĩa tích cực cùng tột:

Có thì có tự mảy may
Không thì cả thế gian này cũng không

Cho nên khi Nhân Tông nói "không" thì ngài lên Yên Tử. Mà khi ngài nói "có" thì đích thân ngài lãnh đạo chống xâm lăng.

Mà đã nói "có" thì tam thiên đại thiên thế giới đều nằm gọn trên một mũi kim, như thiền tông nói. Vua, tướng, quân, dân cùng nói "có" với nhau trong tiếng "có" phi thường của người lãnh đạo, có đoàn kết nào vững hơn, có lãnh đạo nào chắc hơn? Nhân Tông không cần cho xây chùa như Tokimune để kỷ niệm chiến thắng. Bởi vì, đơn giản quá:

Bụt ở trong nhà
Chẳng phải tìm xa

Bụt ở nơi ngài. Lịch sử gọi ngài là vua Phật, là Phật Hoàng. Vua Phật lãnh đạo cuộc chiến chống xâm lăng, làm sao tách rời đâu là vua, đâu là Phật trong mỗi hành động của ngài? Ở Nhật có tinh thần samourai trong cuộc chiến, nhưng ở Việt Nam có cả một ông vua Phật và cả một hàng ngũ tướng lĩnh thấm nhuần thiền: cứ đem so sánh, ảnh hưởng của thiền ai nhiều hơn ai trong chiến thắng?

Cho nên, Phật giáo Việt Nam ở đời Trần là một hiện tượng kỳ lạ, độc đáo: không ở đâu khác, một ông vua vừa là tướng cầm quân, vừa là thiền tổ. Nơi ông vua ấy, kết tinh một tư tưởng, vừa là cơ sở lý thuyết, vừa là nền tảng giáo dục, lại vừa là thực tiễn hành động. Đó là một đạo Phật đặc biệt Việt Nam.

°°°

Tôi đã trả lời hai câu hỏi nêu lên ở đầu bài này. Trả lời của tôi chỉ xác nhận lại những gì mà các vị trước đã viết, chỉ khác ở chỗ tôi nhìn vấn đề dưới một góc cạnh khác. Bây giờ, trước khi kết thúc, tôi phải trả lời một chất vấn mà chắc có người sẽ đặt ra, cũng dưới khía cạnh so sánh: nếu nói thiền đời Trần dung hợp Khổng, Lão và Tịnh Độ, thì thiền ở Nhật sau Đạo Nguyên cũng vậy, có khác gì nhau?

Quả thật vậy, sau Đạo Nguyên, thiền ở Nhật bắt buộc phải kết hợp với tịnh và đó cũng là đề tài lớn của các vị thiền sư lớn. Người kết hợp giỏi nhất để thích ứng hài hòa nhất với thời đại mới của thế kỷ 18 là Bạch Ẩn Tuệ Hạc (Hakuin, 1685-1769). Thế nhưng, nhiều diễn tiến đã xảy ra khiến thiền ở Nhật đặc biệt ở điểm khác, không phải chỉ ở mối tương giao giữa thiền và tịnh.

Trước hết, ở Nhật không phải chỉ có hai tông thiền và tịnh, mà còn xuất hiện rất sớm, ngay từ thế kỷ 13, một tông thứ ba, phát triển không kém, là Nhật Liên tông mà ở ta không có. Chưa kể thần đạo, vẫn được xem như tôn giáo của dân Nhật.

Thứ hai, cũng rất sớm, thiền ở Nhật mất dần chất tôn giáo để phát triển thành chất văn hóa đi sâu vào đời sống của người Nhật. Chỉ sinh sau khi Đạo Nguyên mất 23 năm, thiền sư Muso (1275-1351) đã đưa thiền vào nghệ thuật vườn. Từ đó, thiền đầu thai vào kiếm đạo, cung đạo, trà đạo, hoa đạo, võ thuật đạo, thư pháp, thâm nhập vào tận nhà ốc, khuê phòng, vào mọi chi tiết của nghệ thuật, tạo thành một văn hóa đặc biệt, có bản sắc riêng mà thế giới đều biết. Ta thán phục bản sắc đó, nhưng chắc có lẽ cũng nên để ý một nhận xét của chính Muso - một nhận xét từ nội bộ: các sư đã trở thành "những cư sĩ xuống tóc", nhập cửa thiền để vẽ và để làm thơ! (13)

Còn thiền của ta thì sao? Thiền ở Nhật phát triển thành văn hóa thiền, còn ở ta đâu rồi cái chất trí tuệ vạm vỡ của dòng thiền Yên Tử? Trong tình trạng Phật giáo phát triển bề rộng mà thiếu chiều sâu hiện nay, những cố gắng để làm sống lại tinh túy Yên Tử của Hòa thượng Thanh Từ phải được mọi Phật tử xem như cố gắng của chính mình. Và không phải chỉ riêng Phật tử! Bất cứ người Việt Nm nào hãnh diện về lịch sử của nước mình đều muốn nước mình có một triều đại rực rỡ như thế, nhất là trong tình trạng xâm lấn hiện nay. Triều đại rực rỡ đó đã được xây dựng trên một văn hóa rực rỡ. Rực rỡ và độc lập.



_____________________

• Cao Huy Thuần
Nguồn: tuanvietnam.net

Chú thích:
1. Masumi Shibata, Les maîtres du Zen au Japon, Robert Laffont, 1974, tr. 41.
2. Như trên, tr. 47.
3. Thomas Hoover, L'Expérience Zen, Albin Michel, 1989, tr. 228.
4. Shibata, tr. 64-65.
5. Thích Thanh Từ, Khóa Hư Lục giảng giải, NXB Tổng Hợp, TPHCM, 2008, tr. 249.
6. Trong "Đắc thú lâm tuyền thành đạo". Xem Lê Mạnh Thát, Toàn Tập Trần Nhân Tông, NWB Thành Phố HCM, 2000, tr. 260-261.
7. Thích Thanh Từ, trong Thiền học đời Trần (nhiều tác giả), NXB Tôn Giáo,2003, tr. 56.
8. Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, tập 2, NXB Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 1985, tr. 161.
9. Thomas Hoover, sđd, tr.239.
10. Junjiro Takakusu, Buddhism as philosophy of "thusness", Philosophy-East and West (ed. by Charles A. Moore), Freeport, New York, 1970, tr. 106.
11. Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, tr. 59.
12. Thích Thanh Từ, Tam tổ Trúc Lâm, NXB Tổng Hợp TPHCM, 2008, tr. 114.
13. Thomas Hoover, sđd., tr. 241.

THAY TƯỢNG TRƯỚC 1975 ‘LÀ ĐỂ XÓA KÝ ỨC SÀI GÒN’?.

Một họa sĩ kỳ cựu nói với BBC rằng việc TP HCM dự định tu sửa, thay tượng Trần Hưng Đạo cũng như các tượng khác được dựng trước 1975 “là để xóa ký ức Sài Gòn”.


Dư luận hôm 19/2 tiếp tục xôn xao chuyện chiếc lư hương dưới chân tượng Trần Hưng Đạo bị cẩu và việc TP HCM loan báo sắp tu sửa tượng Trần Hưng Đạo và tượng Thánh Gióng.

 

“Hai tượng đài này được xây dựng từ trước năm 1975 bằng bê tông cốt thép là chất liệu không bền vững, đến nay đã xuống cấp, Sở Văn hóa và Thể thao TP HCM kiến nghị Ủy ban Nhân dân thành phố tu sửa, tôn tạo và đã được chấp thuận,” báo Tuổi Trẻ viết.Hôm 19/2, từ Sài Gòn, họa sĩ Đỗ Duy Ngọc nói với BBC: “Theo như tôi hiểu, trong tương lai, các tượng đài có từ 1975 sẽ lần lượt bị hạ bệ bởi một vài lý do bâng quơ hay vì các dự án nào đó. Dường như người ta đang muốn xóa ký ức Sài Gòn. Có thể người dân Sài Gòn đang bị đánh cắp ký ức nhưng họ mãi mãi sẽ không quên một thời tuy ngắn ngủi trong lịch sử của mảnh đất này.”

 

BBC: Ông đánh giá thế nào về chất lượng mỹ thuật và tạo hình tượng trước và sau 1975 ở Sài Gòn?


Họa sĩ Đỗ Duy Ngọc: Thật ra những tượng đài trước 1975 cũng chưa đạt đến trình độ mỹ thuật cao, nhưng đó chỉ là những tượng các anh hùng gắn với các binh chủng quân đội Việt Nam Cộng Hòa. Tuy nhiên so với các tượng đài xơ cứng, phản mỹ thuật và nặng tuyên truyền bạo lực và căm thù sau 1975 thì các tượng trước 1975 mang tính nhân văn hơn nhiều.

 

Sau 1975, người ta thấy gần như tượng nào cũng giương súng chĩa vào người xem. Tượng nào cũng căm thù và dạy giết người. Chỉ có một khuôn. Ngay tượng của ông Hồ Chí Minh tạo dáng không khác gì tượng của ông Mao Trạch Đông và ông Kim Nhật Thành.

 

Tôi có cảm tượng bây giờ người ta xây tượng đài cũng như xây chùa vậy. Tất cả chỉ vì đồng tiền thôi. Toàn kinh doanh cả. Một hợp đồng xây di tích hay tượng đài đều là những văn bản ăn chia. Chỉ cần có tiền bỏ túi, còn hậu quả thế nào hậu xét. Có cáo buộc các chùa mới được xây dựng là do doanh nghiệp cấu kết với quan chức để thu lợi. Người ta dẫn cả một đám dân cuồng tín, u mê, mê muội vào một thứ đạo lạ đời để dễ bề cai trị.

 

Điều đáng nói nhất là những tượng đài xây sau 1975 trên khắp cả nước không chỉ thiếu tính mỹ thuật mà còn thiếu hẳn nhân văn và nhân đạo. Đó chỉ là những minh hoạ thô thiển kể cả ăn cắp hay bê nguyên ý tưởng của Trung Quốc, Nga một cách vụng về. Những tượng đó vô hồn, không gợi chút cảm xúc nào cho người chiêm bái.

 

BBC: Ông có lo ngại chỗ đặt tượng Trần Hưng Đạo rồi đây sẽ bị thay thế bằng tượng khác?


Họa sĩ Đỗ Duy Ngọc: Tôi nghĩ chính quyền chưa đến nỗi để hạ tượng Trần Hưng Đạo. Nhưng tượng các danh nhân khác thì có thể. Họ nghĩ bởi ngày xưa mỗi binh chủng của quân đội Việt Nam Cộng Hòa đều gắn với một vị tướng trong lịch sử. Nhưng họ quên rằng đó là danh tướng của cả dân tộc, đất nước. Tuy thắng trong chiến tranh, nhưng dường như người Cộng sản vẫn biết rằng khó lấy được lòng dân vì nhiều lí do và họ sợ hãi quá khứ sẽ âm ỉ và lớn mãi trong lòng dân. Do thế họ muốn xoá ký ức Sài Gòn. Nhưng đó là một việc bất khả thi.

 

BBC: Trong số các tượng trước 75 bị thay thế hoặc dẹp bỏ ở Sài Gòn, ông tiếc nhất là tượng nào? Vì sao?


Họa sĩ Đỗ Duy Ngọc: Tượng Petrus Ký. Ông là người trí tuệ thông thái, là bác học lớn của miền Nam. Có vẻ như giới lãnh đạo hôm nay trong lòng vẫn nghi kỵ và nơm nớp lo sợ người miền Nam. Việt Nam dù thống nhất đã 44 năm, nhưng đất nước thực sự vẫn cắt chia vì hai miền không phù hợp với nhau về lối sống, tư duy, quan niệm.

 

Ngoài chuyện tượng đài, theo như tôi biết, sách viết về ông Petrus Ký đã in xong nhưng bị cấm phát hành. Người ta vẫn sợ những danh nhân sẽ làm lu mờ những lãnh tụ khác.

 

BBC: Có tranh luận trên mạng xã hội rằng tượng đài có nhất thiết phải kèm lư hương? Ý kiến của ông về chuyện này?


Họa sĩ Đỗ Duy Ngọc: Đã đặt tượng thì phải có lư để người ta đến thắp nén nhang tưởng niệm chứ. Ngay tượng ông Hồ Chí Minh chỗ nào cũng có lư hương mà.

 

Khi dựng tượng Trần Hưng Đạo, người ta đã dựng kèm một lư hương, và lư hương này đã có mặt ở đó từ thập niên 1960. Vậy sao sau 1975, nếu muốn mang lư hương về đền thờ cho phù hợp, chính quyền không di dời ngay, lại chờ cho đến ngày có người muốn thắp nén nhang tưởng niệm ngày 17/2 mới cuống cuồng lo sợ dời đi với những lời thanh minh chẳng ai thuận nhĩ?

__________________


Ben Ngô
BBC Tiếng Việt 

__________________

 

ĐÃ ĐẾN LÚC PHẢI TU SỬA TƯỢNG ĐÀI TRẦN HƯNG ĐẠO TẠI Q.1, TP.HCM


Trải qua hơn 50 năm tồn tại, bức tượng vị tướng kiệt xuất trong lịch sử Việt Nam đã có những dấu hiệu xuống cấp. Điều này đặt ra yêu cầu thành phố cần phải tu sửa kịp thời, tránh trường hợp hư hại như tượng vị tướng Trần Nguyên Hãn trước đó.


Tượng đài Đức thánh Trần Hưng Đạo nằm tại công trường Mê Linh, quận 1, TP.HCM. Đây là đầu mối giao thông tại khu vực "lõi" của trung tâm thành phố, nơi tập trung những khách sạn, văn phòng các công ty lớn.


Tượng đài Trần Hưng Đạo cao 4m, đặt trên bệ cao 12m, ốp đá màu nâu, 3 mặt đế tượng có 6 mảng phù điêu diễn tả các trận đánh tiêu diệt giặc ngoại xâm. Tượng có dáng đứng uy nghiêm, thể hiện Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn đang chỉ tay về hướng Sông Sài Gòn.


Sở Văn hóa và Thể thao TP.HCM cho biết, bức tượng được đúc bằng bê-tông cốt thép - là chất liệu không bền vững. Tượng được thiết kế và hoàn thành năm 1967 - cùng thời với những tượng đài khác như "Phù Đổng Thiên Vương (ngã 6 - dựng năm 1966), Trần Nguyên Hãn (vòng xoay Quách Thị Trang, dựng năm 1965)...


Thực tế ghi nhận cho thấy hiện nay tượng đã xuống cấp, bị rêu mốc bám nhiều nơi, một số chỗ bắt đầu bong tróc. Mặc dù tượng đài có quá trình lịch sử hình thành gắn bó với người dân thành phố nhưng chưa được xếp hạng di tích nên Sở Văn hóa - Thể thao không quản lý - vì vậy cuối tháng 10/2018 Sở đã có văn bản báo cáo thành phố và xin ý kiến chỉ đạo về việc tu sửa.


Đến giữa tháng 1/2019 UBND TP đã đồng ý với đề xuất này và giao UBND quận 1 thực hiện. Ngoài ra thành phố cũng giao các quận, huyện khác kiểm định vào tôn tạo các tượng đài khác trên địa bàn.


Trước đó, vào trưa ngày 27/7/2013, phần "chân phải" của tượng đài Trần Nguyên Hãn bất ngờ gãy rời và rơi xuống phía dưới. Khi đó nhiều người đã bày tỏ lo ngại những miếng bê-tông cốt thép sẽ tiếp tục rơi ở nơi thường xuyên có đông khách du lịch. Cuối năm 2014 bức tượng này được di dời để xây dựng nhà ga trung tâm của hệ thống metro.


Hai trong sáu miếng phù điêu ốp quanh 3 mặt của tượng đài.


Vào thời Pháp thuộc, vị trí này từng đặt tượng Rigault de Genouilly, tên của Đô đốc thủy quân người Pháp từng là Thống đốc Nam Kỳ. Năm 1962 chính quyền VNCH đã thay thế bằng tượng Hai Bà Trưng. Tuy nhiên, sau khi chính quyền Ngô Đình Diệm sụp đổ, một số người cho rằng tượng có nét giống mẹ con bà Trần Lệ Xuân nên đã kéo tới giật đổ. Đến năm 1967 tượng Đức thánh Trần Hưng Đạo được thiết kế và dựng thay thế.


Trước thắc mắc của nhiều người khi lư hương trước tượng đài bị dời đi, ngày 18/2 bà Trần Kim Yến – Bí thư quận ủy Quận 1 cho biết, có thể một số người cho rằng việc này nhạy cảm nhưng quận nhận định là bình thường, và việc thắp hương nên để ở đền, chùa sẽ thích hợp hơn.


Vì vậy theo bà Yến, việc thờ cúng, dâng hương, theo chủ trương sẽ được chuyển về đền thờ Đức Thánh Trần (đường Võ Thị Sáu, phường Tân Định, quận 1). Bà cho hay việc di chuyển đã hoàn thành, dự kiến ngày 16 tháng Giêng sẽ đặt vào đúng vị trí.


Tấm bảng báo thi công đặt dưới chân tượng đài.


Vị trí đặt tượng đài (vòng tròn đỏ). Ảnh: Google Maps

____________

Phong Vũ

Nguồn: infonet.vn

____________

 

DỜI LƯ HƯƠNG DƯỚI CHÂN TƯỢNG ĐÀI TRẦN HƯNG ĐẠO VỀ ĐÚNG VỊ TRÍ THỜ PHỤNG

 

Ngày 18/2, UBND Quận 1 (Thành phố Hồ Chí Minh) cho biết: Việc di dời lư hương dưới chân tượng đài Đức thánh Trần Hưng Đạo đã được thực hiện ngày 17/2. Kế hoạch tôn tạo, sữa chữa tượng đài đã được chính quyền quận và Sở Văn hóa và Thể thao thành phố lập ra từ trước và nằm trong chương trình chỉnh trang đô thị trên địa bàn quận sau Tết Nguyên đán.

 

Theo lãnh đạo UBND Quận 1, việc thờ cúng Đức thánh Trần Hưng Đạo được thực hiện tại chùa, đình, đền thì phù hợp hơn tại tượng đài. Vì vậy, việc dâng hương, dâng hoa sẽ chuyển về đền thờ Đức thánh Trần Hưng Đạo nằm trên đường Võ Thị Sáu, cũng thuộc địa bàn Quận 1. Dự kiến, đến ngày 20/2 việc đặt lư hương tại đền thờ sẽ được tiến hành.

 

Trước đó, Sở Văn hóa và Thể thao thành phố đã có văn bản kiến nghị UBND Thành phố Hồ Chí Minh bố trí sử dụng vốn ngân sách để tu dưỡng, tôn tạo công trình tượng đài Trần Hưng Đạo và tượng đài Thánh Gióng trên địa bàn Quận 1, đồng thời, giao cho Trung tâm Bảo tồn di tích thành phố làm chủ đầu tư. Hai công trình tượng đài nói đã xuống cấp nặng nề.

 

Tượng đài Trần Hưng Đạo được xây dựng trước năm 1975 bằng bê tông cốt thép, cao 4m, đặt trên bệ hình ba cạnh cao 12m, ốp đá màu nâu, ba mặt đế tượng có sáu mảng phù điêu. Công trình này không đảm bảo an toàn, cần được tu sửa, tôn tạo khẩn trương.

 

Trong ngày 17/1 trên các trang mạng xã hội đã xuất hiện nhiều thông tin sai sự thật về việc di dời lư hương dưới chân tượng Đức thánh Trần Hưng Đạo.

______________

Anh Tuấn/TTXVN

________________


Phản hồi:


"Chạm vào tượng đức Trần Hưng Đạo, hồn thiêng sông núi của người Việt Nam là cán bộ nhà nước phải kính cẩn, trang nghiêm, chu đáo!

Lời dặn của dân, nhớ đó mà làm!"


Tạ Thị Ngọc Thảo

TRUYỀN THUYẾT VỀ TRẦN NHÂN TÔNG

100 ngày sau khi Phật hoàng Trần Nhân Tông về cõi niết bàn, lưng chừng núi bỗng thoang thoảng mùi thơm. Người vẫn nằm nghiêng dáng sư tử, một mầm trúc non xanh mọc xuyên qua đùi trái.

 

 

Việc Trần Nhân Tông lên Yên Tử tu hành đã để lại nhiều truyền thuyết và gắn chặt chẽ với những di tích, danh thắng nổi tiếng trên núi Yên Tử.

 

Tục truyền rằng sau khi vượt dốc vào Yên Tử, thầy trò Trần Nhân Tông tắm ở một dòng suối. Trưa hè oi ả, vua Trần đóng khố, nhoài mình nơi dòng nước trong xanh. Tiếng nước réo rắt hòa với tiếng chim rừng lảnh lót, hoa muôn sắc tỏa hương theo gió thơm ngào ngạt. Nhà vua trồng cây đa bên bờ để người sau có bóng nghỉ. Kể từ dịp ấy suối được đặt tên là suối Vua Tắm.

 

Thầy trò nhà vua tiếp tục lên đường đến một quả núi tròn như mâm xôi. Bảo Sái mở túi lục tìm cơm chay cho thầy mới giật mình sực nhớ là suất ăn đã đưa cho ba tên cướp ở cửa rừng. Vua Trần vui vẻ cùng Bảo Sái uống nước suối thay bữa rồi nằm nghỉ trên quả núi. Về sau, nơi đây dựng chùa mang tên Cấm Thực (không ăn), như thể khắc ghi hành động quên mình cứu độ chúng sinh của vị hoàng đế tu hành.

 

Khi Trần Nhân Tôn lên Yên Tử, vua Anh Tông vì không yên tâm đã sai cung tần mỹ nữ đi theo hầu hạ. Trần Nhân Tông khuyên họ trở lại triều đình hoặc quê cũ làm ăn, song các cung nữ đã trẫm mình xuống suối Hồ Khê để tỏ lòng trung trinh. Vua Trần xót thương, cho lập đàn tràng làm lễ giải oan những linh hồn cung nữ. Nơi lập đàn tràng sau dựng chùa Giải Oan và suối Hổ Khê được đổi cùng tên từ thuở ấy.

 

Truyền thuyết còn kể rằng niên hiệu Long Hưng thứ 16, ngày mồng 5 tháng 10, chị gái của vua Trần Nhân Tông là công chúa Thiên Thụy cho người lên núi, tâu rằng: "Công chúa bệnh tình nguy kịch, muốn được trông thấy điều ngự lần cuối". Trần Nhân Tông liền chống gậy xuống núi, chỉ có một người đi theo.

 

Ngày mồng 10 tới kinh đô, ngày 16 dặn dò xong lại trở về núi. Trên đường về, người như linh cảm thấy số mệnh mình nên đã qua một số chùa để giã từ tăng hữu. Tối ấy, người nghỉ chân ở chùa Siêu Loại, huyện Thuận Thành, Bắc Ninh. Sáng hôm sau, người đi đến chùa Cổ Pháp, huyện Nam Sách, Hải Dương.

 

Ngày 17, người nghỉ chân ở chùa Sùng Nghiêm, huyện Chí Linh, Hải Dương. Ngày 18, người đến chùa Tú Lâm gần đó. Thấy đau đầu, người liền nói với hai nhà sư Tử Nan và Hoàng Trung rằng: "Ta muốn lên am Ngoa Vân, nhưng chân không bước nổi, biết làm sao đây?". Hai nhà sư thưa: "Đệ tử xin hết sức giúp đỡ".

 

Tới quá chiều vua Trần mới lên được đỉnh núi Ngoạ Vân. Đây là ngọn núi cao nhất vùng thuộc làng Yên Sinh, huyện Đông Triều, quê gốc họ Trần. Trong thời gian tu ở Yên Tử, Trần Nhân Tông đã cho lập một am ở đây, đặt tên là Ngọa Vân (nằm trên mây), từ đó thành tên núi. Đôi khi người dừng chân đọc sách và tham thiền, nên đã có lối mòn đi tắt sang Yên Tử. Trần Nhân Tông cảm ơn hai nhà sư và bảo: "Thôi xuống núi ngay đi, chăm chỉ việc tu hành, chớ coi sinh tử là chuyện chơi".

 

Ngày 19, Trần Nhân Tông sai người hầu là Pháp Không lên núi Yên Tử gọi là Bảo Sái. Bảo Sái tới suối Doanh, trông thấy một đám mây đen từ phía Ngoạ Vân bay qua núi Lỗi, đến suối thì nước dâng cao mấy trượng rồi lại phẳng lặng như thường. Bỗng thấy hai con rồng, đầu to như đầu ngựa cùng nghển cổ lên cao đến một trượng, hai mắt sáng như sao, một lúc thì biến mất.

 

Ngày 21, Bảo Sái tới Ngọa Vân. Trần Nhân Tông cười nói: "Ta sắp đi đây, sao ngươi tới muộn thế? Trong pháp thuật có chỗ nào chưa hiểu thì hỏi ngay đi".

 

Mấy ngày liền, trời đất tối tăm, gió gào dữ dội, mưa như trút nước. Bỗng đêm ngày mồng Hai, rạng ngày mồng Ba tháng 11, trời quang mây tạnh. Vua hỏi: "Giờ này là giờ gì?". Bảo Sái thưa: "Bây giờ là giờ Tý". Vua đẩy cửa sổ ra và nói: "Giờ của ta đó!". Nói xong, người nằm dáng sư tử, rồi tịch ngay trong am trên núi. Đó là ngày mồng Ba, tháng Mười một, năm Mậu Thân (1308). Trần Nhân Tông hưởng thọ 51 tuổi.

 

Có sự tích còn kể rằng trước khi tịch diệt về cõi niết bàn, người bảo mọi người hãy xuống núi, sau đúng 100 ngày mới đến được đến gần, thấy núi thơm thì hãy hỏa táng thi hài, nếu không thì thôi. Mọi người tuân theo, đúng 100 ngày sau tới lưng chừng núi đã thấy thoang thoảng mùi thơm. Người vẫn nằm nghiêng dáng sư tử một mầm trúc non xanh mọc xuyên qua đùi trái.

 

Đời sau còn lưu luyến trong dân gian bài thơ về hình ảnh trên, trong đó có câu: "Thân Tổ nằm nghiêng, trúc một mầm...". Tuyên theo di chúc, Pháp Loa đã hỏa thiêu thi hài người, sau đó lấy tro viên thành một ngàn viên xá lỵ, một số đưa về táng ở cung vua, một số táng ở vườn Huệ Quang trên Yên Tử.

 

___________________________

 

Tạp Chí Thăng Long – Hà Nội nghìn năm

Nguồn: thuvienhoasen.org

TRẦN TUNG VỊ TƯỚNG, NHÀ THIỀN HỌC, NHÀ THƠ

Trần Tung (còn gọi là Trần Quốc Tung) hiệu Tuệ Trung Thượng Sĩ, sinh năm Canh dần 1230, mất ngày 1 tháng 4 năm Tân Mão 1291, quê ở hương Tức Mặc, phủ Thiên Trường (nay là thôn Tức Mặc, xã Lộc Vượng, thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định). Ông là một vị tướng, nhà ngoại giao, cư sĩ Thiền sư, nhà thơ Thiền thời Trần, nổi tiếng với bài “Phóng cuồng ngâm” và các sáng tác khác của ông trong bộ “Tuệ Trung Thượng sĩ ngữ lục”. Nhiều tài liệu văn học và sách nhà Phật viết về ông, nhưng các tài liệu lịch sử lại hầu như không nhắc gì đến ông. Bộ “Đại Việt sử ký toàn thư” chỉ có một lần nhắc đến Trần Tung trong lời bình về Trần Minh Tông cuả Ngô Sĩ Liên như sau:

 

"Vua vốn nhân hậu với họ hàng, nhất là đối với bậc bề trên mà hiển quý lại càng tôn kính. Kẻ thần hạ hễ ai cùng tên (với họ hàng nhà vua) đều phải đổi cả, như Độ đổi thành Sư Mạnh vì cùng tên với Thượng phụ (Trần Thủ Độ), Tung đổi thành Thúc Cao vì cùng tên với Hưng Ninh Vương ( con trưởng của An Ninh Vương )". (1)

 

Qua lời bình trên (ngoại trừ tước hiệu An Ninh Vương không đúng với tước hiệu An Sinh Vương của Trần Liễu) đã chứng tỏ Trần Tung là một nhân vật được vua Trần Minh Tông hết sức tôn kính. Chắc chắn Trần Tung phải là người có tài đức, công lao to lớn mới được vua kính trọng như vậy.

 

Do không tìm thấy một tài liệu Việt sử nào viết về Trần Tung nên nhiều tài liệu viết về ông gần đây thường nhầm lẫn ông với Trần Quốc Tảng. Trong cuốn “Hoàng Việt văn tuyển”, không rõ vì lý do gì hay căn cứ vào tài liệu nào mà Bùi Huy Bích lại cho rằng Tuệ Trung Thượng Sĩ là Trần Quốc Tảng, tác giả của “Tuệ Trung Thượng Sĩ ngữ lục” cũng là Trần Quốc Tảng (2). Chúng ta dễ dàng nhận ra kết luận trên của Bùi Huy Bích là sai lầm, vì Tuệ Trung Thượng Sĩ mất năm 1291, còn Trần Quốc Tảng mãi năm 1313 mới qua đời. Từ sai lầm của một học giả nổi tiếng cách đây trên 200 năm đã làm nhiều người sau này tin theo mà lặp lại sai lầm đó. Chẳng hạn, cuốn “Lược truyện tác gia Việt Nam” (nhà xuất bản Khoa học xã hội, 1972, tập 1), cuốn “Hợp tuyển thơ văn Việt Nam” (nhà xuất bản Văn học, 1976, tập 2)... đều cho rằng bài “Phóng cuồng ngâm” và toàn bộ sáng tác của Tuệ Trung Thượng Sĩ trong “Tuệ Trung Thượng Sĩ ngữ lục” là của Trần Quốc Tảng (3). Gần đây, cuốn “Tuệ Trung nhân sĩ, thượng sĩ, thi sĩ” của Nguyễn Duy Hinh (nhà xuất bản Khoa học xã hội, 1998) cho rằng Tuệ Trung và Trần Tung có thể là hai nhân vật khác nhau(4). Trong cuốn “Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam” (nhà xuất bản Khoa học xã hội, 1992), tác giả Nguyễn Q. Thắng và Nguyễn Bá Thế khẳng định Tuệ Trung Thượng Sĩ chính là Trần Tung chứ không phải là Trần Quốc Tảng, nhưng các tác giả này lại thừa nhận bài “Phóng cuồng ca” (tức “Phóng cuồng ngâm” ) là của Trần Quốc Tảng (5). Đa số các tài liệu và công trình nghiên cứu khác về Trần Tung đều kết luận Tuệ Trung Thượng Sĩ là Trần Tung, bài “Phóng cuồng ngâm” và các sáng tác khác của ông trong “Tuệ Trung Thượng Sĩ ngữ lục” cũng là của Trần Tung, như: “Thơ văn Lý Trần” (nhà xuất bản Khoa học xã hội, 1988, tập 2, quyển thượng), “Từ điển văn học” (nhà xuất bản Khoa học xã hội, 1984, tập 2), “Trần Tung một gương mặt lạ trong làng thơ Thiền Lý - Trần” (của Nguyễn Huệ Chi, Tạp chí Văn học số 4 năm 1977)... (6)

 

Theo “Thượng Sĩ hành trạng” (8) của Trần Nhân Tông, Tuệ Trung Thượng Sĩ (Trần Tung) là con An Sinh Vương Trần Liễu, anh ruột Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn và Nguyên Thánh Thiên Cảm Hoàng Thái hậu, bác ruột Hưng Nhượng Vương Trần Quốc Tảng, anh rể vua Trần Thánh Tông. Ông là người có phẩm chất cao sáng, thuần hậu, từ nhỏ đã tỏ ra yêu mến đạo Phật. Vốn dòng tôn thất nên ngay từ khi còn trẻ ông đã được cử coi giữ đất Hồng Lộ (thuộc Hải Dương ngày nay). Năm 1251 cha ông là Trần Liễu mất, Thượng Hoàng Trần Thái Tông cảm nghĩa đã ban cho ông tước Hưng Ninh Vương.

 

Hưng Ninh Vương Trần Tung là người có nhiều công lao trong kháng chiến chống Nguyên Mông, lần hồi được phong đến chức Tiết độ sứ. Theo “Nguyên sử”, trong cuộc xâm lăng nước ta lần thứ hai của quân Mông Cổ (1285), vào ngày 10 tháng 6, khi Thoát Hoan thất thế bắt đầu rút chạy khỏi bờ bắc sông Hồng, Hưng Ninh Vương Trần Tung đã cùng Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn đem hai vạn quân đón đánh địch, kịch chiến với tướng giặc Lưu Thế Anh và truy kích Thoát Hoan chạy dài đến sông Như Nguyệt. Trong cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông lần thứ ba (1287 - 1288), Trần Tung từng nhiều lần làm nhiệm vụ sứ giả, thay mặt vua Trần, tới lui nơi trại giặc, thương thuyết với chúng, hoặc giả cách cầu hoà, làm tinh thần chúng mỏi mệt, tạo điều kiện cho quân ta tập kích giành thắng lợi. Lê Trắc đã phải thừa nhận trong “An Nam chí lược” (9) như sau:

 

"Tháng hai năm Mậu tý (1288) thế tử (Đại Việt) phái người anh con bác ruột là Hưng Ninh Vương Trần Tung nhiều lần tới ước hẹn việc đầu hàng, cốt làm cho quân ta mỏi mệt, rồi ban đêm cho quân cảm tử tới cướp doanh trại " ...

 

Rõ ràng các tài liệu trên đã khẳng định Trần Tung là một tướng lĩnh có tài, một nhà ngoại giao đắc lực của nhà Trần, có nhiều đóng góp vào chiến thắng Nguyên Mông lần thứ hai và lần thứ ba. Sau đại thắng Nguyên Mông, Trần Tung được phong làm Tiết độ sứ vùng biển trại Thái Bình (thuộc tỉnh Thái Bình ngày nay). Không lâu sau, ông bỏ chức tước để trở về ấp Tịnh Bang (thuộc làng Yên Quảng, huyện Vĩnh Lại) lập ra Dưỡng Chân trang làm nơi toạ Thiền, tu Phật. Có lẽ việc ông bỏ chức tước đi theo đạo Phật là nguyên cớ để các sử gia không nhắc tới công lao của ông trong “Đại Việt sử ký toàn thư” . Bộ “Đại Việt sử ký toàn thư” được hoàn thành chủ yếu vào thế kỷ 15 là thế kỷ độc tôn của Nho giáo. Với thái độ "Bài Phật", các sử gia đã thể hiện sự chê trách của mình đối với Trần Tung cùng tư tưởng vượt ra ngoài quỹ đạo nhà Nho của ông, bằng cách không nhắc đến ông trong khi viết sử. Điều này dễ hiểu, vì ngay cả đối với vua Trần Nhân Tông vào những năm cuối đời bỏ ngôi báu ra đi cũng bị các sử gia lên án, huống hồ là Trần Tung.

 

Nho gia ghét bỏ Trần Tung, nhưng Phật gia lại hết lời ca ngợi ông. Từ vị Tiết độ sứ, Hưng Ninh Vương Trần Tung sớm trở thành Tuệ Trung Thượng Sĩ, một ngôi sao sáng trên bầu trời thiền Việt Nam. Tuệ Trung Thượng Sĩ là học trò xuất sắc của Thiền sư Tiêu Diêu. Tiêu Diêu thiền sư còn gọi là Phúc Đường đại sư, cư trú ở Phúc Đường tinh xá (chưa rõ ở đâu) là một thiền sư nổi tiếng thời Lý. Ông là đệ tử của ứng Thuận phái Vô Ngôn Thông, đồng thời là người thừa kế thiền sư Đại Đăng, tổ thứ ba chùa Hoa Yên núi Yên Tử (xem “Thuyền Uyển tập anh” ) (10). Trần Tung rất mực cung kính, khâm phục thiền sư Tiêu Diêu:

 

Tu tri thế hữu nhân trung Phật

Hưu quái lô khai hoả lý liên

(Bài “Trình thiền sư Tiêu Diêu ở Phúc Đường”)

Nên biết trong đời sinh đức Phật

Lạ chi giữa lửa nở sen vàng

( Đỗ Văn Hỷ dịch).

 

Tuệ Trung Thượng Sĩ đã tiếp thu được mọi nguyên lý sâu xa, vi diệu nhất của Thiền học từ sư phụ Tiêu Diêu, rồi truyền dạy lại cho Trần Nhân Tông, đệ nhất tổ phái Thiền học Trúc Lâm Yên Tử. Chính vì thế Tuệ Trung Thượng Sĩ được coi là người tiên phong của phái Thiền học Trúc Lâm Yên Tử.

 

Tuệ Trung Thượng Sĩ là một nhà thiền học có bản lĩnh, có lý trí, không giáo điều sách vở. Ông tu Phật nhưng không xuất gia, không toạ thiền, không trì giới, không ăn chay, không cầu thành Phật, không thuyết pháp... mà "hoà quang đồng trần" (cùng thế tục hoà sáng), sống "hoà lẫn với thói thường chứ không làm ra cách trái hẳn với người đời", "cứ tuỳ cái tính tự nhiên của mình mà làm chứ không câu chấp ở cái danh" (Thượng Sĩ hành trạng). Không ăn chay, không trì giới đối với người tu Phật là thái độ trái với truyền thống giáo điều mà các tín đồ không thể hiểu nổi. Khi thấy trong khi dự tiệc, Tuệ Trung Thượng Sĩ gặp thịt cứ ăn, Nguyên Thánh Thiên Cảm Hoàng Thái hậu lấy làm lạ, hỏi rằng: "Anh tu Thiền mà ăn thịt thì thành Phật sao được?" Câu trả lời của Tuệ Trung Thượng Sĩ sau đây đã thể hiện rõ tinh thần tự do, độc lập trong nhận thức sự vật ở chính sự vật chứ không lệ thuộc vào bất cứ tín điều nào:

 

"Phật tự Phật, huynh tự huynh. Huynh dã bất yếu tố Phật, Phật dã bất yếu tố huynh. Bất kiến cổ đức đạo: "Văn Thù tự Văn Thù, giải thoát tự giải thoát ?"

(Phật là Phật, anh là anh. Anh không cầu làm Phật, Phật không cầu làm anh. Chẳng thấy các bậc đại đức xưa nói: "Văn Thù là Văn Thù, giải thoát là giải thoát" đó sao?) (11)

 

Trong lịch sử tư tưởng Việt Nam, Tuệ Trung Thượng Sĩ là người đầu tiên đưa ra khái niệm “bản thể”, một khái niệm mà ngày nay triết học Đông Tây thường nói tới. Bản thể luận (bàn về nguồn gốc sự vật) là vấn đề ông thường thể hiện trong sáng tác của mình. Theo ông, bản thể là KHÔNG. Mọi hiện tượng, sự vật trong tự nhiên và xã hội đều là những khái niệm không phản ánh được thực chất của vạn pháp, chỉ là ước định của người đời mà thôi. Từ bản thể KHÔNG sẽ xuất hiện ảo hoá, vô minh mà phân thành nhị kiến. Bởi nhị kiến mà xuất hiện mọi thứ : sinh tử, mê ngộ, phàm thánh, chân vọng, sắc không, phải trái... Do nhị kiến mà kiến giải cũng thiên lệch. Nếu lấy kiến giải để trình kiến giải thì lại càng sai lệch hơn:

 

Kiến giải trình kiến giải

Tự niết mục tác quái.

(Kiến giải)

Kiến giải bày kiến giải

Như dụi mắt làm quái.

 

Con người muốn nhận thức đúng sự vật phải xoá bỏ vô minh, mà thủ tiêu nhị kiến thì vô minh tự diệt. Cho nên Tuệ Trung Thượng Sĩ chủ trương "vong nhị kiến". Để diệt nhị kiến, ông đưa ra phương pháp phá chấp. Muốn giác ngộ tới chân lý tối hậu phải tự tìm hiểu, phải có tâm hồn trẻ thơ không thiên không lệch. Khi đã giác ngộ, lại trở về với tồn nhiên như nhiên, trở về với không (vô). Có người chấp vào kinh sách mà hỏi ông : " Sắc tức thị không, không tức thị sắc" (Sắc là không, không là sắc) là thế nào? " Ông trả lời: "Sắc bản vô không, không bản vô sắc" (Sắc vốn chẳng phải không, không vốn không phải sắc). Theo ông, kinh điển chỉ là phương tiện mà thôi và ông khuyên mọi người:

 

Đừng gánh nặng hai vai

Mới qua cầu khỉ được.

 

Tư tưởng Thiền tông của Tuệ Trung Thượng Sĩ cũng thể hiện ở mệnh đề "Tức tâm, tức Phật". Tâm, không thể nói được; Phật, không thể thấy được. Tâm và Phật quan hệ mật thiết với nhau, hễ có cái này thì cũng có cái kia, hễ cái này mất thì cái kia cũng mất. Bản thể của Tâm không tướng, không hình, không nhìn thấy được. Nếu muốn biết bộ mặt thật của Tâm thì thật là chuyện nực cười. Ông khuyên mọi người không nên tìm Tâm ở ngoài ta, bởi vì Phật trong ta. Đó chính là Tâm ta vậy:

 

Vạn pháp chi tâm tức Phật tâm

Phật tâm khước dữ ngã tâm hợp.

(Phật tâm ca)

Tâm của muôn loài tức Phật tâm

Tâm Phật cũng phù hợp với tâm ta.

 

Một khi tâm con người bao dung, mở rộng, chứa được tâm của vạn pháp, đạt được tâm Phật là giác ngộ, là giải thoát.

 

Sinh tử là vấn đề quan trọng nhất trong nhân sinh quan của Tuệ Trung Thượng Sĩ. Ông cho rằng sinh tử đều là vọng (không chân thực), chỉ là nhận thức sai lầm mà thôi. Sinh tử phụ thuộc vào Tâm : Tâm sinh thì sinh tử sinh, Tâm diệt thì sinh tử diệt. Sinh tử vốn không có tự tính. Sinh tử cũng tuân theo quy luật tự nhiên như mặt trời mọc đằng đông, mặt trăng lặn đằng tây vậy. Con người chẳng nên lo lắng trước sống chết, hãy coi sống chết là việc nhẹ nhàng không quan trọng, vì sống chêt là lẽ thường mà thôi.

 

Tâm chi sinh hề sinh tử sinh

Tâm chi diệt hề sinh tử diệt

.........

Trí giả đạt quan nhàn nhi dĩ.

(Sinh tử nhàn nhi dĩ)

Tâm sinh thì sống chết sinh

Tâm diệt thì sống chết diệt

.........

 

Bậc trí có cái nhìn thông đạt xem sống chết là lẽ thường mà thôi.

 

Thiền học của Tuệ Trung Thượng Sĩ là tín ngưỡng nội tâm, luôn luôn tự khai phóng, tự hoàn thiện, hướng con người tới cuộc sống tốt đẹp ở ngay trần thế. Mặc dù quan điểm Thiền học của ông cũng như của Thiền tông Việt Nam nói chung là quan điểm duy tâm, nhà Trần vẫn lấy hệ tư tưởng của Thiền tông làm hệ tư tưỏng chủ đạo của đất nước và đã đạt được những thành tựu đáng kể trong lĩnh vực văn hoá và chống ngoại xâm. Vào thời Lý, Phật giáo Việt Nam đã phát triển đến đỉnh cao với ba trường phái Thiền tông cùng tồn tại. Trong thời kỳ đầu, vừa tiếp nhận chính quyền từ tay nhà Lý, nhà Trần vẫn phải đề cao Phật giáo để thu phục nhân tâm và tiếp tục phát triển nền văn hoá mà nhà Lý đã đạt được, đồng thời tiến tới xây dựng một hệ tư tưởng độc lập của mình. Cùng với Trần Thái Tông, Tuệ Trung Thượng Sĩ có ảnh hưởng rất lớn vào việc hoà nhập ba phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi, Vô Ngôn Thông và Thảo Đường, dẫn tới sự phát triển của Thiền phái duy nhất thời Trần là Trúc Lâm Yên Tử vào thế kỷ XIII. Phật giáo thời Trần được coi là Phật giáo nhất tông.

 

Quan niệm Thiền và tư tuởng tuỳ nghi "Vào xứ mình trần cởi áo đi, phải đâu quên lễ, chỉ tuỳ nghi " (bài “Vật bất năng dung” ) và "Hợp thời đúng lúc cốt tinh anh" (bài “Ngẫu tác” ) của Tuệ Trung Thượng Sĩ đã góp phần làm cho Phật giáo Việt Nam có tinh thần nhập thế tích cực, nhập thế vì quê hương đất nước, vì đồng loại chứ không phải vì cá nhân. Theo ông, mọi hoạt động trong cuộc sống hàng ngày đều là thiền (Hành diệc thiền, toạ diệc thiền) . Khi đất nước bị xâm lăng thì đánh giặc cứu nước là biết tuỳ nghi, là hợp thời đúng lúc, là thiền. Hệ tư tưởng Thiền tông với vị trí là hệ tư tưởng chủ đạo của đất nước thời Trần đã góp phần quyết định làm nên ba lần đại thắng Nguyên Mông của dân tộc ta. Nhờ ảnh hưởng tư tưởng thiền mà quân dân nhà Trần đã từng chích lên cánh tay hai chữ "Sát Thát", coi cái chết vì nước vì dân nhẹ như lông hồng, tạo nên sức mạnh tinh thần Đại Việt, quét sạch giặc xâm lăng ra khỏi bờ cõi.

 

Là một quý tộc trí thức uyên bác, nhà thiền học lớn, Tuệ Trung Thượng Sĩ được vua Trần Thánh Tông kính trọng gọi là sư huynh và ban cho tên hiệu Thượng Sĩ (danh hiệu tương đương như bồ tát; Thượng Sĩ là người mà mọi hành động đều lợi mình và lợi cả người). Trần Nhân Tông - Nhà văn hoá lớn, nhà thơ xuất sắc thế kỷ XIII, người sáng lập dòng Thiền Trúc Lâm Yên Tử đã thừa nhận Tuệ Trung Thượng Sĩ là thầy và đánh giá ông là một bậc đại trí tuệ, một quả núi lớn trong rừng Thiền:

 

Pháp hải độc nhãn

Thiền lâm tam giác

(Biển pháp một ngươi

Rừng Thiền ba phía) (12)

 

Trần Tung - Tuệ Trung Thượng Sĩ còn là một nhà thơ tiêu biểu, một gương mặt sáng giá trong làng thơ thiền Việt Nam thế kỷ XIII. Những sáng tác chủ yếu của ông được tập hợp trong bộ “Thượng Sĩ ngữ lục”.

 

Tính chất phóng khoáng, không quá lệ thuộc vào bất kỳ một tín điều nào (kể cả tín điều nhà Phật) là đặc điểm chủ yếu tạo nên bản sắc tư tưởng và chi phối phong cách nghệ thuật thơ của ông. Xuất phát từ việc đập vỡ thái độ bám víu vào khái niệm, đả phá những vấn đề giả tạo trong đời sống đạo để ca lên khúc nhạc huyền diệu của muôn đời (Diệu khúc bản lai tu cử xướng - Bài “Thị chúng” ), Trần Tung đã tạo cho thơ Thiền của mình một phong cách riêng, phong cách mà các nhà nghiên cứu gọi là “phong cách phóng cuồng” .

 

Là một nhà Thiền học nhưng thơ Trần Tung lại có khí cốt cao ngạo, tung hoành như Trang Tử. Trước cảnh đẹp hùng tráng của núi sông, vũ trụ, ông chống gậy đi du ngoạn, không quan tâm đến ăn uống, hoàn toàn tự tại, tiêu dao, thoát tục đến hoá cuồng. Cái cuồng siêu thoát vì nhận thức bản thể KHÔNG của Thiền tông. Siêu thoát đến cùng cực, siêu thoát từ trần gian đi vào cõi Thiền (Bài “Phóng cuồng ngâm” ). Có lúc thơ ông lại mang tâm sự ẩn nhẫn của một xử sĩ. Ban đầu ông chưa nghĩ tới thú giang hồ, vì còn bận với đường công danh. Nhưng rồi thời gian thoi đưa, công danh lận đận, tuổi đã cao, ông mới nghĩ đến thú giang hồ. Ông theo con thuyền tiêu dao của Tạ Tam, vượt thác ghềnh, đắm mình với non xanh nước biếc, tiếng sáo chiều hôm, gió mát trăng thanh, tiếng nhạn báo thu về... Tiêu dao là cuộc sống ẩn sĩ của ông (Bài “Giang hồ tự thích” ). Đôi khi ông lại day dứt khôn nguôi về những chuyện "thanh trọc", "đắc thất" ở đời. Ông từng cố sức chen chân trên đường công danh nhưng không đạt sở nguyện. Ông tự đánh giá mình cao hơn những gì triều đình ban cho ông nên ông bất mãn thế thái nhân tình.

 

Tiêu đầu lạn ngạch bị kim bào,

Ngũ thất niên gian thị xưởng tào.

Túng dã siêu quần kiêm bạt tuỵ,

Nhất hồi phóng hạ nhất hồi cao.

(Bài “Chiếu thân” )

Sém đầu dập trán bởi đua chen,

Năm bảy năm nay kiếp ngựa hèn.

Ví phỏng tài năng siêu việt hết,

Mỗi lần rớt xuống, một lần lên.

 

Trong thế giới huyền bí nhà Phật mà Trần Tung dấn thân vào, ông vẫn cố gắng suy nghĩ độc lập, kiểm nghiệm mọi tín điều, mọi hành động, mọi thói quen. Ngay cả việc ngồi thiền ông cũng coi chẳng qua chỉ là quá trình tập trung tư tưởng, chẳng liên quan đến niệm Phật:

 

Đường trung đoan toạ tịch vô nghiên

Nhàn khán Côn Luân nhất lũ yên

Tự thị quyện thời tâm tự tức

Bất quan nhiếp niệm, bất quan Thiền.

( Bài “Ngẫu tác” )

Giữa nhà không nói, chỉ ngồi yên

Nhàn ngắm Côn Luân sợi khói lên

Lúc mệt mỏi rồi tâm tự tắt

Cần chi niệm Phật với cầu Thiền.

 

Ông phê phán sự mù quáng tin theo những giáo lý có sẵn, vì như thế là mình chỉ làm theo người khác chứ đâu còn là mình nữa. Ông khuyên mọi người hãy độc lập xét đoán sự vật, không nên dựa dẫm vào người khác. Chỉ khi nào vứt bỏ được thái độ dựa vào người khác và tự mình tư duy hành động thì ánh sáng trí tuệ mới bừng dậy trong ta.

 

Báo quân hưu ỷ tha môn hộ

Nhất điểm xuân quang, xứ xứ hoa

( Bài “Thị học” )

Thôi chớ cửa người nương dựa nữa,

Một tia xuân đến nở hoa đầy.

 

Là một người cuồng ngông trong vườn Thiền thời Trần, Trần Tung đã để lại những vần thơ phóng túng đầu tiên trong lịch sử văn học Việt Nam. Hơn thế nữa, không dừng lại ở những vần thơ phóng túng, ông còn thể hiện tâm trạng phóng cuồng của mình bằng những bài ca phóng cuồng như: “Phật tâm ca”, “Phóng cuồng ngâm”, “Trừu thần ngâm”, “Sinh tử nhàn nhi dĩ, Phàm thánh bất dị”... Những bài ca phóng cuồng của ông về đời sống tu hành thường mang triết lý sâu sắc, cảm xúc tinh tế, hình tượng phong phú và sinh động, câu thơ giàu âm điệu:

 

Trời đất liếc trông chừ, sao mênh mông,

Chống gậy nhởn nhơ chừ, phương ngoài phương.

Hoặc cao cao chừ, mây đỉnh núi,

Hoặc sâu sâu chừ, nước trùng dương.

Đói thì ăn chừ, cơm tuỳ ý,

Mệt thì ngủ chừ, làng không làng.

Hứng lên chừ, thổi sáo không lỗ,

Lắng xuống chừ, đốt giải thoát hương.

(Bài “Phóng cuồng ngâm”. Huệ Chi và Đỗ Văn Hỷ dịch )

 

Trần Tung là nhà thơ thiền có phong cách phóng cuồng sôi nổi và dữ dội, độc đáo và hấp dẫn. Thơ thiền của ông chứa đầy Phật lý và thế tục, mỗi hình tượng thế tục đều gắn với Phật lý và Phật lý nằm trong hình tượng thế tục. Con người đời thường và con người Phật giáo ở ông hoà quyện vào nhau. Bằng cách lập luận sắc sảo, sử dụng linh hoạt nhiều hình tượng độc đáo thể hiện sâu sắc quan điểm Thiền và đậm chất Lão Trang, Trần Tung đã sáng tạo được những vần thơ đầy hào khí, bay bổng, sinh sắc, lạ thường, phóng cuồng mà vẫn tỉnh táo, huyền diệu và thoát tục mà không xuất thế.

 

Là nhân sĩ yêu nước, mỗi khi Tổ quốc bị giặc xâm lăng, Trần Tung đã đảm nhận những nhiệm vụ khó khăn và nguy hiểm nhất, khi làm sứ giả vào tận sào huyệt của địch đấu trí trên mặt trận ngoại giao, lúc làm tướng trực tiếp chỉ huy chiến đấu. Ở cương vị nào ông cũng hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, lập nhiều công trạng.

 

Là một nhà thơ thiền, ông để lại số lượng thơ thiền nhiều nhất đương thời (49 bài thơ, 4 bài kệ, 13 bài tụng), những bài thơ có giá trị về cả nội dung và nghệ thuật, thể hiện một phong cách mà không một nhà thơ nào bắt chước được: Phong cách phóng cuồng.

 

Nguyên Mông, viết lên trang sử vẻ vang, hào hùng và oanh liệt của dân tộc ta.

 

Nhà quân sự, nhà thơ, nhà Thiền học Trần Tung - Tuệ Trung Thượng Sĩ cùng những di sản quý giá ông để lại là niềm tự hào của nhân dân Nam Định và của cả đất nước.

 

T.M.G

Chú thích :

* Tất cả các đoạn trích thơ của Tuệ Trung Thượng Sĩ trong bài viết này được lấy trong cuốn Thơ văn Lý Trần / Nguyễn Huệ Chi chủ biên. - H.: Khoa học xã hội, 1988. - T.2. - Q. thượng. - Tr. 223 - 351, có đối chiếu tham khảo một số sách khác như Thượng Sĩ ngữ lục, sách lưu tại Thư viện Viện nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu A1932...

(1) Đại Việt sử ký toàn thư. - H.: Khoa học xã hội, 1988. - T.2. - Tr.100.

(2) Hoàng Việt văn tuyển / Tồn Am Bùi Huy Bích. - Sách lưu Thư viện Viện nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu A203, mục tiểu dẫn về Trần Quốc Tảng viết rằng : " Trần Ninh vương Quốc Tảng, là con cả của Hưng Đạo..." ..." Tự đặt hiệu là Tuệ Trung Thượng Sĩ. Thường cưỡi thuyền rong chơi ở khúc Cửu Giang, ngâm thơ và sáng tác Phóng cuồng ca". Bùi Huy Bích (1744 - 1802) tự Hy Chương, hiệu Tồn Am, người xã Định Công, huyện Thanh Trì, trú ở xã Thịnh Liệt cùng huyện (nay thuộc huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội). Ông đỗ Hoàng giáp khoa Kỷ sửu 1769 đời Lê Hiển Tông, làm quan đến Hành Tham tụng, tước Kế Liệt hầu, sau lui về ở ẩn. Ông là một nhà sử học, văn học nổi tiếng, có nhiều tác phẩm như : Hoàng Việt thi tuyển, Hoàng Việt văn tuyển, Nghệ An thi tập, Tồn Am thi văn tập, Châu Phong tạp ký...

(3) - Lược truyện các tác gia Việt Nam. - H.: Khoa học xã hội, 1972. - T.1. - Mục 40 : Trần Quốc Tảng. - Hợp tuyển thơ văn Việt Nam : Văn học thế kỷ X - Thế kỷ XVII. - In lại lần 2 có sửa chữa, bổ sung. - H.: Văn học, 1976. - T.2. - Tr. 137 - 145.

(4) Tuệ Trung nhân sĩ, thượng sĩ, thi sĩ / Nguyễn Duy Hinh. - H.: Khoa học xã hội, 1998. - Tr. 38, viết : " Hoàn toàn có thể có một Yên Ninh vương khác Yên Sinh vương Trần Liễu, cũng như thực tế có hai ông Liễu, hai ông Tung, hai bà Thuận Từ..."

(5) Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam / Nguyễn Q. Thắng, Nguyễn Bá Thế. - H.: Khoa học xã hội, 1992. - Tr. 884 và 897. Thuyết nói Phóng cuồng ngâm là của Trần Quốc Tảng nói chung và ở sách Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam nói riêng đã bị nhiều tác giả phê phán, bác bỏ một cách xác đáng và đầy đủ. Căn cứ vào văn phong của Phóng cuồng ngâm hoàn toàn thống nhất với những bài thơ khác của Tuệ Trung Thượng Sĩ có thể kết luận : Phóng cuồng ngâm không phải là của Trần Quốc Tảng, mà là của Tuệ Trung Thượng Sĩ Trần Tung.

(6) Ngoài ra còn một số sách khác cũng có quan điểm Tuệ Trung Thượng Sĩ là Trần Tung, như cuốn Từ điển văn hoá Việt Nam : Phần nhân vật chí. - H.: Văn hoá - Thông tin, 1993. - Tr. 539, viết : " Trần Tung (1230 - 1291) có hiệu là Tuệ Trung Thượng Sĩ, con trai của Trần Liễu và là anh ruột của Trần Hưng Đạo..."

(7) Thơ văn Lý Trần. - H.: Khoa học xã hội, 1984. - T.2. - Q. thượng. - Tr. 538 - 548.

(8) Xem thêm:

- Cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông / Hà Văn Tấn, Phạm Thị Tâm. - H.: Khoa học xã hội, 1968. - Tr. 237 - 238.

- Trần Tung một gương mặt lạ trong làng thơ Thiền thời Lý Trần / Nguyễn Huệ Chi // Tạp chí văn học. - 1977. - Số 4. - Tr. 116 - 125.

(9) An Nam chí lược / Lê Trắc.- Q.4. - Sách lưu Thư viện Viện Hán Nôm. Lê Trắc (Tắc) tự Cảnh Cao, người ái Châu (Thanh Hoá) làm quan đến Tịnh hải tả tướng quân và làm Tham mưu cho Chương Hiến hầu Trần Kiện thời Trần. Khi quân Nguyên xâm lược nước ta, Lê Trắc cùng Trần Kiện đã phản bội Tổ quốc, ra hàng giặc và theo về Trung Quốc làm quan cho nhà Nguyên.

Xem thêm :

- Lại một lần nữa buộc tôi nhắc đến cái tên Lê Tắc và bản sách An Nam chí lược / Huỳnh Thúc Kháng // Tao Đàn. - 1939.- Số 7. - Tr. 670.

- Lại nói về quyển An Nam chí lược của Lê Tắc / Huỳnh Thúc Kháng // Tao Đàn. - 1939. - Số 6. - Tr. 495.

- Một nhà viết sử hai nước, một quyển sử nhục nhã : Lê Tắc và quyển An Nam chí lược của y / Trần Thanh Mại // Tao Đàn. - 1939. - Số 3. - Tr. 203.

- Tìm hiểu kho sách Hán Nôm / Trần Văn Giáp. - H.: Văn hoá, 1984. - T.1. - Tr. 340 - 344.

(10) Thuyền uyển tập anh. - Sách lưu Thư viện Viện nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu VHv1267 và A3144...

(11) Thơ văn Lý Trần. - Sách đã dẫn. - Tr. 542.

(12) Thơ văn Lý Trần. - Sách đã dẫn. - Tr. 544.

Tài liệu tham khảo chính

A- Sách :

1- Bùi Huy Bích. Hoàng Việt văn tuyển : Chữ Hán. Sách lưu Thư viện Viện nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu A203.

2- Đại Việt sử ký toàn thư : Bản in Nội các quan bản. Mộc bản khắc năm Chính Hoà thứ 18 (1697) / Hoàng Văn Lâu dịch và chú thích ; Hà Văn Tấn hiệu đính. - H.: Khoa học xã hội, 1998.- T.2.

3- Hợp tuyển thơ văn Việt Nam.- H.: Văn học, 1988.- T.2.

4- Lê Trắc. An Nam chí lược.

5- Lược khảo tác gia văn học Nam Định / Hoàng Dương Chương, Trần Mỹ Giống, Phương Thuỷ, Trần Bá Giao biên soạn.- H.: Văn học, 1997.

6- Lược truyện tác gia Việt Nam / Trần Văn Giáp, Nguyễn Tường Phượng, Nguyễn Văn Phú, Tạ Phong Châu. - H. : Khoa học xã hội, 1972. - T.1. - Mục 40 : Trần Quốc Tảng.

7- Nguyễn Duy Hinh. Tuệ Trung : Nhân sĩ, Thượng Sĩ, thi sĩ / Nguyễn Duy Hinh. - H. : Khoa học xã hội, 1998.

8- Nguyễn Đăng Thục. Lịch sử tư tưởng Việt Nam / Nguyễn Đăng Thục. - Tp. Hồ Chí Minh : Nxb. Tp. Hồ Chí Minh, 1992. - T.4.- Chương III.- Tr.157 - 227.

9- Nguyễn Lang. Việt Nam Phật giáo sử luận / Nguyễn Lang. - H. : Văn học, 1992.- T.1.- Chương XI.- Tr. 299 - 300.

10- Tác gia văn học Thăng Long - Hà Nội.- H.: Hội nhà văn, 1998.

11- Thơ Thiền Việt Nam, những vấn đề lịch sử và tư tưởng nghệ thuật. - H. : Đại học quốc gia, 1998.

12- Thơ văn Lý - Trần. - H. : Khoa học xã hội, 1988. - T.2. - Q.Thượng.

13- Thuyền uyển tập anh.- Thư viện Viện nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu A3144.

14- Thượng sĩ ngữ lục.- Thư viện Viện nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu A1932.

15- Tuệ Trung Thượng Sĩ với Thiền tông Việt Nam. - H. : Trung tâm nghiên cứu Hán Nôm, 1993.

B- Báo và Tạp chí :

16- Nguyễn Đức Diện. Quan điểm " Vong nhị kiến " trong Thiền học của Tuệ Trung Thượng Sĩ / Nguyễn Đức Diện // Tạp chí nghiên cứu Phật học. - 1998. - Số 2. - Tr. 15 - 17.

17- Nguyễn Đức Diện. Quan niệm về "Nhân quả" trong Thiền học của Tuệ Trung Thượng Sĩ / Nguyễn Đức Diện // Tạp chí nghiên cứu Phật học. - 1998. - Số 3. - Tr. 26 - 29.

18- Nguyễn Đức Diện. Quan niệm về "Sinh tử" trong Phật giáo của Tuệ Trung Thượng Sĩ / Nguyễn Đức Diện // Nội san nghiên cứu Phật học. - 1994. - Số 4. - Tr. 33 - 35.

19- Nguyễn Hùng Hậu. Tìm hiểu một số tư tưởng triết học Thiền tông của Tuệ Trung Thượng Sĩ / Nguyễn Hùng Hậu // Triết học. - 1994. - Số 1, 2 và 13.

20- Nguyễn Huệ Chi. Trần Tung, một gương mặt lạ trong làng thơ Thiền Lý - Trần / Nguyễn Huệ Chi // Tạp chí văn học. - 1977. - Số 4.

21- Nguyễn Văn Hồng. Tuệ Trung Thượng Sĩ - Trí tuệ Việt Nam - Thiền Việt Nam / Nguyễn Văn Hồng // Nghiên cứu lịch sử. - 1993. - Số 1. - Tr. 29 -34.

(Trung Tâm Văn Hoá Phật Giáo Liễu Quán Huế)