Trần Nhân Tông Library

Văn học

Lời dẫn

Vị trí văn học của Trần Nhân Tông

Thơ Trần Nhân Tông

Phú Trần Nhân Tông

Văn Trần Nhân Tông

Bài giảng Trần Nhân Tông

Phần thơ văn Trần Nhân Tông sẽ chia làm sáu bộ phận. Đó là thơ, phú, bài giảng, ngữ lục, văn xuôi và văn thư ngoại giao.
 
Về thơ, chúng tôi dựa chủ yếu vào Việt âm thi tập do Phan Phu Tiên và Chu Xa sưu tầm vào giữa những năm 1434-1443 và được cả thảy 26 bài, kể luôn cả bài Ngự chế trúc nô minh ở phần Phụ lục. Trong số 26 bài này, bài Hạnh Thiên Trường phủ được chua “đã thấy ở Quốc sử”. Nhưng bây giờ ta khảo lại trong ĐVSKTT 5 tờ 58a9-b3 thì bài thơ ấửy được ghi do Thượng hoàng Trần Thánh Tông làm. Vậy Quốc sử đây là chỉ bộ Đại Việt sử ký do Phan Phu Tiên chấp bút. Ngô Sĩ Liên, khi viết ĐVSKTT về triều nhà Trần, nếu có sự việc nào chép khác với Phan Phu Tiên, thì đều ghi rõ. Thế mà, bài Hạnh Thiên Trường phủ này lại không thấy Ngô Sĩ Liên có ghi chú gì khác cả. Thêm vào đó, nếu căn cứ vào Nam ông mộng lục của Hồ Nguyên Trừng, đây đúng là bài thơ của Trần Thánh Tông. Từ đó, dù Việt âm thi tập đã chép bài Hạnh Thiên Trường phủ ấy vào thơ của Trần Nhân Tông, chúng tôi vẫn để riêng ra và xếp vào thơ của vua Trần Thánh Tông. Vậy Việt âm thi tập sưu tầm được 25 bài.
 
Ngoài 25 bài thơ của Việt âm thi tập, Hồ Nguyên Trừng trong Nam ông mộng lục có ghi lại cho ta 4 bài thơ. Bài làm trong khi ăn yến với Văn Túc Vương Trần Đạo Tải có chép trong Việt âm thi tập dưới tên Dự Văn Túc Vương yến. Còn bài Vịnh mai, thì trong Việt âm thi tập, là bài thứ nhất của hai bài thơ biết dưới tên Tảo mai. Còn lại hai bài tứ tuyệt với nhan đề Sơn phòng mạn hứng là những đóng góp mới của Nam ông mộng lục. Như vậy, Nam ông mộng lục ghi lại được thêm hai bài thơ nữa của vua Trần Nhân Tông. ĐVSKTT, ngoài bài Dự Văn Túc Vương yến vừa kể, chỉ ghi thêm được 2 đoạn phiến. Một đoạn phiến là hai câu thơ vua Trần Nhân Tông ghi ở cuối thuyền, khi quân ta rút từ Nội Bàng về Vạn Kiếp hội quân vào tháng chạp năm Giáp Thân (1285):
 
Cối Kê cựu sự quân tu ký
Hoan Ái do tồn thập vạn binh.
 
Đoạn phiến kia do vua Trần Nhân Tông cảm xúc làm ra, khi đem các tướng giặc Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp, Sầm Đoạn, Tích Lệ Cơ.v.v.. đến dâng trước lăng vua Trần Thái Tông và thấy “chân ngựa đá ở lăng đều lấm bùn” vào tháng 3 năm Mậu Tý (1288):
 
Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã
Sơn hà thiên cổ điện kim âu
 
Bên cạnh hai đoạn phiến này, An Nam chí lược 17 tờ 159 còn trích hai câu:
 
Tự cố bất tài tàm tứ thổ
Chỉ duyên đa bệnh khuyết triều thiên
 
Trong bài thơ thất ngôn bát cú, mà vua Trần Nhân Tông làm để họa lại bài thơ của Lý Tư Diễn trong buổi yến đãi y vào năm 1289. Sau khi ghi hai câu này, An Nam chí lược viết tiếp: “Ngay nơi tiệc tiếp vần” (tức tịch thứ vận), rồi chép bài Đường luật sau:
 
Vũ lộ uông dương phổ Hán ân
Phụng hàm đan chiếu xuất hồng vân
Thác khai địa giác giai hòa khí
Tịnh hiệp thiên hà tẩy chiến trần
Tận đạo tỷ thư thập hàng hạ
Thắng như cầm điện ngũ huyền huân
Càn khôn kiêm ái vô nam bắc
Hà hoạn vân lôi phục hữu tuân
 
(Ơn Hán tràn trề mưa móc tuôn
Chiếu son phượng ngậm khỏi mây hồng
Khí hòa góc đất đều lan tới
Bụi chiến sông trời rửa sạch trơn
Thảy bảo thư vua mười lối viết
Còn hơn đàn Thuấn năm dây đờn
Đất trời thương hết không nam bắc
Sấm sét sao lo lại khốn thân)
 
Căn cứ vào văn mạch của An Nam chí lược, thì đây đúng là bài thơ của vua Trần Nhân Tông. Chỉ có điều, quyển 17 chỉ dành để chép thơ của những người Trung Quốc đi sứ nước ta, nên bài này bản dịch của viện Đại học Huế năm 1961 đã coi là của Lý Tư Diễn. Tất nhiên, truyền bản của An Nam chí lược đôi khi cũng có những sai sót, như trường hợp cắt văn thư ngoại giao của vua Trần Nhân Tông viết cho Hốt Tất Liệt vào năm Chí Nguyên 30 (1293) thành hai văn thư khác nhau, như ta sẽ trình bày dưới đây. Vì thế, bài thơ vừa dẫn chúng tôi vẫn coi là của vua Trần Nhân Tông.
 
Tiếp đến là bài thơ làm tại chùa hương Cổ Châu và bài kệ Thị tịch của vua Trần Nhân Tông ghi trong Thánh đăng ngữ lục tờ 26a3-4 và 28 a2 -4:
 
Thế số nhất tức mặc
Thời tình lưỡng hải ngân
Ma cung hồn quản thậm
Phật quốc bất thăng xuân
 
(Số đời một hơi thở
Tình người đôi biển ngân
Cung ma chật hẹp lắm
Nước Phật khôn xiết xuân)
 
Nhất thiết pháp bất sinh
Nhất thiết pháp bất diệt
Nhược năng như thị giải
Chư Phật thường hiện tiền
Hà khứ lai chi hữu
 
(Hết thảy pháp không sinh
Hết thảy pháp không diệt
Nếu hay hiểu như vầy
Chư Phật thường trước mặt
Đến đi sao có đây)
 
Và bài kệ Truy tán Tuệ Trung Thượng Sĩ của vua Trần Nhân Tông trong Thượng Sĩ ngữ lục 43a2-4:
 
Vọng chi di cao
Toản chi di kiên
Hốt nhiên tại hậu
Chiêm chi tại tiền
Phù thị chi vị
Thượng Sĩ chi thiền
 
(Nhìn lên càng cao
Dùi càng thêm cứng
Chợt ở phía sau
Thấy liền trước đứng
Cái đó gọi là
Thiền Thượng Sĩ vững)
 
Cuối cùng là bài kệ Thân như do Thiền tông bản hạnh 15b4-5 chép:
 
Thân như hô hấp tỡ trung khí
Thế tợ phong hành lĩnh ngoại vân
Đỗ quyên đề đoạn nguyệt như trú
Bất thị tầm thường không quá xuân
 
(Thân như hơi thở ra vào mũi
Đời tựa gió luồn mây núi xa
Đỗ quyên rền rĩ trăng ngày sáng
Đừng để tầm thường xuân luống qua)
 
Bài kệ này hai câu sau nguyên có trong bài giảng của vua Trần Nhân Tông tại chùa Sùng Nghiêm. Nhưng hai câu đầu không biết Chân Nguyên lấy ở đâu, để cho ta bài kệ tứ tuyệt vừa thấy. Tuy thế, đây là một bài thơ khác cần được ghi nhận.
 
Vậy, tổng số thơ của vua Trần Nhân Tông là 32 bài, cộng với ba đoạn phiến. Những sưu tập lớn về sau như Toàn Việt thi lục của Lê Quý Đôn cũng không có thêm một bài nào mới, thậm chí không có được số lượng như ta vừa thấy. Tuy nhiên, bây giờ nếu ta trích hết tất cả các bài thơ chữ Hán nguyên vẹn hay đoạn phiến của vua Trần Nhân Tông hiện nằm rải rác trong các bài phú, văn xuôi và bài giảng, con số không chỉ có 31 bài và ba đoạn phiến, bởi vì chỉ riêng hai bài Cư trần lạc đạo phú Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca, ta có thêm hai bài thơ chữ Hán. Rồi trong văn xuôi tức bài Thượng sĩ hành trạng, ta có bài Tán Tuệ Trung. Đến các bài giảng thì tối thiểu ta có hai bài thơ hoàn chỉnh, đó là bài thơ dài bốn chữ Hữu cú vô cú và bài thơ tứ tuyệt Hàm huyết trong buổi giảng tại chùa Sùng Nghiêm núi Chí Linh. Về bài giảng tại viện Kỳ Lân cũng ở núi Chí Linh, ta có bài thơ Nhược vị. Ngoài ra trong hai bài giảng này có nhiều đoạn phiến thơ hai câu mà ta có thể đếm tới con số 32. Vậy, nếu tính hết, tổng số thơ của vua Trần Nhân Tông lên tới 34 bài hoàn chỉnh và 35 đoạn phiến. Tuy nhiên, vì các bài thơ và đoạn thơ nằm trong các bài giảng và bài văn xuôi, nên khi tách ra, sẽ mất đi một phần nào ý nghĩa toàn cảnh, làm cho chúng trở nên khó hiểu. Do thế, trong Toàn tập này, chúng tôi để nguyên chúng trong các bài giảng văn xuôi. Người đọc có thể tự tìm lấy khi cần.
 
Về thơ của vua Trần Nhân Tông, với số lượng 32 bài nguyên vẹn và ba đoạn phiến, khi in lại nguyên bản Hán văn của chúng, chúng tôi lấy bản in năm 1729 của Việt âm thi tập làm bản đáy. Những bài thơ và đoạn phiến không có trong Việt âm thi tập, mà có trong ĐVSKTTNam ông mộng lục, chúng tôi dùng Nội các quan bản của ĐVSKTT và bản in Kỷ lục vựng biên của Nam ông mộng lục do Thẩm Tiết Phủ sưu tầm và Dương Tiễn Trần thị khắc vào năm 1617, mà sau này Tùng thơ tập thành sơ biên đã in lại và Trung Hoa thư cục xuất bản vào năm 1985. Còn những bài có trong Thánh đăng ngữ lục, Thượng sĩ ngữ lục Thiền tông bản hạnh thì chúng tôi dùng truyền bản của những bản in năm 1750, 1745 và 1903. Những truyền bản khác như Toàn Việt thi lục, Hoàng Việt thi tuyển, Trần triều thế phả hành trạng Lịch triều hiến chương loại chí chỉ dùng để làm khảo dị.
 
Việc sắp xếp thứ tự các bài thơ trong phần dịch tiếng Việt đúng ra phải dựa vào trật tự thời gian ra đời của chúng.Thực tế, trong số 32 bài thơ của vua Trần Nhân Tông hiện biết, phần lớn, ta có thể sắp xếp chúng theo thứ tự thời gian. Tuy nhiên, vì sắp xếp theo thứ tự thời gian ấy cũng không giúp ta hiểu thêm gì mới về vua Trần Nhân Tông, và vì để cho người đọc tiện theo dõi phần nguyên bản chữ Hán, cho nên ở đây chúng tôi sắp xếp các bài thơ dịch, dựa trên thứ tự của Việt âm thi tập. Những bài nào không có trong Việt âm thi tập, mà số lượng chỉ có 7 bài thơ nguyên vẹn và 3 đoạn phiến, thì chúng tôi xếp sau các bài thơ ở Việt âm thi tập, dù biết rằng có những bài thơ hay đoạn phiến vua Trần Nhân Tông viết rất sớm so với một số bài có trong Việt âm thi tập. Để cho tiện việc theo dõi, chúng tôi đánh số thứ tự các bài thơ từ 1 đến 35, bắt đầu với Việt âm thi tập, sau khi trả bài Hạnh thiên trường về cho thơ văn vua Trần Thánh Tông. Gặp những bài thơ nào không có đầu đề, chúng tôi lấy hai chữ khởi đầu của bài thơ để đặt tên.
 
2. Phú
 
Về phú, ta hiện có hai bài viết bằng tiếng Việt biết dưới tên Cư trần lạc đạo phú Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca, mà bản in xưa nhất hiện còn là do sa di ni Diệu Thuần thực hiện theo sự chỉ đạo của thầy là thiền sư Liễu Viên vào năm Cảnh Hưng thứ 6 Ất Sửu (1745) tại chùa Liên Hoa ở kinh thành Thăng Long. Đây là bản in xưa nhất và in sau bản Thiền tông bản hạnh của thiền sư Chân Nguyên (1647-1726) từ tờ 22 a1 đến 31a2 gồm 10 tờ. Mỗi tờ 2 trang, mỗi trang 8 dòng, mỗi dòng 17 chữ. Những dòng có lời chú in bằng cỡ chữ nhỏ thành hai dòng, nhưng số chữ mỗi dòng không thay đổi, nên mỗi dòng có ghi chú lên tới 34 chữ. Chữ khắc đẹp, chân phương, rõ ràng và dễ đọc.
 
Sau lần in này, đến năm Gia Long thứ tư (1805), thiền sư Huệ Thân đã cho khắc lại, nhưng đến thời thiền sư Thanh Hanh (1840 -1936) thì bản gỗ của lần in này không còn. Cho nên, vào năm 1932 ông đã cho khắc bản in lại tại chùa Vĩnh Nghiêm ở Bắc Giang. Đây là truyền bản thứ hai ta hiện có về hai bài phú vừa nói của vua Trần Nhân Tông. Quá trình truyền bản là như vậy. Hai bài phú của vua Trần Nhân Tông không phải “im hơi lặng tiếng trong suốt mấy trăm năm để rồi mãi đến những năm 30 của thế kỷ này mới xuất hiện”. Không những thế, Cư trần lạc đạo phú đã được chính Chân Nguyên trích dẫn trong Kiến tính thành Phật lục và Kiến tính thành Phật lục lại được trùng san vào năm Chính Hòa thứ 19 (1698). Vậy từ giữa thế kỷ thứ 17 trở đi Cư trần lạc đạo phú đã được lưu hành khá rộng rãi.
 
Trong thế kỷ này, nó đã được nhiều người tập trung nghiên cứu. Sau khi thiền sư Thanh Hanh cho in mộc bản vào năm 1932, thì đến năm 1942 Hoa Bằng đã cho phiên âm ra quốc ngữ và công bố trên báo Tri Tân. Tiếp theo, Đào Duy Anh cho nghiên cứu tình trạng văn bản và xác nhận hai bài phú vừa nói là văn bản thuộc đời Trần. Cơ sở chủ yếu cho việc xác nhận này là dựa vào công tác phân tích văn thể, tự dạng và từ vựng. Về văn thể, Cư trần lạc đạo phú được viết theo lối phú của thời Đường, nhưng đối và vần còn lỏng lẻo, khi so với các bài phú của thời Trần mạt và Lê sơ. Về tự dạng thì lối viết giả tá còn chiếm ưu thế đối với hình thanh. Còn về từ vựng, các bài phú này có nhiều từ xưa, mà khi so với các tác phẩm quốc âm đời sau như Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi, ít còn thấy dùng tới. Đồng thời với Đào Duy Anh, Hoàng Xuân Hãn cũng nghiên cứu các tác phẩm này của Trần Nhân Tông và đi đến cùng một kết luận. Đặc biệt Hoàng Xuân Hãn là người duy nhất sở hữu được truyền bản xưa nhất của hai văn bản này, đó là bản in năm 1745 của sa di ni Diệu Thuần, mà Đào Duy Anh không có, khi làm công tác xác nhận vừa nêu. Nói chung, trong học giới không ai đặt vấn đề về tác quyền của vua Trần Nhân Tông về hai tác phẩm ấy.
 
Vậy thì, về Cư trần lạc đạo phúĐắc thú lâm tuyền thành đạo ca, hiện tại ta sở hữu được hai truyền bản, đó là bản in 1745 và 1932. Trong khi in lại nguyên bản quốc âm của hai bài phú này, chúng tôi dĩ nhiên chọn in lại nguyên bản của bản in năm 1745. Bản in năm 1932 chỉ dùng làm khảo dị.
3. Bài giảng

Về bài giảng, ta hiện có hai bài, được giảng vào hai đợt khác nhau. Đó là bài giảng vào năm Giáp Thìn (1304) tại chùa Sùng Nghiêm và bài giảng năm Bính Ngọ (1306) tại viện Kỳ Lân. Bài giảng trước được ghi lại trong Thánh đăng ngữ lục và không ai bàn cãi về tác quyền của vua Trần Nhân Tông đối với bài giảng này. Nhưng bài giảng ở viện Kỳ Lân, vì được chép chung trong sách Thiền đạo yếu học, mà người ta giả thiết là một tên khác của Tham thiền yếu chí do Pháp Loa viết, nên có người cho bài giảng này, ngoài phần Niêm hương, là do Pháp Loa giảng. Nói cách khác, đây là bài giảng của Pháp Loa. Tuy nhiên, nếu nghiên cứu kỹ bài giảng ấy, ta thấy có những câu trả lời gần giống câu trả lời có trong bài giảng năm 1304, thậm chí có những câu hoàn toàn đồng nhất. Chẳng hạn, khi vị tăng hỏi: “Dùng công án cũ làm gì?”, câu trả lời là: “Mỗi lần nêu ra, một lần mới”. Câu trả lời đây cũng là câu đáp lại câu hỏi: “Dùng đờm dãi của người xưa làm gì?”. Rõ ràng những câu hỏi và đáp tương tự thế này cho phép ta coi bài giảng năm 1306 tại viện Kỳ Lân cũng do vua Trần Nhân Tông thực hiện, nhưng do Pháp Loa chép lại trong tác phẩm Thiền đạo yếu học của mình như một mẫu hình tham vấn thiền cho người đọc tham khảo. Vì vậy, chúng tôi đề nghị xếp bài giảng ấy vào hệ tác phẩm của Trần Nhân Tông.
 
Về truyền bản dùng để in lại nguyên văn hai bài giảng trên, thì đối với bài giảng năm 1304, chúng tôi dùng bản in năm 1750 biết dưới tên Việt quốc Yên Tử sơn Trúc Lâm chư tổ thánh đăng ngữ lục. Bản Thánh đăng ngữ lục này, ngày trước chúng tôi có một bản in chỉ có bài tựa của thiền sư Chân Nghiêm ghi lại quá trình đóng góp để thực hiện bản in ấy, trong đó có công đóng góp của vua quan nhà Mạc, đặc biệt là Đà Quốc Công Mạc Ngọc Liễn và các công chúa. Đây có thể là bản in đời Mạc còn lại. Vì nó không giống với bản in năm 1750 và bản Thánh đăng ngữ lục mà Gaspardone giới thiệu trong Bibliographie Annamite, ([1]) mang ký hiệu AC. 604, vì bản này được ghi rõ ràng in vào năm Tự Đức thứ nhất (1848). Nhưng sau năm 1984 bản của chúng tôi bị lấy mất. Dù ai có lấy, thì cũng vì lợi ích của học thuật nước nhà, xin công bố ra, để người lưu tâm tới văn học, tư tưởng và lịch sử Phật giáo Việt Nam có cơ hội sử dụng được văn bản xưa. Còn bài giảng kia thì nằm trong Tam tổ thực lục, bản in năm 1903, mà sau này Tổng hội Phật giáo Bắc kỳ in dập lại trong Việt Nam Phật điển tùng san. Trong khi in lại nguyên văn chữ Hán hai bài giảng ấy, chúng tôi sử dụng bản Thánh đăng ngữ lục năm 1750 cho bài giảng thứ nhất và bản Tam tổ thực lục năm 1905 cho bài giảng thứ hai.
 
4. Ngữ lục

Ngữ lục là những phát biểu của vua Trần Nhân Tông trong các cuộc đón tiếp sứ giặc do sứ giặc ghi lại. Những ghi lại này không hoàn toàn trung thực, điều ấy là chắc chắn. Tuy nhiên, chúng có thể cung cấp một cái nhìn về phong khí của một thời và cách ứng xử của vua Trần Nhân Tông dưới con mắt kẻ thù. Đồng thời, chúng cũng có thể cho ta thấy quan điểm của vua theo quan điểm đối phương. Vì thế, trong phần Ngữ lục, chúng tôi cho trích hai đoạn phát biểu của vua Trần Nhân Tông trước và sau hai cuộc chiến tranh vệ quốc 1285 và 1288. Ta sẽ thấy quan điểm nhất quán của vua là đấu tranh không nhân nhượng, không bao giờ chịu khuất phục vào chầu Hốt Tất Liệt, dù nó có đòi hỏi bao nhiêu đi nữa.
 
Hai đoạn ngữ lục, một trích từ buổi đãi yến Sài Thung vào năm 1278 chép trong An Nam truyện của Nguyên sử 209 tờ 4a12-b2. Còn đoạn kia phát biểu trong bữa tiệc đãi Trương Lập Đạo năm 1291, chép trong Trương thượng thư hành lục của An Nam chí lược 3 tờ 47. Nguyên bản dùng để in lại chúng là lấy từ hai tác phẩm vừa nói.
 
5. Văn xuôi

Về văn xuôi của vua Trần Nhân Tông, ta hiện có bản tiểu sử của Tuệ Trung Thượng Sĩ Trần Quốc Tung, biết dưới tên Thượng sĩ hành trạng in vào cuối sách Thượng sĩ ngữ lục cùng với những bài tán tụng của môn nhân thượng sĩ như bài tán của chính vua Trần Nhân Tông, của Pháp Loa, Bảo Pháp, Tông Cảnh, Thiên Nhiên, Pháp Cổ, Huệ Nghiêm và Pháp Đăng với lời bạt của tướng Trần Khắc Chung. Bản hành trạng này không đề tên người viết. Nhưng căn cứ vào nội dung, nó dứt khoát phải do vua Trần Nhân Tông chấp bút, vì đã nói tới việc gặp tang của Nguyên Thánh mẫu hậu và tác giả phải chính thức đi mời thượng sĩ Tuệ Trung. Nhờ việc đi mời này, tác giả đã có một cuộc nói chuyện về thiền với thượng sĩ và sau đó thì được ấn chứng. Vấn đề tác quyền của vua Trần Nhân Tông đối với bản hành trạng này cũng không ai đặt ra. Chỉ có người dịch Thượng sĩ ngữ lục là Trúc Thiên, khi đến đoạn cho người đi mời thượng sĩ Tuệ Trung, chua thêm người đi mời là Pháp Loa. ([2]) Pháp Loa sinh năm 1284 và Tuệ Trung thượng sĩ mất năm 1291. Dứt khoát không bao giờ Pháp Loa có thể “nguyện đội ơn dạy dỗ của thượng sĩ”. Đây là một lời chua thiếu cẩn thận và người ta có thể phát hiện một cách dễ dàng sự sai trái của nó.
 
Bản in Thượng sĩ ngữ lục xưa nhất, mà ngày nay còn có được, là bản in năm Chính Hoà thứ tư (1683) do thiền sư Tuệ Nguyên chùa Long Động núi Yên Tử đề tựa. Bản in ấy về sau đã được in lại một lần thứ hai vào năm Cảnh Hưng 24 (1763). Truyền bản lần in 1763 này sau đó đã được thiền sư Thanh Cừ nhận lại từ sư cụ Thanh Lân và cho in lại vào năm Thành Thái thứ 15 (1903) và do thiền sư Thanh Hanh đề tựa. Bản in năm Thành Thái 15 sau đó đã được Tổng hội Phật giáo Bắc kỳ cho in ập lại trong bộ Việt Nam Phật điển tùng san vào năm 1943. Và đây là bản được phổ biến rộng rãi nhất ngày nay. Do hiện chúng tôi chưa sở hữu được bản in năm 1683, nên trong khi in lại, chúng tôi chỉ sử dụng bản in năm 1943.
 

[1] E. Gaspardone, Bibliographie Annamite, Bulletin de l’École Franổaise d’Éxtrême- Orient XXXII (1932) 144.
[2] Thượng sĩ Huệ Trung, Ngữ lục, Tu thư Đại học Vạn Hạnh, 1969,tr. 175.
Khảo dị và chú thích
 
Tác phẩm của vua Trần Nhân Tông tồn tại nhiều truyền bản khác nhau như đã thấy trên. Cho nên, về mặt văn bản học, chúng tôi đưa ra nhiều vấn đề. Điều may mắn là đa số các tác phẩm này xuất hiện trong các truyền bản tương đối xưa. Chúng đa số được chép hoặc in vào thế kỷ 18. Cụ thể, về thơ, ta có bản in của Việt âm thị tập của năm Bảo Thái thứ 10 (1729). Về phú, bản in Thiền tông bản hạnh của sa di ni Diệu Thuần thực hiện vào năm Cảnh Hưng thứ 6 (1745). Về bài giảng, nằm trong bản in năm Cảnh Hưng thứ 11 (1750) của Thánh đăng ngữ lục. Về ngữ lục, văn thư ngoại giao, chúng tôi cơ bản sử dụng các tư liệu Trung Quốc như Nguyên sử, Trần Cương trung thi tập, Thiên nam hành ký An Nam chí lược. Những tác phẩm này, chủ yếu là những bản in xưa hay là những bản chép tay ở thế kỷ 18 trở về trước. Vì thế về mặt khảo dị, chúng tôi giới hạn tối đa khi sử dụng những bản in hay chép tay của những thế kỷ sau. Nói thẳng ra, trừ những trường hợp cần thiết, chúng tôi mới sử dụng những bản in chép tay hậu kỳ này khi phiên âm hay dịch nghĩa các tác phẩm của vua Trần Nhân Tông công bố trong toàn tập.
 
Về chú thích, chúng tôi chỉ chú thích những từ cổ và một số điển tích ngữ học. Còn các điển tích khác như về địa danh, nhân danh lưu hành trong các kinh điển trong hay ngoài Phật giáo, chúng tôi sẽ không chú thích. Lý do nằm ở chỗ nếu giải thích các điển cố ấy, sẽ có một lượng từ rất lớn mà không gian Toàn tập này không cho phép. Thực tế, chỉ riêng đối với tiếng Việt như 2 bài phú, Cư trần lạc đạo và Đắc thú lâm tuyền, ta có thể làm một cuốn từ điển nhỏ cỡ 300 trang. Chúng tôi hy vọng sẽ có những nghiên cứu sâu hơn về các tác phẩm của vua Trần Nhân Tôngtrong tương lai theo từng cụm một. Khi đó những loại điển cố trên sẽ được chú thích chi tiết và đầy đủ. 
 
•••••
Tiếng nói của dân tộc ta chắc chắn tồn tại từ lâu lắm rồi. Nhưng phải tới cuối thời kỳ triều đại Hùng Vương, tức vào khoảng những thế kỷ trước và sau tây lịch, ta mới có một số thông tin về tiếng nói này qua bài Việt ca và một số cấu trúc được tìm thấy trong Lục độ tập kinhTạp thí dụ kinh. ([1]) Đặc biệt hai bản kinh vừa nói có khả năng đã tồn tại như những bản kinh tiếng Việt đầu tiên mà ta hiện biết, và đã lưu hành vào những thế kỷ đầu sau tây lịch, tối thiểu cho tới lúc Khương Tăng Hội (? - 280) dịch ra tiếng Trung Quốc. Vào thời điểm này, tiếng Việt đã phát triển phong phú và đa dạng, đến nỗi Sĩ Nhiếp (137-226) tương truyền đã viết bộ từ điển Hán Việt đầu tiên được biết, đó là Chỉ nam phẩm vựng hai cuốn. Đà phát triển này vẫn tiếp tục tới cuối thế kỷ thứ tư với sự ra đời các tác phẩm có thể coi như tự điển chữ Việt và cách thức ghi âm chữ Việt biết dưới tên Tá âmTá âm tự của Đạo Cao (370 -450?) ([2]).
 
Rồi sau đó tiếng Việt như một văn tự vẫn tiếp tục được sử dụng mạnh mẽ. Dân ta đã dùng tên Bố Cái Đại Vương để gọi cho người anh hùng Phùng Hưng.Và khi nền độc lập dân tộc được phục hưng, các triều đại có khả năng đã dùng tiếng Việt để ban bố các mệnh lệnh hành chánh của triều đình cho dân chúng. Ta có thể mạnh dạn đưa ra giả thiết này nhờ vào một sự cố giữa hàn lâm phụng chỉ Đinh CủngViên và hành khiển Lê Tòng Giáo năm 1288, theo đó có lệ cũ là phải viết và đọc chiếu chỉ của vua bằng hai thứ tiếng, tiếng Việt và tiếng Hán. Như thế, đến giữa thế kỷ thứ 13 tiếng Việt như một văn tự đã thực hiện mọi chức năng của nó. Điều bất hạnh là do thiên tai và địch họa, hàng loạt các tác phẩm viết bằng tiếng nói của dân tộc ta từ những bản kinh đầu tiên như Lục độ tập kinh và các bản chiếu chỉ của nhà vua cho đến các tác phẩm văn học như Tiều ẩn quốc ngữ thi tập của Chu Văn An đã bị tán thất.
 
Bài thơ tiếng Việt tương truyền đầu tiên hiện biết là bài Giáo trò cho các buổi hát chèo thường được gắn cho tên tuổi của thiền sư Đạo Hạnh (? -1117). Vì đây là một bài thơ ngắn chỉ gồm 32 chữ và vấn đề văn bản học vẫn chưa được xác định rõ ràng, cho nên nhiều nghi vấn đã đặt ra. Chỉ đến thời vua Trần Nhân Tông, với hai tác phẩm của mình là Cư trần lạc đạo phú và Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca cùng Vịnh Vân Yên tự phú của Huyền Quang (1254 -1334) và Giáo tử phú của Mạc Đĩnh Chi (1284 -1361), nền văn học tiếng Việt mới có những tác phẩm đầu tiên hoàn chỉnh của mình còn được bảo tồn đến ngày nay. Vị trí văn học của vua Trần Nhân Tông do thế đối với dân tộc ta rất là vĩ đại.
 
Phú Cư trần lạc đạo

Không phải là một ngẫu nhiên của lịch sử mà vinh dự này thuộc về con người Trần Nhân Tông. Phần trên, ta đã thấy sự nghiệp và con người vua Trần Nhân Tông, một sự nghiệp văn trị và võ công quá lớn lao, đến nỗi qua thời gian và sự phá hoại của kẻ thù vẫn không làm phai mờ đi được trong tâm thức của những người dân Việt. Chính họ đã giữ gìn các tác phẩm văn học ấy cho ta, trong số hàng trăm hàng ngàn các tác phẩm tiếng Việt khác đã ra đời cùng thời với chúng, mà bây giờ ta chỉ biết tên, chứ không biết chúng có nội dung cụ thể là gì. Nói khác đi, công ơn của Trần Nhân tông đối với dân tộc ta quá sâu đậm, nhờ thế những tác phẩm như Cư trần lạc đạo phú, Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca đã được trân trọng và giữ gìn.
 
Thế nhưng, không phải chỉ vì công ơn và uy tín cá nhân của vua Trần Nhân Tông, mà hai tác phẩm ấy được trân trọng và giữ gìn. Hai tác phẩm đó được trân trọng và giữ gìn còn vì giá trị nội tại của bản thân chúng, đặc biệt là Cư trần lạc đạo phú. Có thể nói Cư trần lạc đạo phú là một bản tuyên ngôn của con đường sống đạo, mà Phật giáo Việt Nam đã đề ra và đã chi phối cuộc sống của hàng triệu triệu người Phật tử Việt Nam thời vua Trần Nhân Tông và những thế kỷ sau. Nó cũng là một trong số ít tác phẩm Phật giáo Việt Nam được trích dẫn đích danh như một quyền uy, khi thiền sư Chân Nguyên trình bày những vấn đề Phật giáo cho vua Lê Chính Hòa vào khoảng những năm 1692 trong Kiến tính thành Phật lục. ([3]) Vì thế tư tưởng của Cư trần lạc đạo phú đã giúp một phần nào cho sự tồn tại của nó trong quá trình truyền đạt.
 
Ít lắm là trong khoảng 300 năm trở lại đây, thế kỷ nào Cư trần lạc đạo phú và Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca cũng đều được in và phổ biến rộng rãi. Bản in xưa nhất chúng ta hiện còn là bản in năm 1745 do sa di ni Diệu Liên vâng lệnh thầy mình in lại và bản gỗ lưu lại chùa Liên Hoa ở kinh đô Thăng Long. Nó được in kèm chung sau tác phẩm Thiền tông bản hạnh của Chân Nguyên ở những tờ 47 -57. Trong bản in này có kèm theo Vịnh Hoa Yên tự phú của Huyền Quang và Ngộ đạo nhân duyên kệ của chính Chân Nguyên. Việc in kèm theo như thế này chứng tỏ văn bản mà ni cô Diệu Liên dùng để in, chắc chắn phải đến từ một truyền bản của thiền sư Chân Nguyên, nghĩa là từ một truyền bản của nửa cuối thế kỷ thứ 17. Trước thế kỷ đó, số phận của Cư trần lạc đạo phú thế nào ta hiện nay chưa có một thông tin nào cả.
 
Nếu trước thế kỷ thứ 17 ta hiện chưa có thông tin gì về truyền bản của Cư trần lạc đạo phúĐắc thú lâm tuyền thành đạo ca thì sau thế kỷ thứ 18, tức sau lần in của ni cô Diệu Liên, vấn đề truyền bản của hai tác phẩm này tương đối rõ ràng. Trong lời dẫn cho lần in năm 1930 của Thiền tông bản hạnh, thiền sư Thanh Hanh (1840 -1936) cho biết vào năm Gia Long thứ 12 (1814) bản Thiền tông bản hạnh đã được in lại, và cùng với nó chắc chắn phải có Cư trần lạc đạo phúĐắc thú lâm tuyền thành đạo ca.
 
Hơn nữa khi thiết lập bản mục lục các kinh sách Phật giáo lưu hành vào nửa đầu thế kỷ thứ 19 trong Đạo giáo nguyên lưu quyển thượng tờ 5a6, An Thiền có ghi tên một tác phẩm gọi là Trần triều thập hội lục. Rõ ràng Thập hội lục của triều Trần chính là 10 hội của Cư trần lạc đạo phú.
 
Trong vòng hơn 300 năm trở lại đây, Cư trần lạc đạo phúĐắc thú lâm tuyền thành đạo ca đã được in nhiều lần. Điều này chứng tỏ tư tưởng Cư trần lạc đạo vẫn tiếp tục được học tập và truyền bá dù Phật giáo cũng như đất nước đang chuyển mình qua một giai đoạn mới. Giá trị lý luận của tư tưởng Cư trần lạc đạo từ đó vẫn còn có sức hấp dẫn mạnh mẽ, đặc biệt là vào cuối thế kỷ thứ 18 với những chiến công Ngọc Hồi, Đống Đa oanh liệt của quân và dân Tây Sơn, trong đó nổi bật những gương mặt Phật tử tự nhận mình là người kế thừa truyền thống Trúc Lâm, như binh bộ thượng thư Tỉnh Phái Hầu Ngô Thời Nhiệm, là thiền sư Hải Lượng, Hương Lĩnh Bá tiến sĩ Nguyễn Đăng Sở, là thiền sư Hải Âu v..v...
 
Hơn 300 năm qua, Cư trần lạc đạo phú và Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca đã được trân trọng, giữ gìn và học tập như thế, thì chắc chắn hơn 300 năm trước nó cũng có chung một diễm phúc. Bởi vì nếu không có diễm phúc ấy, thì qua ngọn lửa đốt sách bạo tàn của giặc Minh xâm lược trong gần 20 năm chiếm đóng, chúng chắc chắn đã chịu chung một số phận với các tác phẩm của dân tộc ta thời Lý Trần về trước. Hơn nữa, thời Lê sơ và thời Mạc là thời kỳ Phật giáo phục hưng mạnh mẽ trong phong trào dân tộc hóa với việc dịch kinh sách ra tiếng Việt như Đại báo phụ mẫu ân trọng kinh của thiền sư Viên Thái, việc in lại các tác phẩm sử học Phật giáo như Nam tông tự pháp đồ của trạng nguyên Lương Thế Vinh, Thánh đăng ngữ lục của thiền sư Chân Nguyên, và đặc biệt việc thiết định và cổ xúy dùng tiếng Việt của thiền sư Pháp Tính trong Chỉ nam ngọc âm giải nghĩa.
 
Trong một thời kỳ Phật giáo hoạt động sôi nổi và mạnh mẽ như vậy, việc học tập và nghiên cứu hai tác phẩm vừa nêu của vua Trần Nhân Tông chắc chắn đã xảy ra. Điều đáng tiếc là, cho đến lúc này ta vẫn chưa tìm ra một thông tin nào xác nhận về sự hiện diện của hai tác phẩm ấy trong giai đoạn đó. Dẫu thế, chúng chắc chắn đã được lưu truyền để đến cuối thế kỷ thứ 17 Chân Nguyên mới có dịp trích dẫn trong Kiến tính thành Phật của mình. Nói khác đi chúng đã nằm trong dòng chủ lưu của nền văn học và tư tưởng tiếng Việt. Cho nên, như đã nói, thật là một vinh dự cho nền văn học tiếng Việt của nước ta đã bắt đầu với ngòi bút của một anh hùng dân tộc có những chiến công oanh liệt như Trần Nhân Tông và với những tác phẩm đã có một tác động sâu rộng trên truyền thống dân tộc, chứ không phải chỉ của Phật giáo, như Cư trần lạc đạo phú Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca.
 
Hai tác phẩm này thuộc loại văn học luận đề. Chúng là những bản văn chính luận tập trung trình bày một số vấn đề tư tưởng và lý luận. Chúng đã dùng tiếng Việt như một ngôn ngữ để phát biểu những tư tưởng trừu tượng tương đối khó nắm bắt một cách khéo léo và dễ hiểu. Từ đó tiếng Việt đã trở thành một ngôn ngữ đủ khả năng chuyển tải bất cứ nội dung tư tưởng khác nhau nào và có một vẻ đẹp của riêng nó. Nhờ thế, các tác phẩm ấy không những đã lôi cuốn được sự chú ý của người đương thời, mà còn có sức hấp dẫn đối với hậu thế. Tiếng Việt tự bản thân nó đã trở thành một ngôn ngữ văn học. Đây chính là một trong những cống hiến lớn, mà hai tác phẩm này đã mang lại cho văn học Việt Nam.
 
Để có được hai tác phẩm ấy vào cuối thế kỷ thứ 13, tiếng Việt từ bao đời, hơn cả ngàn năm trước, từng là một ngôn ngữ văn học. Chúng đã kế thừa những thành tựu và tinh hoa của nền văn học trong hơn ngàn năm đó, nên đến ngày nay mỗi khi đọc lại, chúng ta vẫn cảm thấy chúng gần gũi, đẹp đẽ và dễ hiểu, khác hẳn với những câu văn ngọng nghịu khó chịu do người ngoại quốc ghi lại mới chỉ cách ta hơn 300 năm. Thực tế để có được giọng văn lý luận như đã xuất hiện trong Cư trần lạc đạo phúĐắc thú lâm tuyền thành đạo ca, tiếng Việt đã trải qua hàng ngàn năm thử thách và sử dụng, chứ không phải đến thời vua Trần Nhân Tông nó mới bắt đầu được đưa vào sự nghiệp sáng tác của thơ văn.
 
Quả vậy, nếu tiếng Việt không tồn tại trong hơn một ngàn năm đó, đối lập lại với tiếng Hán và trở thành một trong những bức trường thành chặn đứng mưu đồ Hán hóa do các nhà nườc Trung Quốc trong cùng thời gian đã ra sức quyết tâm thực hiện, thì dân tộc ta ngày nay cũng không còn, chứ nói chi đến một nền độc lập nhà nước và một tiếng nói riêng biệt. Do thế, Cư trần lạc đạo phúĐắc thú lâm tuyền thành đạo ca là một kết tụ của những nỗ lực phi thường và đầy gian khổ trong quá trình đấu tranh bi tráng để bảo vệ dân tộc và giữ vững chủ quyền quốc gia. Giá trị văn học của hai tác phẩm này từ đó càng nhân lên gấp bội.
 
Do tính kết tụ vừa nói, không một ngôn ngữ nào trên thế giới bỗng chốc có thể nhảy lên vũ đài văn học, để trở thành một ngôn ngữ văn học. Ngay cả những ngôn ngữ lớn có văn bản lâu đời trên thế giới như tiếng Hán, tiếng Phạn, Hy Lạp v.v… cũng đều trải qua một quá trình kiểu ấy, để từ những văn bản bói quẻ thô sơ hoặc những bài ca vịnh đơn giản, mà tiến lên thành những ngôn ngữ văn học nổi tiếng trên thế giới. Tiếng Việt ta cũng thế. Để có những tác phẩm lý luận có vẻ đẹp văn học như Cư trần lạc đạo phúĐắc thú lâm tuyền thành đạo ca, nó cũng đã trải qua một quá trình kết tụ lâu dài từ bài Việt ca đầu tiên được biết cho đến các mẩu chuyện trong Lục độ tập kinhTạp thí dụ kinh, cho đến bài Giáo trò của thiền sư Đạo Hạnh. Cả quá trình sử dụng thành thạo và nhuần nhuyễn tiếng nói dân tộc đã tạo cơ hội cho sự ra đời của hai tác phẩm vừa nêu.
 
Sự xuất hiện của tiếng Việt như một ngôn ngữ văn học, do thế, là một quá trình đấu tranh gian khổ đầy thử thách và nguy cơ. Qua quá trình đấu tranh đó, tiếng Việt đã chứng tỏ tính ưu việt của mình, làm tiền đề cho sự xuất hiện của Cư trần lạc đạo phú Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca. Không qua một quá trình như thế thì không bao giờ có được những tác phẩm kể trên. Đây là điểm mà những người nghiên cứu văn học Việt Nam từ trước đến nay chưa bao giờ chú ý tới. Người ta cứ loay hoay đi tìm nguồn gốc chữ Nôm trong mấy bản văn bia còn lại của thời Lý Trần, rồi cứ đẩy lên đẩy xuống thời điểmợ ra đời của thứ chữ này trong khoảng từ thế kỷ thứ 8 cho đến thế kỷ thứ 13. Họ quên rằng để vào cuối thế kỷ thứ 13 có các tác phẩm như Cư trần lạc đạo phú Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca thì tiếng Việt và chữ Việt phải xuất hiện rất sớm, ít lắm cũng năm bảy trăm năm trở lên. Đây là một quá trình bắt buộc có tính khách quan đối với bất cứ ngôn ngữ nào, chứ không phải chỉ riêng tiếng Việt ta. Vì vậy, nghiên cứu hai tác phẩm này chính là nghiên cứu quá trình kết tụ của nó.
 

 
[1] Lê Mạnh Thát, Lục độ tập kinh và Lịch sử khởi nguyên dân tộc ta, Tu thư Đại học Vạn Hạnh 1972, tr.254-321; Khương Tăng Hội toàn tập, I, Tu thư Đại học Vạn Hạnh 1975, tr.172-188.
[2] Lê Mạnh Thát, Lịch sử Phật giáo Việt Nam, tập I, NXB Thuận Hóa 1999, tr. 474 - 490.
[3] Lê Mạnh Thát, Kiến tính thành Phật lục, trong Chân Nguyên thiền sư toàn tập, Tu thư Đại học Vạn Hạnh, 1982, tr. 72.
Ngày nay, ta không biết đích xác vua Trần Nhân Tông đã viết hai tác phẩm ấy vào thời điểm nào. Nhưng chắc chắn là Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca, qua nội dung của chính nó, phải được vua Trần Nhân Tông viết vào thời gian sau khi đã sống ở núi Yên Tử, tức sau tháng 8 năm Kỷ Hợi (1299), năm mà ĐVSKTT đã ghi “Thượng hoàng từ phủ Thiên Trường lại xuất gia vào núi Yên Tử tu khổ hạnh”, vì bài ca này đã nói tới việc:
 
Yên bề phận khó
Kiếm chốn dưỡng thân
Khuất tĩnh non cao
Náu mình sơn dã
Vượn mừng hủ hỷ
Làm bạn cùng ta
Vắng vẻ ngàn kia
Thân làm hỷ xả...
Đem mình náu tới
Cảnh vắng ngàn kia
Dốc chí tu hành
Giấy sồi bô bả.
 
Viết như thế này, rất gần với những gì mà Huyền Quang tả về chùa Vân Yên và cuộc sống của vua Trần Nhân Tông ở đây:
 
Cảnh tốt hòa lành
Đồ tựa vẽ tranh
Chỉn ấy trời thiêng mẽ khéo
Hèn chi vua Bụt tu hành...
Chim óc bạn cắn hoa nâng cúng
Vượn bồng con kề cửa nghe kinh
Nương am vắng Bụt hiện từ bi,
gió hiu hiu mây nhè nhẹ
Kề song thưa thầy ngồi thiền định,
trăng vằng vặc núi xanh xanh...
Mặc cà sa, nằm trướng giấy,
màng chi châu đầy lẫm, ngọc đầy rương.
Quên ngọc thực, bỏ hương giao
cắp nạnh cà một vò, tương một hũ...
Thầy tu trước đã nên Phật quả
Tiểu tu sau còn vị tỳ kheo.
 
Còn Cư trần lạc đạo phú, thì thật khó mà xác định vua Trần Nhân Tông đã viết ra vào lúc nào trong cuộc đời mình. Có người bảo là nó được viết ra trước lúc vua đi xuất gia, tức trước năm 1299. Chắc hẳn khi nói thế họ đã dựa vào hai câu mở đầu của bài phú này:
 
Mình ngồi thành thị
Nết dụng sơn lâm
 
để khẳng định vua Trần Nhân Tông đang còn sống ở thành Thăng Long, mà lòng vua đã hoàn toàn an nhàn tự tại như sống ở rừng núi. Nhưng cũng chính trong bài phú đó ở Hội thứ 5 ta đã gặp:
 
Thiền ngỏ năm câu, nằm nhãng trong quê Hà Hữu
Kinh xem ba biến, ngồi ngơi mái quốc Tân La
Trong đạo nghĩa, khoáng cơ quan,
đà lọt lẫn trường kinh cửa tổ
Lánh thị phi, ghê thanh sắc,
ngại chơi bời dặm liễu đường hoa
Áo miễn chăn đầm ấm qua mùa,
hoặc chằm hoặc xể
Cơm cùng cháo, đói no đòi bữa, dầu bạc dầu thoa
 
Viết như thế rõ ràng đây không phải là cuộc sống cung đình thị thành, mà là cuộc sống dân dã rừng núi. Cho nên, thật khó mà dựa vào nội dung của bài phú này để xác định thời điểm ra đời của nó. Điều chắc chắn là nó được viết vào lúc vua Trần Nhân Tông đã có ít nhiều quan tâm đến núi Yên Tử. Ta biết trong Phật giáo đời Trần, Yên Tử có vị thế trung tâm. Thời ông nội mình là vua Thái Tông đã từng tới đó. Khi còn trẻ vua Nhân Tông cũng đã có ý định lên sống ở đó. Dẫu sao đi nữa, chủ trương “Cư trần lạc đạo, Trần tục mà nên” vẫn đóng vai trò mà từ năm 1287, khi Tuệ Trung Trần Quốc Tung đã ấn chứng cho vua, thì chủ trương đó càng trở nên rõ rệt. Nói cách khác, thời điểm ra đời của Cư trần lạc đạo phú phải từ sau năm 1287 trở đi và chắc chắn là sau năm 1288, khi quân thù đã bị quét sạch khỏi bờ cõi và cả nước đang ra sức lao động để kiến tạo cuộc sống ấm no cho gia đình và bản thân người dân.
 
Bộ từ vựng của Cư trần lạc đạo phú gồm cả thảy 1688 hạng từ, kể luôn các tên đầu đề, tên các hội và bài thơ chữ Hán kết thúc bài phú. Nếu chỉ kể riêng số từ vựng trong các hội thì nó chỉ gồm 1623 hạng từ, trong đó có những hạng từ Việt xuất hiện khá nhiều lần như lòng (18 lần), cho (13 lần), chẳng (13 lần), mới (12 lần, hay 11 lần), Bụt (10 lần) v..v… Và số 1623 hạng từ này nếu chúng ta thiết lập một bản từ gồm những tên người, tên đất, những từ chuyên môn và những từ phiên âm, chúng ta còn số hạng từ ít hơn nữa, tức khoảng hơn 1400 từ. Chẳng hạn các từ như Thích Ca, Di Đà, Di Lặc, bát nhã, chiêm bặc, chiên đàn, bồ đề, bồ tát, đàn việt, ưu đàm, Câu Chi, Diễn Nhã Đạt Đa. Đấy là những từ phiên âm của tiếng Phạn và chúng ta chỉ có 12 hạng từ thay vì 26 hạng từ khi tách rời chúng ra thành từng hạng từ một. Các từ chuyên môn như bát phong, bát thức, cực lạc,đại thừa, tiểu thừa, hữu lậu, kim cương, vô lậu, lục căn, lục tặc, tam độc, tam thân, tam tạng, tam huyền, tam yếu, tam nghiệp, tịnh độ, thái bình, thượng sĩ, trí tuệ, tri âm, tri thức, tri kiến, tri cơ, trượng phu, trưởng lão, viên giác, vô thường, vô minh, vô sinh, vô tâm, vô vi cũng thế. Nếu đưa chúng vào những hạng mục từ, ta chỉ có 32 hạng từ thay vì có đến 64. Các tên đất, tên người như Yên Tử, Cánh Diều, Hà Hữu, Hùng Nhĩ, Tân La, Thiên Trúc, Thiếu Lâm, Tào Khê, Thiếu Thất, Lư Lăng, Phá Táo, Thạch Đầu, Lâm Tế, Bí Ma, Thuyền Tử, Đạo Ngô, Thiều Dương, Triệu Lão, Thiên Cang, Thái Bạch cũng vậy.
 
Với số lượng trên dưới 1400 từ này, ta có một bộ từ vựng tương đối phong phú để nghiên cứu ngôn ngữ của dân tộc ta vào thời vua Trần Nhân Tông. Và đó là chỉ mới kể số hạng từ có trong Cư trần lạc đạo phú. Nếu gộp luôn số hạng từ của Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca, mà số lượng lên đến 336, trong đó trừ những trùng lặp đã có đến 238 hạng từ. Gộp chung lại với Cư trần lạc đạo phú, ta sẽ có một bộ từ vựng với gần 2000 từ, tức cỡ loại từ điển nhỏ, và cho ta một nhận thức tương đối hoàn chỉnh về ngôn ngữ dân tộc ta vào thời đại Trần Nhân Tông, tức thế kỷ thứ 13, cách chúng ta gần 700 năm.
 
Thơ Trần Nhân Tông

Đến đây chúng ta cần phân tích sơ bộ hai tác phẩm viết bằng tiếng Việt của vua Trần Nhân Tông. Nhưng sự nghiệp văn học của nhà vua không chỉ giới hạn vào các tác phẩm tiếng Việt. Nhà vua còn là tác giả của 30 bài thơ và đoạn thơ, 22 lá thư viết cho vua quan nhà Nguyên cùng hai bài giảng ở chùa Sùng Nghiêm và viện Kỳ Lân. Trong hai bài giảng này cũng có một số bài thơ và đoạn thơ dùng để trả lời cho các câu hỏi mà người đối thoại đã đặt ra, và vẫn chưa được kê vào số lượng thơ và đoạn thơ của vua Trần Nhân Tông. Nói thế tức cũng muốn nói số lượng tác phẩm vua Trần Nhân Tông còn lại cho chúng ta ngày nay không phải là ít, dù rằng phần lớn chúng đều được viết bằng chữ Hán.
 
Với sự nghiệp thơ văn chữ Hán của vua Trần Nhân Tông, hầu hết những nhà nghiên cứu từ trước đến nay đều thống nhất coi vua Trần Nhân Tông là một “tên tuổi lẫy lừng” trong lãnh vực hoạt động sáng tạo này. Thực tế, đọc các bài thơ chữ Hán do vua Trần Nhân Tông sáng tác, người ta không thể không cảm nhận những vẻ đẹp khác nhau của đất nước, từ một buổi chiều làng quê yên tĩnh cạnh nơi ở của hoàng gia tại phủ Thiên Trường ở đồng bằng sông Hồng:
 
Xóm trước thôn sau tợ khói nhòa
Nửa không nửa có mé chiều sa
Mục đồng sáo vẳng trâu về hết
Cò trắng từng đôi ruộng xuống sà
 
(Thôn hậu thôn tiền đạm tợ yên
Bán vô bán hữu tịch dương biên
Mục đồng địch lý quy ngưu tận
Bạch lộ song song phi hạ điền)
 
Cho đến một ngôi chùa tại Lạng Châu thuộc miền trung du Bắc bộ:
 
Chùa cổ đìu hiu thu khói mờ
Thuyền câu chiều quạnh tiếng chuông đưa
Nước quang non lặng bay âu trắng
Gió đứng mây đùa cây đỏ thưa.
 
(Cổ tự thê lương thu ái ngoại
Ngư thuyền tiêu sắt mộ chung sơ
Thủy minh sơn tĩnh bạch âu quá
Phong định vân nhàn hồng thụ sơ)
 
Ngay trong cuộc sống thường nhật, một ánh trăng ban đêm cùng tiếng rơi tí tách của sương thu trên lá cây trước sân nhà và xa xa tiếng chày nện vải từ một ngôi làng dệt nào đưa tới đã gợi nên những xao xuyến trong tâm hồn, cảm thấy vẻ đẹp của một đất nước thanh bình
 
Đầy sách giường song chếch bóng đèn
Sân thu sương bủa thoáng hơi đêm
Tiếng chày thức dậy đâu không biết
Hoa mộc trên cành trăng mới lên.
 
(Bán song đăng ảnh mãn sàng thư
Lộ trích thu đình dạ khí hư
Thụy khởi châm thanh vô mịch xứ
Mộc tê hoa thượng nguyệt lai sơ)
 
Nhưng cuộc đời vua Trần Nhân Tông không giống cuộc đời những ông vua sinh ra, lớn lên, rồi thụ hưởng một đất nước thái bình. Năm vua ra đời cũng chính là thời điểm vua Trần Thái Tông vừa đánh tan đạo quân xâm lược thứ nhất của đế chế Nguyên Mông lần đầu tiên tiến công nước ta, dưới sự chỉ huy của một tên tướng khét tiếng tàn bạo Ngột Lương Hợp Thai (Uryangqadai). Hơn 20 năm tiếp theo là một cuộc đấu tranh gian khổ về ngoại giao nhằm vừa bảo vệ chủ quyền đất nước, vừa mang lại nền hòa bình để cho người dân có cơ hội lao động sinh sống, và đất nước chuẩn bị tiềm lực để chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu.
 
Kịp đến khi lên ngôi vào tháng 10 năm Mậu Dần (1278) thì vua Trần Nhân Tông đã phải trực tiếp đối phó với những tên sứ giả “uốn tấc lưỡi cú diều mà lăng nhục triều đình, đem tấm thân dê chó mà khinh rẻ tể phụ”, như Trần Hưng Đạo đã mô tả. Thế là cả nước phát động một phong trào chuẩn bị diệt giặc cứu nước. Tuy hào khí Nguyên Phong của cuộc chiến tranh năm Đinh Tỡ (1257) vẫn còn đó, mà nhà vua cảm thấy khi đến thăm lăng mộ của ông nội mình vào một ngày xuân trước cuộc chiến tranh 1285.
 
Hùm gấu nghiêm nghìn cửa
Áo mão bảy phẩm đầy
Lính bạc đầu còn đó
Nguyên Phong mãi kể say
 
(Tỉ hổ thiên môn túc
Y quan thất phẩm thông
Bạch đầu quân sĩ tại
Vãng vãng thuyết Nguyên Phong)
 
Và hơn ai hết, bản thân vua Trần Nhân Tông đã từng cầm quân xông pha trận mạc. Thực tế, ta đã thấy nhà vua đã từng trực tiếp chỉ huy những trận đánh lớn, sống gần gũi với tướng lĩnh và binh sĩ, nên dễ cảm thông, thương xót cho những người vợ phải sống lẻ loi, khi người chồng vì nhiệm vụ phải ra mặt trận ở một nơi xa xôi nào đó của tổ quốc.
 
Ngủ dậy vén rèm hoa thấy rơi
Hoàng ly không hót giận xuân rồi
Lầu tây vô cớ vầng dương lặn
Bóng ngả về đông hoa lẫn chồi.
 
(Thụy khởi câu liêm khán trụy hồng
Hoàng ly bất ngữ oán đông phong
Vô đoan lạc nhật tây lâu ngoại
Hoa ảnh chi đầu tận hướng đông)
 
Chiến tranh vệ quốc chống lại các thế lực xâm lược lớn mạnh hơn ta rất nhiều lần, còn gợi lên những nỗi buồn như thế, huống nữa những cuộc chiến tranh để bảo vệ an ninh biên giới do các thế lực nhỏ yếu hơn ta quấy phá. Trong một bài thơ viết nhân chiến dịch bình định Ai Lao vào mùa xuân năm Canh Dần (1290), mà vì nghĩa vụ bảo vệ cuộc sống an lành cho nhân dân và một biên cương ổn định cho tổ quốc, vua Trần Nhân Tông phải cầm quân đi đánh dẹp. Thế mà vua vẫn tỏ ra không thích thú gì:
 
Hoa sóng tung lên buồm gấm bay
Dưới mui đầu mệt chẳng buồn quay
Mây chiều Tam Giáp nhạn không đến
Trăng sáng Cửu Than rồng có đây
Lạnh lẽo đường đi cung mộng cũ
Ngổn ngang sầu vướng rượu ly đầy
Hán hoàng mang tiếng say chinh chiến
Vội vã nam nhi chi lắm vầy.
 
(Cẩm phàm khinh sấn lãng hoa khai,
Bồng để yêm yêm thủ bất đài.
Tam giáp mộ vân vô nhạn đáo,
Cửu than minh nguyệt hữu long lai.
Thê lương hành sắc thiêm cung mộng,
Liêu loan nhàn sấu đáo tửu bôi.
Hán Vũ phiêu chiêu cùng độc báng,
Nam nhi cấp cấp nhược vi tai).
 
Một cuộc chiến tranh do vua chủ trương vì lợi ích chung như ĐVSKTT 5 tờ 58b5 -59a1 đã ghi: “Vua thân chinh Ai Lao. Triều thần nói: ‘Giặc Nguyên vừa rút lui, vết thương chưa khỏi sao có thể dấy binh’. Vua nói: ‘Chỉ có thể vào lúc này mới ra quân được, vì sau khi giặc rút lui thì ba vùng (Ai Lao, Chiêm Thành và Chân Lạp - LMT) tất cho quân ngựa và của cải ta bị tan mất, thế không thể tránh khỏi được, sẽ có sự khinh nhờn đối với ta, cho nên đem đại quân đi để thị uy’. Quần thần đều nói: ‘Vua há không biết dân mệt sao, mà chỉ vì có việc đáng lo lớn hơn thế nữa’. Đó là thánh nhân lo xa, chẳng phải bọn thần nghĩ kịp được”.
 
Việc đem quân đi thị uy đối với Ai Lao, chỉ vì quyền lợi của đất nước mà vua Trần Nhân Tông phải làm. Và thực tế chỉ chưa tới 4 năm sau khi đã truyền ngôi cho con là Anh Tông và trở thành Thượng hoàng, vua Trần Nhân Tông còn phải thân chinh Ai Lao một lần nữa, vào tháng 8 năm Giáp Ngọ (1294) với sự tham gia của các tướng Phạm Ngũ Lão, Trung Thành Vương. Mối đe dọa của Ai Lao đối với biên cương Đại Việt như thế không phải là không có. Và việc đánh dẹp Ai Lao như thế là một yêu cầu của an ninh quốc gia. Thế mà, dù bài thơ vừa trích được làm vào chiến dịch Ai Lao năm 1290 hay 1294, nó vẫn toát lên một sự chán ghét đối với chiến tranh, đối với cái mà người thường gọi là “cùng binh độc vũ”, tức dùng chiến tranh để thỏa mãn những tham vọng cá nhân của người lãnh đạo.
 
Trong cuộc đời mình, vua Trần Nhân Tông đã từng sống qua hai cuộc chiến tranh tàn khốc, nên hơn ai hết đã hiểu thế nào là những nỗi khổ do chiến tranh đem lại cho phía ta cũng như phía địch. Việc sử dụng chiến tranh để chống lại chiến tranh chỉ là một biện pháp bất đắc dĩ, khi mọi biện pháp khác không thể dùng được nữa. Do vậy, tự thâm tâm vua Trần Nhân Tông không bao giờ tán thành chiến tranh. Và sự không tán thành này xuất phát từ một cái nhìn về tính chung đồng loại của những con người dù ở chiến tuyến nào đi nữa, họ cũng đều có xúc cảm, suy nghĩ, nguyện vọng giống nhau. Không ít người từ hơn 500 năm trở lại đây, đã ca ngợi tính nhân bản và cao thượng của hành động cởi ngự bào phủ lên thủ cấp của tên tướng giặc Toa Đô, vừa bị quân ta chém đầu trong trận Tây Kết thứ hai năm 1285, do chính bản thân vua Trần Nhân Tông trực tiếp chỉ huy.
 
Từ một sự chán ghét chiến tranh như vậy, vua Trần Nhân Tông tập trung mọi nỗ lực của mình để xây dựng một nền hòa bình lâu dài, không chỉ cho đất nước và dân tộc mình, mà còn cho các dân tộc và quốc gia láng giềng, đặc biệt là đất nước và nhân dân Trung Quốc. Ngay khi khói lửa của cuộc chiến tranh năm 1288 đang còn vướng vất trên các chiến trường Thăng Long, Bạch Đằng, lúc tiếp phái bộ Lưu Đình Trực và Lý Tư Diễn, do Hốt Tất Liệt gửi qua để đòi lại các tướng tá giặc như Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp, Sầm Đoạn do ta bắt được, vua Nhân Tông đã nói đến
 
Khí hòa góc đất đều lan tới
Bụi chiến sông trời rửa sạch trơn.
 
(Thác khai địa giác giai hòa khí
Tịnh hiệp thiên hà tẩy chiến trần)
 
Trong bài thơ tiễn đưa phái bộ này, thể hiện ý chí và nguyện vọng bảo vệ và xây dựng hòa bình của nhân dân Đại Việt và của chính bản thân nhà vua. Đây là một nội dung đặc biệt của thơ văn vua Trần Nhân Tông, bộc lộ một sự tha thiết đối với hòa bình. Thật cũng lạ, một con người đã từng chỉ đạo, trực tiếp tham gia chiến tranh và đã có những chiến thắng oanh liệt. Vậy mà qua thơ văn vẫn luôn luôn biểu hiện một ước ao nóng bỏng đối với hòa bình. Điều này cũng có nghĩa vua Trần Nhân Tông không bao giờ coi chiến tranh như một nấc thang để bước lên đài danh vọng, để đi tới bến vinh quang. Suốt cuộc đời, ngay cả sau khi xuất gia, vua cũng luôn lao động miệt mài cho hòa bình, nhất là một nền hòa bình ở biên cương phía Nam của tổ quốc tiếp giáp với nước Chiêm Thành.
 
Trước đây, nhiều người thường cho giai đoạn vua Trần Nhân Tông xuất gia là giai đoạn nhà vua rút lui khỏi cuộc đời, khỏi xã hội, “càng tu hành càng xa với thực tế xã hội, càng xa với ý muốn cứu khổ cứu nạn của Phật tổ”. Thế mà chính trong giai đoạn xuất gia này của nhà vua, biên cương của Đại Việt đã nối dài trên 200 cây số, và nền hòa bình Việt Chiêm đã duy trì được gần mấy chục năm, làm tiền đề cho sự nghiệp Nam tiến của dân tộc ngày càng phát triển dồn dập như cơn thủy triều đang buổi dâng lên của nó. Cũng có người đọc hai câu thơ:
 
Phải trái lòng theo hoa sớm rơi
Lợi danh tâm lạnh tối mưa thôi
 
Đã không biết đặt chúng vào trong bối cảnh lý luận của tư tưởng vua Trần Nhân Tông, rồi vội vã bình luận đấy là những “câu thơ cực kỳ chán đời”, thể hiện “tư tưởng hư vô chủ nghĩa triệt để, bắt nguồn từ trong triết học Phật giáo... trong chế độ điền trang, sự phú quý cực độ của nhiều nhà chùa và tất cả sự suy đồi của nó”. Bình luận thế là họ đã quên vua Trần Nhân Tông là một trong “những tên tuổi lẫy lừng nhất” của những nhà thơ nhà văn đời Trần. Và những tên tuổi lẫy lừng nàỵ “đều bộc lộ một niềm tin, một tinh thần quyết thắng và một ý chí kiên cường qua một loạt vần thơ bất hủ”. Cho dù những bình luận trên được phát biểu vì mục đích gì, có phần nào gây nhiễu loạn thông tin hoặc sai lệch quá khứ đi chăng nữa, thì sự nghiệp vua Trần Nhân Tông, những đóng góp của cá nhân và triều đại nhà vua đối với dân tộc là không thể phủ nhận, là giai đoạn đáng ghi công, đáng tự hào của lịch sử dân tộc Việt Nam.
 
Ta đã thấy trong tư tưởng của vua Trần Nhân Tông có một cái nhìn về thời gian một chiều, một ngày đã qua là không bao giờ trở lại, như một bài thơ của Tuệ Trung Thượng Sĩ Trần Quốc Tung đã từng nói tới:
 
Trăng lặn trời tây khôn bóng lại
Nước trôi đổ biển sóng đâu quây
 
(Tây nguyệt trầm không nan phục ảnh
Đông lưu phó hải khởi hồi ba)
 
Cho nên đối với bản thân mình cũng như đối với mọi người, thời gian trở nên rất quý báu, cuộc đời con người quá ngắn ngủi cho một công việc phải làm:
 
Thời gian dễ trôi qua
Mạng người khôn dừng lại
 
(Thời quang dung dị quá
Nhân mạng bất định lưu).
 
Vì thế, sự sống trở nên quý giá. Một ngày đi qua không bao giờ chúng ta có lại. Chúng ta phải huy động toàn bộ thời gian cho những việc có ích cho mình cũng như cho người. Ta tưởng tượng dân tộc ta vào thời đó sống vội vã dồn dập. Họ sống vội vã dồn dập không phải vì cuộc sống là một đày ải mà ta cố hưởng lạc để cho xong đời. Họ sống vội vã dồn dập vì cuộc sống quá quý báu, không thể để nó trôi qua một cách vô vị, phí hoài. Chưa bao giờ trong lịch sử dân tộc ta thấy ánh lên một sự thôi thúc cho cuộc sống, cảm thấy nếu mình để mất đi một phút giây là mất đi một phần của sự sống. Họ hối hả xây dựng, chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ cuộc sống và gia đình họ. Cả một đất nước tràn ngập, chứa chan sự lạc quan yêu đời. Chính vì quá lạc quan yêu đời mới cảm thấy thời gian dễ mất đi và cuộc sống của chúng ta không bao giờ trở lại, như vua Trần Nhân Tông thường nhắc nhở:
 
Đỗ quyên rền rĩ trăng ngày sáng
Đừng để tầm thường xuân luống qua
 
(Đỗ quyên đề đoạn nguyệt như trú
Bất thị tầm thường không quá xuân)
 
Lâu nay nhiều người thường cho rằng quan niệm thời gian của phương Đông là một quan niệm thời gian vòng tròn, thời gian luân hồi, cứ thịnh suy bĩ thái, rồi thịnh suy bĩ thái kế tục nhau, giống như xuân hạ thu đông, rồi xuân hạ thu đông. Nhưng họ đâu biết rằng bên cạnh quan niệm thời gian vòng tròn ấy, còn hiện diện quan niệm thời gian một chiều. Cứ mỗi ngày đi qua là một ngày vĩnh viễn mất đi không bao giờ trở lại, giống như mặt trăng lặn về phía tây rồi không bao giờ có mặt trăng thứ hai của nó. Tổ tiên ta từ xưa đã có một quan niệm thời gian rất gần với quan niệm thời gian của thời hiện đại chúng ta. Có người đã diễn tả quan niệm thời gian này bằng một hình ảnh rất sống động. Đó là thời gian giống như chiếc xe. Chiếc xe chỉ có một hướng đi tới, giống như thời gian một chiều. Nhưng để chiếc xe đi tới được thì phải có 4 chiếc bánh quay tròn bên dưới nó. Cũng vậy, thời gian một chiều đi tới, nhưng nó đi tới trên những thời gian vòng tròn, tức xuân hạ thu đông, tức thịnh suy bĩ thái.
 
Xuất phát từ quan niệm thời gian như vậy, mà trong chiến tranh đất nước Đại Việt đã làm nên một chiến công Chương Dương, Hàm Tử, Tây Kết, Bạch Đằng oanh liệt. Và trong thời bình họ đã xây dựng nên một cuộc sống chỉ mấy năm sau chiến tranh với những cánh đồng lúa trĩu hạt, những nương dâu xanh ngắt bốn mùa và những chiếc cầu thượng gia hạ kiều, đã làm cho tên sứ Nguyên Trần Phu phải nể phục. Quân và dân Đại Việt đã sống theo những gì mà vua Trần Nhân Tông đã đề ra trong Cư trần lạc đạo phú.
 
Dựng cầu đò, xây chiền tháp,
Ngoại trang nghiêm sự tướng hãy tu...
Ngay thờ chúa, thảo thờ cha,
Đi đỗ mới trượng phu trung hiếu.
 
Dân tộc ta vào thời đại Trần Nhân Tông đã chiến đấu và xây dựng hăng say như thế, thực tế không phải vì danh vì lợi, vì thị vì phi, mà chính vì bản thân cuộc sống. Cuộc sống ngắn ngủi mà họ cho là đáng quý, đáng sống, cho nên người dân Đại Việt cố gắng sống xứng đáng với cuộc sống quý giá ngắn ngủi của mình. Chính vua Trần Nhân Tông cũng đã nói đến việc “chuộng công danh, lồng nhân ngãi, thực ấy phàm ngu” trong Cư trần lạc đạo phú. Cho nên ta không ngạc nhiên khi ở tại sơn phòng vua Trần Nhân Tông đã cảm xúc và viết ra bài thơ:
 
Phải trái lòng theo hoa sớm rơi
Lợi danh tâm lạnh mưa đêm thôi
Hoa tàn, mưa tạnh, non im ắng
Một tiếng chim kêu xuân hết rồi
 
(Thị phi niệm trục triêu hoa lạc
Danh lợi tâm tùy dạ vũ hàn
Hoa tận, vũ tình sơn tịch tịch
Nhất thanh đề điểu hựu xuân tàn)
 
Quên danh, quên lợi, quên thị phi, vua Trần Nhân Tông vẫn nhớ đến mùa xuân. Và chỉ một tiếng chim hót vào một buổi sáng nào đó, sau trận mưa đêm làm hoa rụng hết, đã làm vua giật mình, mùa xuân đã qua rồi. Thời gian trôi đi chóng vánh, mới ngày nào đó năm cũ mới hết, vậy mà mùa xuân bây giờ đã không còn thấy nữa. Cảm thức thời gian này là một trong những cảm thức đã chi phối mọi suy nghĩ và hành động của chính bản thân vua Trần Nhân Tông. Trong Cư trần lạc đạo phú vua hằng mong.
 
Nửa ngày rồi, tự tại thân tâm
 
Thế mà công việc cứ dồn dập đổ tới tưởng như không bao giờ dứt. Ngay cả khi vua đến sống những nơi có vẻ như xa lánh hết mọi buộc ràng, công việc vẫn theo nhau kéo tới. ĐVSKTT 6 tờ 37a5-9 kể chuyện: “Nguyễn Quốc Phụ làm nội thư chính chưởng, là cận thần của vua Trần Nhân Tông. Trong khoảng Hưng Long (1293 -1314), chức hành khiển thiếu người, Thượng hoàng (tức vua Trần Anh Tông, LMT) chầu vua Nhân Tông ở chùa Sùng Nghiêm. Vua Nhân Tông bảo Quốc Phụ làm được, Thượng hoàng thưa: ‘Nếu lấy ngôi thứ mà nói thì được, nhưng chỉ thích uống rượu thôi’, vua Nhân Tông không nói gì. Bèn không dùng”. Và ta cũng thấy ở trên, trước lúc đi sứ ở Chiêm Thành vào tháng 10 năm Kỷ Mão (1303) Đoàn Nhữ Hài đến gặp vua Trần Nhân Tông cũng tại chùa Sùng Nghiêm này.
 
Một cuộc sống đầy ắp những công việc như thế, rõ ràng không vì lợi cho bản thân mình, và tất nhiên càng không thể vì danh. Có gì là lợi, khi bản thân mình thì “mặc cà sa nằm trướng giấy”, “cà một vò tương một hũ”, lợi đã không có thì làm gì có danh. Vì danh thường kết với lợi. Nhưng nói thế không phải để buông xuôi. Chỉ có vấn đề là không đặt chúng thành mục đích của cuộc sống. Cuộc sống của vua Trần NhânTông và nhân dân Đại Việt thời đại ấy có một mục đích khác, đó là “tự tại thân tâm”, là “an nhàn thể tính”. Nói theo ngôn ngữ hiện đại, đó là một sự theo đuổi hạnh phúc. Nhưng hạnh phúc là gì, thì mỗi người phải tự trả lời lấy. Vua Trần Nhân Tông đã xuất gia trên núi Yên Tử cũng như trong khi cầm quân chiến đấu với giặc thù ở Tây Kết, có thể vua đã cảm thấy mình tự tại an nhàn. Ai giới hạn mình mà mình không tự tại nếu không phải là chính mình. Ai ngăn trở mình mà mình không an nhàn nếu không phải là chính mình. Mình phải cải tạo chính mình và thế giới để tạo cho mình tự tại và an nhàn. Đây chính là thông điệp mà thơ văn Trần Nhân Tông đã gửi đến cho chúng ta hôm nay và bao nhiêu thế hệ trước nữa:
 
Ai buộc mà đi giải thoát tìm
Không phàm sao phải kiếm thần tiên
Vượn đùa ngựa mỏi người già phải
Như cũ am mây một sập thiền
 
(Thùy trược cánh tương cầu giải thoát
Bất phàm hà tất mích thần tiên
Viên nhàn mã quyện nhân ưng lão
Y cựu vân trang nhất tháp thiền)
 
Cuộc đời vua Trần Nhân Tông và thông qua cuộc đời này, ta thấy nhân dân Đại Việt lúc ấy đã sống vui vẻ trong đất nước mình, hăng say lao động và chiến đấu để bảo vệ cuộc sống ấy. Họ không tìm một thế giới khác để thoát ly, một thế giới khác để mơ tưởng tới. Cuộc sống ở đời này quá ngắn ngủi đối với ho,ợ nên họ cố sống cho hết những giây phút vàng ngọc của cuộc đời ấy qua từng chi tiết nho nhỏ của nó. Có thể đó là những đĩa bánh cuốn mà vua Trần Nhân Tông đãi tên sứ giả giặc Trương Lập Đạo vào những ngày vừa mới quét sạch quân thù ra khỏi đất nước.
 
Xong múa giá chi, thử áo xuân
Hôm nay huống gặp tiết Cỏ xanh
Đầy mâm bánh cuốn như hồng ngọc
Phong tục từ xưa của nước Nam
 
(Thác chi vũ bãi thí xuân sam
Huống trĩ kim triêu tam nguyệt tam
Hồng ngọc đôi bàn xuân thái bĩnh
Tùng lai phong tục cựu An Nam)
 
Hay chỉ đơn giản đứng tựa lan can lặng lẽ ngắm nhìn núi xa vào một buổi chiều:
 
Chim hót nhởn nha hoa liễu dày
Bóng thềm nhà vẽ mây chiều bay
Chuyện đời khách đến thôi không hỏi
Cùng tựa lan can ngắm núi mây
 
(Dương liễu hoa thâm điểu ngữ trì
Họa đường thiền mẫn mộ vân phi
Khách lai bất vấn nhân gian sự
Cọng ỷ lan can khán thúy vi)
 
Thơ văn chữ Hán của vua Trần Nhân Tông đúng đã thể hiện được “một sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa cảm quan triết học và cảm quan thế sự, có tinh thần lạc quan, yêu đời, tấm lòng vị tha của một nhân cách cỡ lớn và sự rung động tinh tế, lòng yêu tự do thích thảng của một nhà nghệ sĩ”, chứ không phải chỉ chứa đựng những ý tưởng “cực kỳ chán đời” như có người đã nhận xét. Vị thế văn học của vua Trần Nhân Tông từ đó là rất lớn. Với Cư trần lạc đạo phúĐắc thú lâm tuyền thành đạo ca, vua Trần Nhân Tông là người mở đầu một giai đoạn văn học mới của lịch sử văn học Việt Nam, đó là giai đoạn văn học, mà tiếng Việt là chủ ngữ. Không những thế, với những vần thơ chữ Hán và những tác phẩm văn xuôi sắc sảo, vua Trần Nhân Tông đã cống hiến cho ta những cảm thụ mới mẻ về những vấn đề muôn đời của con người như thời gian và sự sống.
Văn xuôi Trần Nhân Tông
 
Trên đây, chúng ta mới đề cập đến mảng văn tiếng Việt và thơ chữ Hán của vua Trần Nhân Tông. Vua còn có một mảng văn chữ Hán mà cho đến nay chưa được công bố và nghiên cứu chưa đầy đủ. Đó là 22 lá thư vua Trần Nhân Tông đã viết gửi cho vua quan nhà Nguyên, trong cuộc đấu tranh chính trị và ngoại giao với chúng để bảo vệ chủ quyền đất nước, và kéo dài thời gian để củng cố và phát triển lực lượng nhằm đối phó với cuộc chiến tranh do kẻ thù áp đặt. Trong số những lá thư này, có những lá còn giữ được nguyên vẹn, có những lá chỉ còn đoạn phiến. Điểm đặc biệt là chúng hầu hết được bảo tồn trong các tư liệu Trung Quốc, chủ yếu là Nguyên sử, Thiên Nam hành ký, Trần Cương Trung thi tập và An Nam chí lược. Phía các sử liệu nước ta hình như không bảo lưu một văn bản nào. Có chăng thì cũng chép lại văn bản từ các tác phẩm vừa nêu.
 
Đọc những lá thư này, điểm đầu tiên dễ nhận thấy nhất là quan điểm trước sau như một của vua Trần Nhân Tông: Quan điểm không chịu đầu hàng giặc, không chấp nhận đánh mất chủ quyền quốc gia bằng cách thỏa mãn đòi hỏi của Hốt Tất Liệt, yêu cầu vua phải đích thân vào chầu tại Đại Đô ở Trung Quốc. Hốt Tất Liệt đã dùng nhiều mánh khóe lý luận khác nhau, từ lời dụ dỗ đường mật về quan tước mà y hứa ban cho, cho tới những lời đe dọa dùng vũ lực, và trên thực tế y đã hai lần dùng vũ lực để thực hiện ý đồ của mình, nhưng hoàn toàn thảm bại trước sức chiến đấu ngoan cường của quân và dân Đại Việt dưới sự lãnh đạo của vua Trần Nhân Tông. Không những thế, vua Trần Nhân Tông còn vạch trần bộ mặt giả nhân giả nghĩa của những lý lẽ mà Hốt Tất Liệt đưa ra.
 
Chẳng hạn, Hốt Tất Liệt khoe khoang rằng y đối đãi rất nồng hậu với những người chịu đến chầu, coi họ như con cái mà y có trách nhiệm thương yêu. Những sứ giả do y cử đến, đều nói lòng thương của y bao la như trời biển phủ khắp mọi nơi. Chúng thường dùng tới câu “Nhất thị đồng nhân”, tức đem lòng nhân từ ra mà thương yêu khắp hết mọi người như nhau cả. Trước những luận điệu ấy, vua Trần Nhân Tông vạch ra rằng, nếu Hốt Tất Liệt có lòng thương như thế, thì tại sao phải bắt vua vào chầu? Bắt vua vào chầu, lỡ dọc đường chết phơi xương thì thế nào? Điều đó chắc chắn làm tổn thương đến lòng nhân của hoàng đế thiên triều. Ta sẽ thấy trong các lá thư hai lý luận này thường được nêu ra để trả lời tại sao vua ta không chịu vào chầu Hốt Tất Liệt.
 
Vua Trần Nhân Tông hiểu rõ hơn bất cứ ai rằng, vào chầu tức đầu hàng giặc, tức đem chủ quyền quốc gia mà trao cho giặc. Cho nên về điểm này nhà vua dứt khoát không có sự nhượng bộ nào. Hốt Tất Liệt tưởng dùng vài ba lá thư có thể khuất phục được ý chí cương quyết bảo vệ chủ quyền quốc gia của vua Trần Nhân Tông. Nhưng y đồng thời cũng biết rằng, vài ba lá thư với lời lẽ dụ dỗ đường mật thế nào đi nữa, cũng không thể khuất phục được ý chí bảo vệ chủ quyền ấy. Cho nên, bên cạnh những lá thư đó, y đã vung sẵn lưỡi gươm qua hai lần liên tiếp xua quân tiến đánh nước ta với đám tướng lĩnh dày dạn kinh nghiệm chiến trường và hàng chục vạn quân binh thuyền bè. Vậy mà y đã thất bại thảm hại.
 
Những lá thư viết cho các viên chức nhà Nguyên, mà chủ yếu là viết cho phái bộ Lương Tăng đến nước ta vào năm 1293, cũng thế. Đây là những lá thư vừa mềm mỏng, vừa đanh thép, lên án chính sách giả nhân giả nghĩa vừa nói, vạch trần những âm mưu đen tối nằm đằng sau những lời lẽ có vẻ quang minh chính đại. Một mặt khác, những lá thư này cho thấy thái độ khinh thường của triều đình ta đối với những kẻ đại diện cho thiên triều và thử thách khả năng chịu đựng của chúng. Trong An Nam tức sự của Trần Cương Trung thi tập 2 tờ 34a3-4, Trần Phu đã kể lại việc sứ bộ của y ngay khi đến nước ta đã bị triều đình Đại Việt đưa đi theo những con đường mới phát quang nhằm gây nỗi kinh hoàng cho chúng: “Sứ thần đến nước ấy, lại không đi theo lối cũ, đều phải đục núi mở đường, trèo vượt quanh co, ý là muốn tỏ ra xa hiểm”. Chúng biết thế, mà đành phải ngậm miệng đi theo, không dám đưa ra bất cứ một đòi hỏi nào.
 
Rồi khi đến Thăng Long, chúng phải qua nhiều lần đấu tranh, chúng mới được đi vào cửa Dương Minh, tức là cửa chính Nam của kinh thành, thay vì phải đi vào cửa Vân Hội hay cửa Nhật Tân mà triều đình ta đề nghị, như Lương Tằng truyện của Nguyên sử 178 tờ 1b3-6 đã ghi: “Tháng giêng năm Chí Nguyên 30 (1293) đến An Nam, Nước đó có 3 cửa. Giữa gọi là Dương Minh, trái gọi là Nhật Tân và phải gọi là Vân Hội. Bồi thần ra đón ngoài thành, sắp do cửa Nhật Tân để đi vào. Tăng rất giận, nói: ‘Đón chiếu không do cửa giữa, thế là ta làm nhục mệnh vua’. Liền trở về sứ quán. Thế rồi, mời mở cửa Vân Hội để đi vào. Tăng lại cho là không thể được. Rồi mới tự cửa Dương Minh đón chiếu vào. Tăng trách Nhật Tôn không tự mình ra đón chiếu”.
 
Đây có thể nói là những đòn nắn gân phái bộ thiên triều. Đòn nắn gân này trước đó vua Trần Nhân Tông đã cho Sài Thung nếm thử vào năm vua mới lên ngôi (1278), khi vua thiết yến hắn tại hành lang. Hắn tức giận trở về sứ quán. Đến khi vua ta báo sẽ thết tại điện Tập Hiền thì hắn mới đến, như An Nam truyện của Nguyên sử 209, tờ 4a11-12 đã ghi: “Nhật Huyên theo lệ cũ, thết yến ở dưới hành lang. Bọn Thung không chịu đến dự yến. Khi đã trở về sứ quán, Nhật Huyên sai Phạm Minh Tự đưa thư tạ lỗi, đổi thết yến đến điện Tập Hiền”.
 
Phái bộ Trương Lập Đạo đến nước ta vào năm 1291 cũng nếm thử những đòn này, dù sau đó vua Trần Nhân Tông đã tiếp đãi chúng rất vui vẻ, như chính bản thân Trương Lập Đạo đã ghi nhận trong Trương thượng thư hành lục do tên Việt gian Lê Thực chép lại trong An Nam chí lược 3 tờ 45-47.
 
Hai mươi hai lá thư vua Trần Nhân Tông viết cho vua quan nhà Nguyên, do thế, là một tập văn đáng cho chúng ta đọc để thấy cuộc đấu tranh ngoại giao và tư tưởng đầy cam go và thử thách giữa ta và kẻ thù. Chúng thể hiện ý chí sắt đá không chỉ của vua Trần Nhân Tông, mà của cả dân tộc ta trong việc bảo vệ chủ quyền quốc gia, cương quyết không nhượng bộ kẻ thù bất cứ dưới hình thức nào. Chúng vì vậy, có thể coi như mở đường cho sự ra đời của loại văn phục vụ trực tiếp sự nghiệp đấu tranh chính trị và quân sự, mà sau này Nguyễn Trãi nhân danh Lê Lợi đã thực hiện trong Quân trung từ mênh tập.
 
Loại văn này có đặc trưng của nó. Lời văn phải vừa tao nhã mềm dẻo, lại vừa đanh thép sắc bén. Phải có đủ lý lẽ để khuất phục kẻ thù về mặt tư tưởng, đánh trúng và đánh mạnh vào những tín niệm mà chúng coi như chân lý bất di bất dịch và tưởng không bao giờ có thể bị bác bỏ. Hốt Tất Liệt đã vạch ra cho vua Trần Nhân Tông thấy rằng, ở đời làm gì có người không chết, và trên cõi đất này làm gì có nơi bất tử. Nhưng vua Trần Nhân Tông cũng vạch cho y thấy rằng vấn đề không phải là chết hay không chết, mà vấn đề nằm ở chỗ cái chết ấy có lợi hại gì cho ai không.
 
Cũng như Hốt Tất Liệt tự hào về lòng nhân từ của y mà bao nhiêu đám quần thần xung quanh ra sức hết lời ca tụng, thì vua Trần Nhân Tông vạch ra rằng nếu y có một lòng thương như thế thì làm sao phải bắt vua vào chầu? Hốt Tất Liệt trả lời vào chầu sẽ được ban thưởng tước vị trọng hậu. Vua Trần Nhân Tông đáp lại rằng, vua không những muốn được ban thưởng trọng hậu mà chính mắt mình muốn thấy được quang cảnh Trung Quốc, song chỉ sợ chết dọc đường thì sự ban thưởng có ích gì nữa. Chết dọc đường thì đối với bản thân vua Trần Nhân Tông đã không có lợi, mà ngay cả đối với Hốt Tất Liệt cũng chẳng có lợi gì, thậm chí còn làm tổn thương đến lòng nhân từ bao la của y.
 
Những lá thư này không chỉ lý luận để khuất phục kẻ thù, mà còn tố cáo tội ác của chúng đối với nhân dân Đại Việt. Trong lá thư gửi cho vua Nguyên vào năm 1291 do Từ Minh Thiện chép lại trong Thiên Nam hành kýThuyết phu 51 tờ 18b 6-7 vua Trần Nhân Tông đã kể những hành động tàn bạo cướp của giết người đốt nhà phá chùa của Ô Mã Nhi: “Đến mùa đông năm Chí Nguyên 24 (1287) lại thấy đại quân thủy bộ cùng tiến, thiêu đốt chùa chiền khắp nước, đào bới mồ mả tổ tiên, bắt giết người dân già trẻ, đập phá sản nghiệp trăm họ, các việc tàn ngược không gì là không làm (...). Tham chính Ô Mã Nhi lâu nắm quân thuyền, riêng ra ngoài biển, bắt hết biên dân vùng biển, lớn thì giết, nhỏ thì bắt đi, đến nỗi treo trói mổ xẻ, thân một nơi đầu một ngả”. Đây có thể nói là bản cáo trạng đầu tiên về tội ác chiến tranh do những tên xâm lược hiếu chiến gây ra, và nhất định chúng phải bị nhân dân ta trừng phạt đích đáng, mà lá thư năm 1291 gửi cho vua Nguyên đã chỉ ra.
 
Những lá thư vua Trần Nhân Tông viết cho vua quan nhà Nguyên, như thế có một vị trí văn học nhất định. Đặc biệt chúng đã đi đầu, tạo nên thể loại văn học mà sau này Quân trung từ mênh tập đã kế thừa và phát huy tới đỉnh cao hiệu lực của nó trong sự nghiệp đấu tranh với quân thù. Đây là loại văn học vừa đánh vừa đàm. Trọng lượng của lời nói trong những lá thư đàm phán được quyết định bằng những chiến thắng ngoài mặt trận. Nói cách khác, lời nói phải được yểm trợ và thể hiện bằng những hành động bạo lực. Cho nên, có những lúc, có những nơi dù lời nói có chính nghĩa, mà không có bạo lực thành công, đặc biệt trong quan hệ bang giao giữa hai nước, cũng không đạt được mục tiêu nó nhắm tới, là bảo vệ chính nghĩa, bảo vệ chủ quyền quốc gia.
 
Những lá thư trên do vậy, có một vị trí văn học hết sức to lớn. Vị trí này cho đến nay vẫn chưa được đánh giá đúng mức, thậm chí có nơi còn lệnh lạc, đặc biệt là trong các giáo trình văn học sử Việt Nam. Cho nên chúng tôi nhấn mạnh một lần nữa ở đây để điều chỉnh lại cách đánh giá, nhằm làm rõ hơn những cống hiến đặc sắc mà vua Trần Nhân Tông đã đóng góp cho lịch sử văn học dân tộc ta. Đây cũng chính là lý do để cho chúng tôi sưu tập và công bố toàn bộ các lá thư do vua Trần Nhân Tông gửi cho vua quan nhà Nguyên. Từ trước tới nay, những lá thư này chưa hề được sưu tập và công bố một cách trọn vẹn, tối thiểu là trong giới hạn những tư liệu mà ta hiện biết.
 
Lối văn chữ Hán của những là thư này ít nhiều chịu ảnh hưởng văn phong tiếng Việt, đặc biệt có một số cấu trúc mà ta đã tìm thấy trong Lục độ tập kinh. Chẳng hạn trong lá thư thứ 5, theo cách đánh số của chúng tôi dưới đây, có câu: “Bất năng thân kiến mạc quan, nhiên trung tâm hân hạnh”. Cấu trúc trung tâm hân hạnh này là một cấu trúc tương đối đặc biệt. Dạng trung tâm chỉ thấy xuất hiện trong Kinh Thi, rồi sau đó trong bản dịch Lục độ tập kinh của Khương Tăng Hội ([1]). Thế mà đến thế kỷ thứ 13, ngoài lá thư thứ 5 của vua Trần Nhân Tông vừa dẫn, ta còn gặp trong lá thư của vua Trần Thánh Tông viết gửi cho Hốt Tất Liệt vào tháng giêng năm Chí Nguyên thứ 12 (1275) chép trong An Nam truyện của Nguyên sử tờ 3b2-10 với câu “trung tâm hỷ duyệt”. Đây rõ ràng biểu thị ảnh hưởng của Lục độ tập kinh. Trong thơ của Tuệ Trung Trần Quốc Tung, ảnh hưởng của kinh này rất rõ qua bài Vật bất năng dung. ([2])
 
Như vậy, thông qua những văn thư ngoại giao ấy ta còn biết thêm về những ảnh hưởng của kinh điển Phật giáo đối với loại văn chính luận không chỉ của vua Trần Nhân Tông, mà còn của những nhà thơ, nhà văn khác của triều Trần. Không chỉ có thế, những hình ảnh vua Trần Nhân Tông dùng trong văn thơ ngoại giao này bộc lộ ít nhiều quan điểm đánh giá của vua đối với Hốt Tất Liệt. Trong những lá thư, ta đọc thấy vua tự xưng mình là “bề tôi nhỏ bé” của Hốt Tất Liệt, nhưng hình ảnh mà vua dùng để có vẻ ca ngợi Hốt Tất Liệt thì hóa ra đó là một hình ảnh chê bai bóng gió. Ta nhiều lần bắt gặp vua Trần Nhân Tông nói đến Hốt Tất Liệt như “núi biển bao hàm, dơ bẩn chứa hết” (Văn thư số 9), hoặc “với lượng càn khôn bao chứa đồ dơ” (Văn thư số 20). Rõ ràng qua những lần xâm lược nước ta, lòng dạ Hốt Tất Liệt dĩ nhiên toàn bao chứa “đồ dơ” cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng.
 
Các văn thư ngoại giao của vua Trần Nhân Tông, do thế, đáng được đọc và nghiên cứu kỹ, để thấy sự sâu sắc và hoành tráng của một con người đã từng dựng nên một thời đại anh hùng của dân tộc. Đấy là con người vừa kiên cường bất khuất, vừa mềm dẻo thâm trầm, đầy lòng độ lượng vị tha nhưng cũng tràn trề ý chí quyết chiến quyết thắng, cương quyết đè bẹp mọi ý đồ xâm phạm chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ. Chúng tôi công bố toàn bộ các văn thư hiện thu thập được với mục đích như thế.
 

 
[1] Lê Mạnh Thát, Lục độ tập kinh và Lịch sử khởi nguyên dân tộc ta, Tu thư Đại học Vạn Hạnh, 1972, tr.264-271.

[2] Lê Mạnh Thát, Tuệ Trung thượng sĩ toàn tập, cảo bản, 1979.
 
•••••
 
1
TỨC SỰ

Xong múa Giá chi thử áo xuân,
Hôm nay huống gặp tiết thanh minh.
Đầy mâm bánh cuốn như hồng ngọc
Phong tục từ xưa của Việt Nam.
 
 
2
TIỄN SỨ BẮC LÝ TRỌNG TÂN
TIÊU PHƯƠNG MAI

Thăm thẳm Linh Trì ấm tiệc đưa
Người về khôn cách gió xuân ngừa.
Nào hay sao sứ hai ngôi phúc,
Sáng rọi trời Nam mây tối bưa.
 
 
3
TIỄN SỨ BẮC MA HỢP
KIỀU NGUYÊN LÃNG
 
Trời nam, sao sứ rọi hai ngôi
Dẫn lối ba vòng đêm sáng soi
Bên ấy ơn sâu tình dễ cảm
Nơi đây tục bạc lễ thẹn tồi
Mù xông cờ tiết thân mừng khỏe
Roi vút gió xuân ngựa kết đôi
Trung thống vạc lời xin hãy nhớ
Nỗi lo đất nước khỏi nung sôi
 
 
 4
HỌA THƠ KIỀU NGUYÊN LÃNG
 
Non nam hành lý nhẹ mây tưng
Xuân đến cành mai mới mấy bông
Khắp thấy cùng thương thiên tử đức
Sống không giúp thế trượng phu buồn
Ngựa xông sương tuyết đầu còn ngoái
Mắt ngắm non sông xe chút ngừng
Sông Nhị ngày mai mờ khói nước
Rượu đào tươi mát rửa lòng trong
 
 
5
HOA MAI SỚM
 
Vàng điểm tua hoa năm cánh tròn
San hô chìm bóng vẩy phô tuôn
Ba đông cành trắng hoa khoe trước
Một nén hương xuân nhánh hãy còn
Cam lộ ngát thơm say bướm tỉnh
Dạ quang tựa nước khát chim buồn
Hằng nga nếu biết đây hoa đẹp
Quế lạnh cung Thiềm thôi ở luôn
 
 
6
 
Ngại rét năm ngày cửa biếng ra
Gió xuân trước đã đến cây già
Bóng giăng mặt nước băng vừa vỡ
Hoa trĩu đầu cành ấm chửa pha
Xóm núi trăng chìm lời hát Việt
Ải quan mây đẫm tiếng tiêu Hồ
Một cành lạc tới giấc mơ bạn
Tỉnh dậy tặng người chẳng nỡ đưa
 
 
7
CẢNH XUÂN
 
Chim hót nhởn nhơ, hoa liễu dày,
Bóng thềm nhà vẽ mây chiều bay
Chuyện đời khách đến thôi không hỏi
Cùng tựa lan can ngắm núi mây.
 
 
8
DỰ YẾN VỚI VĂN TÚC VƯƠNG
 
Chân rùa bóc đỏ mọng
Yên ngựa nướng vàng thơm
Sơn tăng giữ giới sạch
Cùng ngồi chẳng cùng ăn
 

9
CHÙA THẦN QUANG TRÊN NÚI ĐẠI LÃM
 
Bát ngát Thần quang gợi tịch u
Trời trăng ôm cởi đến ngao du
Lâu đài một tá bày tranh vẽ
Thế giới ba ngàn lọt mắt thơ
Lắm đỗi thói đời mây thương cẩu
Đâu hay tùng cỗi trắng đầu sư
Thắp hương lễ Phật trừ đôi việc
Hết thảy suy tư mặc bỏ lờ.
 
 
10
ĐỀ NHÀ THỦY TẠ CHÙA PHỔ MINH
 
Xông hết nghìn hương thơm ngát nhà,
Mới dâng dòng nước mát đâu xa
Cửa chùa dưới bóng đa già khép
Đầu tiếng ve thu ý đậm đà
 
 
11
NGẮM CẢNH CHIỀU THIÊN TRƯỜNG
 
Thôn trước thôn sau tựa khói nhòa
Nửa không nửa có mé chiều sa
Mục đồng sáo vẳng trâu về hết,
Cò trắng từng đôi ruộng xuống sà.
 
 
12
TRÊN ĐƯỜNG TÂY CHINH
 
Hoa sóng tung lên buồm gấm bay
Dưới mui đầu mệt chẳng buồn quay
Mây chiều Tam Giáp nhạn không đến
Trăng sáng Cửu Than rồng có đây
Lạnh lẽo đường đi cung mộng cũ
Ngổn ngang sầu vướng rượu ly đầy
Hán hoàng mang tiếng say chinh chiến
Vội vã nam nhi chi lắm vậy.
 
 
13
TRĂNG

Đầy sách, giường song chếch bóng đèn
Sân thu sương bủa thoáng hơi đêm
Tiếng chày thức dậy đâu hay biết
Hoa mộc trên cành trăng mới lên
 
 
14
LÊN NÚI BẢO ĐÀI
 
Đất vắng đài thêm cổ
Ngày qua xuân chửa nồng.
Gần xa, mây núi cuốn,
Râm nắng, ngõ hoa lồng.
Muôn việc nước theo nước,
Trăm năm lòng bảo lòng
Tựa hiên nâng sáo ngọc,
Ngực áo, đầy trăng trong.
 
 
15
CÂY MAI
 
Sắt đá gan lì khinh tuyết sớm
Khăn xiêm mộc mạc gió đông luồn
Trần gian kiệm ước Hán Văn Đế
Thiên hạ anh hùng Đường Thái Tông.
 
16
ĐÊM MƯỜI MỘT THÁNG HAI
 
Rượu chút sầu vơi, vị đậm đà,
Giường rồng chiếu trúc trải yên ra
Cả trời tựa nước, trăng ngày sáng,
Hoa phủ đầy song xuân mãi mơ
 
 
17
NIỀM OÁN HẬN CỦA NGƯỜI KHUÊ PHỤ
 
Ngủ dậy vén rèm, hồng thấy rơi,
Hoàng ly không hót giận xuân rồi.
Lầu tây vô cớ vầng dương lặn
Bóng ngã về đông hoa lẫn chồi
 

18
CẢNH CHIỀU Ở CHÂU LẠNG
 
Chùa cổ đìu hiu khuất khói mờ
Thuyền câu chiều quạnh tiếng chuông đưa
Nước quang non lặng vờn âu trắng
Gió lặng mây đùa cây đỏ thưa.
 
 
19
XUÂN MUỘN
 
Tuổi trẻ sao từng hiểu sắc không
Cả xuân hoa nở ngất ngây lòng
Đến nay đành rõ mặt xuân ấy
Nệm cỏ giường thiền ngắm rụng hồng.

 
20
CHIỀU THU Ở VŨ LÂM
 
Lòng khe vắt ngược bóng cầu hoa
Hắt sáng ngoài khe, vệt nắng tà
Vắng vẻ nghìn non, rơi lá đỏ
Như mơ mây đẫm tiếng chuông xa
 
 
21
NGÀY XUÂN THĂM CHIÊU LĂNG
Hùm gấu nghiêm nghìn cửa.
Áo mũ bảy phẩm đầy.
Lính bạc đầu còn đó,
Nguyên Phong mãi kể say
 
 
22
BUỔI SỚM MÙA XUÂN
Ngủ dậy, mở cánh cửa,
Xuân về đã chẳng hay!
Bươm bướm một đôi trắng
Phơi phới nhắm hoa bay
 
 
23
TRÊN HỒ ĐỘNG THIÊN
Cảnh hồ Động thiên nọ,
Hoa cỏ kém vẻ xuân.
Thượng đế thương hiu quạnh
Chuông Thái thanh bỗng ngân.
 
 
24
PHỦ THIÊN TRƯỜNG
 
Rậm lục thưa hồng thêm quạnh hiu
Mây quang mưa tạnh ngấn bùn tiêu
Nhà trai giảng đoạn sư về viện
Quán bến canh đầu cầu nguyệt treo
Ba chục cung tiên giường tối đặt
Tám nghìn bóng tháp triều xuân reo
Phố minh phong cảnh y như cũ
Phảng phất hình cha mộng thấy nhiều
 

25
BÀI MINH ĐỀ TRÚC NÔ
 
Ruột rỗng, tuyết giải
Đốt cứng, sương phơi
Mượn ngươi làm tớ,
E trái tính trời.
 
 
26
MẠN HỨNG Ở SƠN PHÒNG
 
Ai buộc mà đi giải thoát tìm?
Không phàm sao phải kiếm thần tiên
Vượn mòn, ngựa mỏi ta già phải.
Như cũ am mây một sập thiền
 
 
27

Phải trái tâm theo hoa sớm rơi
Lợi danh lòng lạnh mưa đêm rồi
Hoa tàn, mưa tạnh non im ắng
Một tiếng chim kêu xuân hết thôi.
 
 
28
TẶNG SỨ BẮC LÝ TƯ DIỄN
 
Ơn Hán tràn trề mưa móc tuôn
Chiếu son phượng ngậm khỏi mây hồng
Khí hòa góc đất đều lan tới
Bụi chiến sông trời rửasạch trơn
Thảy bảo thư vua mười lối viết
Còn hơn đàn Thuấn năm dây đờn
Đất trời thương hết không nam bắc
Sấm sét sao lolại phải bươn
 
 
29
CA NGỢI THƯỢNG SĨ TUỆ TRUNG
 
Nhìn lên càng cao
Dùi càng bền cứng
Chợt ở phía sau
Thấy liền trước đứng
Cái đó gọi là
Thiền Thượng sĩ vững
 
 
30
ĐỀ CHÙA THÔN HƯƠNG CỔ CHÂU
 
Số đời một màn kéo,
Tình người đôi mắt ngân.
Cung ma chật hẹp lắm,
Cõi Phật khôn xiết xuân.
 
 
31
KỆ THỊ TỊCH
 
Hết thảy pháp không sinh
Hết thảy pháp không diệt
Nếu hay hiểu như vầy
Chư Phật thường trước mặt
Đến đi sao có đây
 
 
32
THÂN NHƯ
 
Thân như hơi thở vào ra mũi
Thế tựa gió luồn mây núi xa
Đỗ quyên rền rĩ trăng ngày sáng
Đừng để tầm thường xuân luống qua
 
 
33
NGƯƠI NÊN NHỚ

Cối kê việc cũ ngươi nên nhớ,
Hoan, Ái đang còn chục vạn quân
 
 
34
TỨC SỰ
 
Xã tắc hai phen chồn ngựa đá,
Non sông nghìn thuở vững âu vàng.
 
 
35
HỌA THƠ LÝ TƯ DIỄN
 
Tự xét không tài thẹn được đất
Chỉ vì nhiều bệnh thiếu chầu trời
 
•••••
 
CƯ TRẦN LẠC ĐẠO PHÚ
 
HỘI THỨ NHẤT
 
Mình ngồi thành thị;
Nết dụng sơn lâm.
Muôn nghiệp lặng an nhàn thể tính;
Nửa ngày rồi tự tại thân tâm.
Tham ái nguồn dừng,
Chẳng còn nhớ châu yêu ngọc quý;
Thị phi tiếng lặng,
Được dầu nghe yến thốt oanh ngâm.
Chơi nước biếc, ẩn non xanh,
Nhân gian có nhiều người đắc ý;
Biết đào hồng, hay liễu lục,
Thiên hạ năng mấy chủ tri âm.
Nguyệt bạc vừng xanh,
Soi mọi chỗ thiền hà lai láng;
Liễu mềm hoa tốt,
Ngất quần sinh tuệ nhật sâm lâm.
Lo hoán cốt, ước phi thăng,
Đan thần mới phục;
Nhắm trường sinh, về thượng giới,
Thuốc thỏ còn đam.
Sách Dịch xem chơi,
Yêu tính sáng yêu hơn châu báu;
Kinh nhàn đọc dấu ([1]),
Trọng lòng rồi trọng nữa hoàng kim.
 
 
HỘI THỨ HAI
 
Biết vậy!
Miễn được lòng rồi;
Chẳng còn phép khác.
Gìn tính sáng tính mới hầu an;
Nén niềm vọng, niềm dừng chẳng thác.
Dứt trừ nhân ngã, thì ra tướng thực kim cương;
Dừng hết tham sân, mới lảu lòng màu viên giác.
Tịnh độ là lòng trong sạch,
Chớ còn ngờ hỏi đến Tây phương;
Di Đà là tính sáng soi,
Mựa ([2]) phải nhọc tìm về Cực lạc.
Xét thân tâm, rèn tính thức,
Há rằng mong quả báo phô khoe;
Cầm giới hạnh, địch vô thường,
Nào có sá cầu danh bán chác.
Ăn rau ăn trái,
Nghiệp miệng chẳng hiềm thuở đắng cay;
Vận giấy vận sồi ([3]), thân căn có ngại chi đen bạc.
Nhược chỉn ([4]) vui bề đạo đức,
Nửa gian lều quý nữa thiên cung;
Dầu hay mến thuở nhân nghì,
Ba phiến ngói yêu hơn lầu gác.
 
 
HỘI THỨ BA
 
Nếu mà cốc, ([5])
Tội ắt đã không.
Phép học lại thông.
Gìn tính sáng, mựa lạc tà đạo;
Thửa ([6]) mình học, cho phải chính tông.
Chỉn bụt là lòng, xá ([7]) ướm hỏi đòi cơ Mã tổ;
Vong tài đối sắc, ắt tìm cho phải thói Bàng công.
Áng tư tài, tính sáng chẳng tham,
Há vì ở Cánh Diều Yên Tử;
Rần thanh sắc niềm dừng chẳng chuyển,
Lọ chi ngồi am Sạn non Đông.
Trần tục mà nên, phúc ấy càng yêu hết tấc
Sơn lâm chẳng cốc, họa kia thực cả đồ ([8]) công.
 
Nguyền mong thân cận minh sư,
Quả bồ đề một đêm mà chín;
Phúc gặp tình cờ tri thức,
Hoa ưu đàm mấy kiếp đơm bông.
 

 
[1] Dấu: yêu dấu
[2] Mựa: chớ
[3] Giấy, sồi: các loại vải xấu
[4] Chỉn: chỉ, chính
[5] Cốc: biết
[6] Thửa: biết
[7] Xá: hãy, nên
[8] Đồ: uổng

HỘI THỨ TƯ
 
Tin xem:
Miễn cốc một lòng;
Thì rồi mọi hoặc.
Chuyển tam độc mới chứng tam thân;
Đoạn lục căn, nên trừ lục tặc.
Tìm đường hoán cốt,
chỉn xá năng phục dược luyện đan;
Hỏi phép chân không,
hề chi lánh ngại thanh chấp sắc.
 
 
 Hỏi: “Chân như là cái gì?
Đáp: “Trong lắng sáng tròn rực thái hư”
Lại hỏi: “Bát nhã là gì?”
Đáp: “Nguồn gốc trí tuệ tự mình”.
Lại hỏi: “Chân Phật là gì?”
Đáp: “Đương cơ đối đáp là ai?”
Lại hỏi: “Chân kinh là gì?”
Đáp: “Đương cơ nêu lên quá rõ ràng”.
Lại hỏi: “Thế nào là truyền giao?”
Đáp: “Thầy trò bốn mắt nhìn nhau.”
Lại hỏi: “Hiểu ý là thế nào?”
Đáp: “Trở về nguồn gốc không bàn nghĩ.
Nếu có bàn nghĩ thì sa ngã thôi.”
 
Kệ rằng:
 
Nó nay chính là ta
Ta nay không là nó
Nếu hay hiểu như vậy
Chân như mới được rõ
Hiểu lòng mình là Phật
Nên gọi rõ đạt chân như
Hiểu lòng mình là Pháp
Nên gọi pháp môn một chữ
Muôn pháp về một
Nên gọi nhất thể Như Lai
 
Kệ rằng:
 
Tất cả muôn pháp
Đều tự tâm sinh
Tâm không chỗ sinh
Pháp không chỗ trụ
Nếu hiểu đất lòng
Ứng dụng không ngại
Chẳng gặp thượng căn
Thận trọng chớ hứa
 
Lại kệ:
 
Chân như bát nhã tông
Biết chân như, tin bát nhã,
chớ còn tìm Phật tổ Tây Đông;
Chứng thực tướng, ngõ vô vi,
nào nhọc hỏi kinh Thiền Nam Bắc.1
Xem Tam tạng giáo,
ắt học đòi Thiền uyển thanh quy;
Đốt ngũ phận hương,
chẳng tốn đến chiên đàn chiêm bặc.
Tích nhân nghì, tu đạo đức,
ai hay này chẳng Thích Ca;
Cầm giới hạnh, đoạn xan tham,
chỉn thực ấy là Di Lặc.
 
 
Người không, ta cũng không
Phật quá hiện vị lai
Tính pháp vốn vẫn chung
 
Lại nói:
 
Đường đường mặt mũi thực
Lồ lộ chủ nhân ông
Bao hàm ngoài trời đất
Xuyên suốt giữa biển sông
Lúc dùng thành diệu hữu
Chỗ lặng thật hư không
Người người đều đầy đủ
Vật vật thảy tròn không
Từ nay lĩnh ngộ được
Thôi việc chạy tây đông.
 
 
HỘI THỨ NĂM
 
Vậy mới hay!
Bụt ở cong ([1]) nhà;
Chẳng phải tìm xa.
Nhân khuấy bổn ([2]) nên ta tìm bụt;
Đến cốc hay chỉn bụt là ta.
Thiền ngỏ năm câu, nằm nhãng cong quê Hà hữu;
Kinh xem ba biến ([3]), ngồi ngơi mái quốc Tân la.
Trong đạo nghĩa, khoáng cơ quan,
đà lọt lẫn trường kinh cửa tổ;
Lánh thị phi, ghê thanh sắc,
ngại chơi bời dặm liễu đường hoa.
Đức bụt từ bi,
mong nhiều kiếp nguyền cho thân cận;
Ơn Nghêu khoáng cả,
lọt toàn thân phô việc đã tha.
Áo miễn ([4]) chăn đầm ấm qua mùa,
hoặc chằm hoặc xể  ([5]);
Cơm cùng cháo đói no đòi bữa, dầu bạc dầu thoa ([6]).
Ngăn bát thức, nén bát phong, càng đè càng bội;
Lẫy tam huyền, nong tam yếu, một cất một ma ([7]).
Cầm vốn thiếu huyền, ([8])
xá đàn dấu xoang ([9]) vô sinh khúc;
Địch chăng có lỗ,
cũng bấm chơi xướng thái bình ca.
Lẫy cội tìm cành, còn khá tiếc Câu Chi trưởng lão;
Khuấy đầu chấp bóng,
ắt kham cười Diễn Nhã Đạt Đa.
Lọt quyền Kim cương, há mặc hầu thông nên nóng
Nuốt bồng lật cứt, nào tay phải xước tượng da.
 
 
HỘI THỨ SÁU
 
Thật thế!
Hãy xá vô tâm;
Tự nhiên hợp đạo.
Dừng tam nghiệp mới lặng thân tâm;
Đạt một lòng thì thông tổ giáo.
Nhận văn giải nghĩa,
rạc rài nên Thiền khách bơ vơ;
Chứng lý tri cơ, cứng cát phải nạp tăng khôn khéo.
Han ([10]) hữu lậu, han vô lậu,
bảo cho hay: the lọt, duộc thưng ([11]);
Hỏi Đại thừa, hỏi Tiều thừa,
thưa thẳng tắt: lòi tiền, tơ ([12]) gáo.
Nhận biết làu làu lòng vốn,
chẳng ngại bề thời tiết nhân duyên;
Dồi cho vặc vặc tính gương,
nào có nhuốm căn trần huyên náo,
Vàng chửa hết quặng,
xá tua ([13]) chín phen đúc chín phen rèn;
Lộc chẳng còn tham,
miễn được một thì chay một thì cháo.
Sạch giới lòng, dồi giới tướng,
nội ngoại nên Bồ tát trang nghiêm;
Ngay thờ chúa, thảo thờ cha,
đi đỗ mới trượng phu trung hiếu.
Tham thiền kén bạn, nát thân mình mới khá hồi ân;
Học đạo thờ thầy,
lọt xương óc chưa thông của báo.
 

 
[1] Cong: Trong
[2] Khuấy bổn: quên gốc
[3] Biến: lần
[4] Miễn: lẫn, với
[5] Chằm: khâu; xể: để lòa xòa
[6] Bạc; trắng; thoa: hẩm
[7] Cất: nêu lên; ma: mà
[8] Cầm: đàn cầm; huyền: dây
[9] Xoang: tấu nhạc
[10] Han: hỏi
[11] The: vải thưa; Duộc: cái muỗng, vá; Thưng: ngăn, che
[12] Lòi: dây cột; Tơ: dây kéo.
[13] Tua: nên
HỘI THỨ BẢY
 
Vậy mới hay:
Phép bụt trọng thay;
Rèn mới cốc hay.
Vô minh hết bồ đề thêm sáng;
Phiền não rồi đạo đức càng say.
Xem phỏng lòng kinh, lời bụt thốt dễ cho thấy dấu;
Học đòi cơ tổ,
([1]) thiền không khôn chút biết nay (nơi).
Cùng căn bản, rửa trần duyên,
mựa để mấy hào ly đương mặt;
Ngã thắng chàng, viên tri kiến,
chớ cho còn họa giữa cong tay.
Buông lửa giác ngộ,
đốt hoại thảy rừng tà ngày trước;
Cầm kiếm trí tuệ,
quét cho không tính thức thuở nay.
Vâng ơn Thánh, xót mẹ cha, thờ thầy học đạo;
Mến đức Cồ, kiêng bùi ngọt, cầm giới ăn chay.
Cảm đức từ bi, để nhiều kiếp nguyền cho thân cận;
Đội ơn cứu độ, nát muôn thân thà chịu đắng cay.
Nghĩa hãy nhớ, đạo chẳng quên,
hương hoa cúng xem còn nên thảo;
Miệng rằng tin, lòng lại lỗi,
vàng ngọc thờ cũng chửa hết ngay.
 
 
HỘI THỨ TÁM

Chưng ấy:
Chỉn xá tua rèn;
Chớ nên tuyệt học.
Lay ý thức chớ chấp chằng chằng;
Nén niềm vọng mựa còn xóc xóc.
Công danh mảng đắm,
ấy toàn là những đứa ngây thơ;
Phúc tuệ gồm no, chỉn mới khá nên người thực cốc.
Dựng cầu đò, dồi chiền tháp,
ngoại trang nghiêm sự tướng hãy tu;
Săn hỷ xả, nhuyễn từ bi,
nội tự tại kinh Lòng hằng đọc.
Rèn lòng làm bụt, chỉn xá tua một sức dồi mài;
Đãi cát kén vàng, còn lại phải nhiều phen lựa lọc.
Xem kinh đọc lục,
làm cho bằng thửa thấy thửa hay;
Trọng bụt tu thân, dùng mựa lỗi một tơ một tóc.
Cùng nơi ngôn cú, chỉn chăng hề một phút ngại lo;
Rất thửa cơ quan, mựa còn để tăm hơi lọt lọc.
 
 
HỘI THỨ CHÍN

Vậy cho hay:
Cơ quan tổ giáo;
Tuy khác nhiều đàng,
Chẳng cách mấy gang.
Chỉn xá nói từ sau Mã tổ;
Ắt đã quên thuở trước Tiêu Hoàng.
Công đức toàn vô, tính chấp si càng thêm lỗi;
Khuếch nhiên bất thức, tai ngu mảng ([2]) ắt còn vang.
Sinh Thiên Trúc, chết Thiếu Lâm,
chôn dối chân non Hùng Nhĩ;
Thân bồ đề, lòng minh kính,
bài giơ mặt vách hành lang.
Vương lão chém mèo,
rạt thảy ([3]) lòng ngừa thủ tọa;
Thầy hồ khua chó, trỏ xem trí nhẹ con giàng.([4])
Chợ Lư Lăng gạo mắc quá ư, chẳng cho mà cả ([5]);
Sở thạch đầu đá trơn hết tấc, khôn đến thưa đang.
Phá Táo cất cờ, đạp xuống dấu thiêng thần miếu;
Câu Chi dời ngón, dùng đòi nếp cũ ông ang ([6]).
Lưỡi ([7]) gươm Lâm Tế, nạng Bí Ma,
trước nạp tăng no dầu tự tại;
Sư tử ông Đoan, trâu thầy Hựu,
răn đàn việt hượm ([8]) xá nghênh ngang.
Giơ phiến tử, cất trúc bề,
nghiệm kẻ học cơ quan nhẹ nhẵn;
Xô hòn cầu, cầm mộc thược,
bạn thiền hòa chước móc khoe khoang.
Thuyền Tử rà chèo, dòng xanh chửa cho tịnh tẩy;
Đạo Ngô múa hốt, càn ma dường thấy quái quàng.
Rồng Yểm Lão nuốt càn khôn, ta xem chỉn lệ ([9]);
Rắn ông Tồn ngang thế giới, người thấy ắt dang ([10]).
Cây bách là lòng,
thác ra trước phải phương Thái Bạch;
Bính đinh thuộc hỏa,
lại trở sau lỗi hướng Thiên cang.
Trà Triệu Lão, bánh Thiều Dương,
bầy thiền tử hãy còn đói khát;
Ruộng Tào Khê vườn Thiếu Thất,
chúng nạp tăng những để lưu hoang.
Gieo bó củi, nẩy bông đèn, nhân mang mới nết;
Lộc đào hoa, nghe tiếng trúc, mặc vẻ mà sang.
 
 
HỘI THỨ MƯỜI

Tượng ([11]) chúng ấy,
Cốc một chân không;
Dùng đòi ([12]) căn khí.
Nhân lòng ta vướng chấp khôn thông;
Há cơ tổ nay còn thửa bí.
Chúng Tiểu thừa cốc hay chữa đến,
Bụt xá ngăn Bảo sở hóa thành;
Đấng Thượng sĩ chứng thực mà nên,
ai ghẻ ([13]) có sơn lâm thành thị.
Núi hoang rừng quạnh, ấy là nơi dật sĩ tiêu dao;
Chiền ([14]) vắng am thanh,
chỉn thực cảnh đạo nhân du hý.
Ngựa cao tán cả,
Diêm vương nào kể đứa nghênh ngang;
Gác ngọc lầu vàng,
ngục tốt thiếu chi người yêu quý.
Chuộng công danh, lồng nhân ngã,
thực ấy phàm phu;
Say đạo đức, dời thân tâm,
định nên thánh trí.
Mày ngang mũi dọc,
tướng tuy lạ xem ắt bằng nhau;
Mắt thánh lòng phàm,
thực cách nhẫn ([15]) vàn vàn thiên lý.
 
Kệ rằng:
 
Cư trần lạc đạo thả tùy duyên
Cơ tắc xan hề khốn tắc miên
Gia trung hữu bảo hưu tầm mích
Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền
 
(Ở đời vui đạo, hãy tùy duyên,
Đói cứ ăn đi mệt ngủ liền.
Trong nhà có báu thôi tìm kiếm,
Đối cảnh vô tâm, chớ hỏi thiền).
 

 
[1] Xá: đường xá
[2] Mảng: nghe
[3] Rạt thảy: dẹp hết (sát rạt)
[4] con giàng: cái giường
[5] mà cả: mặc cả
[6] ang: cha
[7] Lưỡi: bản năm 1754 không có, lấy từ bản 1932 điền vào.
[8] Hượm: chớ.
[9] Lệ: sợ.
[10] dang: tránh (ra)
[11] Tượng: phàm, hễ
[12] đòi: theo
[13] ghẻ: chia rẽ
[14] chiền: chùa 
[15] Nhẫn: đến, tới

ĐẮC THÚ LÂM TUYỀN THÀNH ĐẠO CA

Sinh có nhân thân,
Ấy là họa cả;
Ai hay cốc được,
Mới óc ([1]) là đã.
Tuần này mà ngẫm,
Ta lại xá ta;
Đắc ý cong lòng,
Cười riêng ha hả.
Công danh chẳng trọng,
Phú quý chẳng màng;
Tần Hán xưa kia,
Xem đà hèn hạ.
Yên bề phận khó,
Kiếm chốn dưỡng thân;
Khuất tịch non cao,
Náu mình sơn dã.
Vượn mừng hủ hỷ,
Làm bạn cùng ta;
Vắng vẻ ngàn kia,
Thân lòng hỷ xả.
Thanh nhàn vô sự,
Quét tước đài hoa;
Thờ phụng bụt trời,
Đêm ngày hương hỏa.
Tụng kinh niệm bụt,
Chúc thánh khẩn cầu;
Tam hữu tứ ân,
Ta nguyền được bả. ([2])
Niệm lòng vặc vặc,
Giác tính quang quang;
Chẳng còn bỉ thử.
Tranh nhân chấp ngã.
Trần duyên rũ hết,
Thị phi chẳng hề.
Rèn một tấm lòng,
Đêm ngày đon đả.
Ngồi cong trần thế,
Chẳng quản sự thay.
Văng vẳng ngàn kia,
Dầu lòng dong thả.
Học đòi chư Phật,
Cho được viên thành;
Xướng khúc vô sinh.
An thiền tiêu sá.
Ai ai xá cốc,
Bằng huyễn chiêm bao;
Xẩy tỉnh giấc hòe,
Châu rơi lã chã.
Cốc hay thân huyễn,
Chẳng khác phù vân;
Vạn sự giai không,
Tựa dường bọt bể.
Đem mình náu tới,
Cảnh vắng ngàn kia;
Dốc chí tu hành,
Giấy sồi bô bả.
Lành người chẳng chớ.
Dữ người chẳng hay;
Ngậm miệng đắp tai,
Hề chi họa cả.
An thân lập mệnh.
Thời tiết nhân duyên;
Cắt thịt phân cho,
Dầu là chim cá.
Thân này chẳng quản.
Bữa đói bữa no;
Địa thủy hỏa phong,
Dầu là biến hóa.
Pháp thân thường trụ,
Phổ mãn thái hư,
Hiển hách mục tiền,
Viên dung lõa lõa.
Thiền tông chỉ thị,
Mục kích đạo tồn;
Không cốc truyền thanh,
Âm hưởng ứng dã.
Phô ([3]) người học đạo,
Vô số nhiều thay;
Trúc hóa nên rồng,
Một hai là họa.
Bởi lòng vờ vịt,
Trỏ Bắc làm Nam;
Nhất chỉ đầu thiền,
Sát na hết cả.
 
Kệ rằng:
 
Cảnh tịch an cư tự tại tâm
Lương phong xuy đệ nhập tùng âm
Thiền sàng thọ hạ nhất kinh quyển
Lưỡng tự thanh nhàn thắng vạn câm
(Cảnh vắng sống yên tự tại hồn,
Bóng tùng gió mát thổi từng cơn.
Giường thiền một quyển kinh bên gốc,
Hai chữ thanh nhàn vạn nén hơn)
 


[1] óc: gọi, kêu
[2] Bả: trả
[3] Phô: nhiều

 
HÀNH TRẠNG CỦA THƯỢNG SĨ TUỆ TRUNG
 
Thượng sĩ là con trai đầu (lòng) của Khâm Minh Từ Thiện Thái Vương và anh cả của Nguyên Thánh Thiên Cảm Hoàng thái hậu. Khi thái vương mất, Hoàng đế (Trần) Thái Tông cảm nghĩa, phong cho tước Hưng Ninh Vương.
Thuở nhỏ, Thượng sĩ bẩm tính thanh cao, nổi tiếng thuần hậu, được giao trấn giữ quân dân ở lộ Hồng. Hai lần giặc Bắc xâm lược, có công với nước, lần hồi được thăng chuyển giữ chức Tiết độ sứ vùng biển trại Thái Bình.
Con người Thượng sĩ, khí lượng thâm trầm, phong thái nhàn nhã, từ tuổi để chỏm, rất mến cửa không. Đến tham vấn Thiền sư Tiêu Dao ở Phúc Đường, lĩnh hội yếu chỉ, bèn dốc lòng thờ làm thầy, ngày ngày chỉ lấy niềm vui thiền làm thích, không hề vì công danh mà trở ngại. Rồi lui về sống ở phong ấp Tịnh Bang, đổi làm hương Vạn Niên.
Thượng sĩ cùng đời hòa quang, chưa từng đụng chạm người vật, nên hay mạnh nối giống pháp, dìu dắt sơ cơ. Ai tìm đến hỏi, người cũng chỉ bảo cho biết điều cương yếu, khiến họ trụ tâm, mặc tính hành tàng, không mắc danh thực.
Đức Dụ Lăng mộ tiếng từ lâu, sai sứ vời vào cửa khuyết. Phàm những lời hầu chuyện nhà vua đều là siêu tục. Nhân thế, vua suy tôn làm sư huynh và ban cho tên hiệu hiện nay.
Một lần vào chầu, Thái hậu làm tiệc lớn đãi, Người gặp thịt cứ ăn. Thái hậu lấy làm lạ hỏi rằng: “Anh tu thiền mà ăn thịt thì thành Phật sao được?”. Thượng sĩ cười đáp: “Phật là Phật, anh là anh. Anh chẳng cần làm Phật, Phật cũng chẳng cần làm anh. Em chẳng nghe cổ đức nói ‘Văn Thù là Văn Thù, giải thoát là giải thoát’ đó sao?”
Khi Thái hậu qua đời, đức Dụ Lăng trai tăng ở cung cấm. Nhân khi khai đường thuyết pháp bèn mời danh tăng bốn phương mỗi người làm một bài kệ ngắn để bày tỏ kiến giải của mình. Nhưng thảy đều “ngầu bùn sũng nước” chưa có chỗ ngộ. Đức Dụ Lăng bèn đem giấy đến cho Thượng sĩ. Thượng sĩ viết một hơi xong bài tụng tự thuật như sau:
 
Kiến giải bày kiến giải,
Tựa dụi mắt làm quái.
Dụi mắt làm quái rồi.
Sáng sủa thường tự tại.
 
Đức Dụ Lăng xem xong, viết tiếp:
 
Sáng sủa thường tự tại,
Cũng dụi mắt làm quái.
Thấy quái không thấy quái,
Quái kia liền tự hoại.
 
Thượng sĩ rất tâm phục bài kệ ấy.
Tới khi Đức Dụ Lăng ốm, Thượng sĩ viết thư hỏi bệnh. Mở ra xem, Đức Dụ Lăng viết kệ trả lời, có câu:
 
Mực nồng khí nóng mồ hôi đẫm,
Quần mẹ sinh ta ướt chửa từng.
 
Thượng sĩ đọc bài kệ, than thở giây lâu. Đến khi Đức Dụ Lăng trở bệnh nặng, Thượng sĩ tất tả tới cửa khuyết thì nhà vua đã quy tiên rồi.
Nay ta cũng nguyện đội ơn dạy dỗ của Thượng sĩ. Trước đây, khi ta chưa xuất gia, gặp lúc cư tang Nguyên Thánh mẫu hậu, nhân đó có đi thỉnh Thượng sĩ. Người trao cho hai bộ ngữ lục của Tuyết Đậu và Dã Hiên. ([1]) Ta cho người sống quá tục, sinh ngờ vực, bèn làm ra vẻ ngây thơ hỏi: “Chúng sinh quen cái nghiệp uống rượu và ăn thịt, thì làm sao tránh được tội báo?” Thượng sĩ liền giảng giải rằng: “Giả thử có một người đứng quay lưng lại, thình lình có nhà vua đi qua phía sau, người kia không biết, hoặc có ném vật gì vào người vua. Người ấy có sợ chăng? Vua có giận chăng? Như thế thì biết rằng hai việc không liên quan gì đến nhau vậy.” Nói rồi Thượng sĩ đọc hai bài kệ:
 
Vô thường các pháp hành,
Tâm ngờ tội liền sanh.
Xưa nay không một vật,
Chẳng mống cũng chẳng mầm.
 
Lại nói:
 
Ngày ngày khi đối cảnh.
Cảnh cảnh từ tâm ra.
Xưa nay không tâm cảnh.
Chốn chốn thảy bờ kia.
 
Ta lĩnh ý, giây lâu bèn nói: “Tuy là như thế, nhưng tội phúc đã rõ ràng thì làm thế nào?”.
Thượng sĩ lại đọc tiếp bài kệ để chỉ bảo:
 
Ăn cỏ và ăn thịt,
Chúng sinh mỗi có thức.
Xuân về muôn cỏ sinh,
Chỗ nào thấy tội phúc.
 
Ta nói: “Nếu vậy thì công phu giữ giới trong sạch không chút xao lãng là để làm gì?”
Thượng sĩ cười mà không đáp. Ta cố nài. Thượng sĩ lại đọc tiếp hai bài kệ để ấn chứng cho ta:
 
Trì giới và nhẫn nhục
Chuốc tội chẳng chuốc phúc.
Muốn biết không tội phúc,
Đừng trì giới nhẫn nhục.
 
Lại nói:
 
Như khi người leo cây,
Đang yên tự tìm nguy.
Nhu người không trèo nữa,
Trăng gió làm được gì.
 
Đoạn người dặn kín ta: “Chớ có bảo cho người không đáng bảo.” Vì vậy ta biết môn phong của Thượng sĩ thật là siêu việt.
Một hôm, ta hỏi người về tôn chỉ công việc mình. Thượng sĩ ứng khẩu đáp: “Hãy quay nhìn lại công việc của chính bản thân mình chứ không tìm đâu khác được.” Ta bỗng bừng tỉnh con đường phải đi, bèn xốc áo, thờ làm thầy.
Ôi! Thượng sĩ là người thần thái nghiêm trang, cử chỉ đĩnh đạc. Bàn huyền thuyết diệu như gió mát trăng thanh. Đương thời thạc đức các phương, có người cho Thượng sĩ tin sâu biết rõ, làm ngược làm xuôi, thật khó mà lường được.
Sau, người nhuốm bệnh ở trang Dưỡng Chân, không ở phòng riêng, mà cho kê một chiếc giường gỗ giữa ngôi nhà trống, nằm theo thế cát tường, nhắm mắt mà tịch. Người hầu hạ và thê thiếp trong nhà khóc rống lên. Thượng Sĩ mở mắt ngồi dậy, gọi người lấy nước rửa tay, súc miệng, đoạn quở nhẹ rằng: “Sống chết là lẽ thường, làm gì phải xót thương quyến luyến làm rối chân tính của ta?” Dứt lời người êm thấm mà tịch. Bấy giờ là ngày mồng một tháng tư năm Tân Mão, niên hiệu Trùng Hưng năm thứ bảy, hưởng thọ 62 tuổi.
Ta thân đến nhà làm lễ viếng và làm bài Thiêu hương báo ân tụng, nhưng không chép ra đây.
Sau khi nối đạo, những lúc lên đàn thuyết pháp, ta tự nghĩ có bốn điều ân nặng, sửa pháp khó đền, nên sai thợ vẽ chân dung của người để dâng cúng, và tự làm bài tụng, ghi rằng:
 
Đây bậc cổ chùy,
Người đâu dễ vẽ
Thước góc Lương hoàng,
Mõ chuông Thái đế.
Hay tròn hay vuông
Mỏng dầy đủ vẻ.
Biển pháp một ngươi,
Rừng thiền ba phía.
 

 
[1] Tuyết Đậu: thiền sư Trùng Hiển (980 - 1052) phái Vân Môn, tác giả của Tuyết Đậu minh giác ngữ lục.
Dã Hiên: gọi đủ là Dã Hiên Tuân của phái Lâm Tế, sống sau năm 865, mất trước năm 999, hiện còn một bài thơ chép trong Thiền tông tụng cổ liên châu thông tập, 21.

 
BÀI GIẢNG TẠI CHÙA SÙNG NGHIÊM

“Lúc đầu khai đường, Thượng hoàng lên tòa giảng, niêm hương báo ân xong, bèn đếõn tòa giảng. Thượng thủ đánh bảng.v.v. xin mời Điều Ngự. Bèn nói: ‘Đức Thích Ca Văn Phật vì một việc lớn mà xuất hiện ở đời, 49 năm, nhúc nhích đôi mép môi, mà chưa từng nói một chữ. Ta nay vì các người mà lên tòa giảng này, thì nói cái gì?’ Rồi Thượng hoàng ngồi xuống giường thiền. một chốc, bèn nói:
 
Đỗ quyên rền rỉ, trăng ngày sáng
Đừng để tầm thường xuân luống qua
 
Lại đánh xuống một cái:
- Chẳng có gì cả, hãy đi ra đi, đi ra đi.
 
Một vị tăng hỏi:
- Thế nào là Phật?
 
Đáp:
- Hiểu theo như trước là chẳng phải.
 
Lại tiến lên hỏi:
- Thế nào là Pháp?
 
Đáp:
- Hiểu theo lối trước là chẳng phải.
 
Lại đứng lên hỏi:
- Rốt ráo là thế nào?.
 
Đáp:
Tám chữ mở toang trăn trối hết
Chẳng còn gì nữa để trình ông.
 
Lại đứng lên hỏi:
- Thế nào là Tăng?
 
 Đáp:
- Hiểu theo lối trước lại chẳng phải.
 
Lại đứng lên hỏi:
- Rốt ráo là như sao?
 
Đáp:
Tám chữ mở toang trăn trối hết
Chẳng còn gì nữa để trình ông.
 
Lại đứng lên hỏi:
- Thế nào là một việc hướng thượng?
 
Đáp:
- Đứng chống đầu gậy chọc trời trăng.
 
Lại đứng lên hỏi:
- Dùng công án cũ để làm gì?
 
Đáp:
- Mỗi lần nêu ra mỗi lần mới.
 
Lại đứng lên hỏi:
- Thế nào là giáo ngoại biệt truyền?
 
Đáp:
- Ểnh ương nhảy không ra khỏi đấu.
 
Lại đứng lên hỏi:
- Hiện ra rồi chìm mất là thế nào?
 
Đáp:
- Còn tùy còn tùy bước ếch cát bùn vương.
 
Tiến lên hỏi:
- Thế còn nhảy không ra?
 
Điều Ngự bèn lên tiếng:
- Tên mù kia thấy cái gì?
 
Bèn đứng lên nói:
- Đại tôn đức lừa người để làm gì?
 
Điều Ngự bèn thở dài. Vị tăng ngẫm nghĩ. Điều Ngự liền đánh. Vị tăng lại định đi ra hỏi. Điều Ngự liền hét. Vị tăng cũng hét.
 
Điều Ngự nói:
- Lão tăng bị ngươi hét một tiếng, thì hét hai tiếng rốt ráo thế nào? Nói mau, nói mau.
 
Tăng ngẫm nghĩ.
 
Điều Ngự lại hét một tiếng, nói:
- Con hồ tinh hoang kia vừa mới đến liến thoắng, nay ở chỗ nào rồi?
 
Tăng lạy và rút lui.
 
Hỏi:
- Đại đức siêng năng khó nhọc tu hành, lâu trải năm tháng, đối với sáu thần thông của Phật, nay chứng được thần thông nào?
 
Đáp:
- Cũng được sáu thần thông.
 
Lại đứng lên hỏi:
- Năm thần thông thì hãy để đó, còn tha tâm thông thì thế nào?
 
Đáp:
- Đất nước chỗ ông có bao nhiêu thứ tâm, Như Lai biết hết, Như Lai thấy hết.
 
Tăng đưa thẳng nắm tay lên, nói:
- Đã có thể biết hết, thấy hết, thì có biết cái này có vật gì không?
 
Đáp:
Như có như không
Chẳng không chẳng sắc
 
Hỏi:
- Xưa có tăng hỏi hòa thượng Lang Da rằng: Đã là “thanh tịnh bản nhiên”sao bỗng chốc sinh ra núi sông đất lớn? Ý chỉ thế nào?
 
Đáp:
- Rất giống thuyền câu ra bể?
 
Lại đứng lên hỏi:
-Thế là ý nghĩa gì?
 
Đáp:
Khói sóng ai hay tránh.
Riêng có việc khéo bàn
 
Hỏi:
- Thế nào là gia phong của Phật quá khứ?
 
Đáp:
Rừng vườn vắng vẻ không người quản,
Mận trắng đào hồng tự nở hoa
 
Hỏi:
- Thế nào là gia phong của Phật hiện tại?
 
Đáp:
Bạch thủy gia phong mê én sớm,
Đào thắm vườn tiên say gió xuân.

Lại đứng lên hỏi:
- Thế nào là gia phong của Phật vị lai?
 
Đáp:
Bãi biển chờ triều trời đợi nguyệt,
Thôn chài nghe sáo khách mong nhà.
 
Lại đứng lên hỏi:
- Thế nào là gia phong của hòa thượng?
 
Đáp:
Áo rách ôm mây, mai húp cháo,
Bình xưa rót nguyệt, tối chưng trà.
 
Hỏi:
- Linh Vân giác ngộ khi đào nở hoa là thế nào?
 
Đáp:
Tự búp tự nở theo thời tiết,
Hỏi tới Đông quân thảy chẳng hay
 
Lại đứng lên hỏi:
- Giết người không chớp mắt là thế nào?
 
Đáp:
- Toàn thân là mật.
 
 Hỏi:
- Bậc đại tu hành có còn rơi vào vòng nhân quả nữa không?
 
Đáp:
Miệng tựa máu bồn chê Phật tổ,
Răng như cây kiếm thọc thiền lâm.
Một mai chết xuống A tỳ ngục,
Cười ngất nam mô Quán Thế Âm.
 
Hỏi:
Cò trắng xuống đồng, nghìn điểm tuyết,
Oanh vàng trong khóm, một nhành hoa.
là thế nào?
 
Đáp:
- Lầm rồi.
 
Lại đứng lên hỏi:
- Bậc đại tôn đức nghĩ sao?
 
Đáp:
Cò trắng xuống đồng, nghìn điểm tuyết,
Oanh vàng trong khóm, một nhành hoa.
 
Lại đứng lên hỏi:
- Đó là lời của tôi.
 
Đáp:
Nếu biết thần tiên lò lửa thuật
Viên đan nguyên ấy tử châu sa
 
Hỏi:
- Thế nào là pháp thân thanh tịnh?
 
Đáp:
Đục vàng rớt trúng phân sư tử
Sắt núi Côn Lôn chim chá cô
 
Lại hỏi:
- Học nhân không hiểu.
 
Đáp:
Không được thương Hồ biết rành thách giá
Đáng cười kẻ chợ khổ lường nhau
 
Lại đứng lên hỏi:
- Báo thân tròn đầy là thế nào?
 
Đáp:
Cánh bằng gió đứng cao bay mãi
Ngọc Lệ trơn tru sóng biển trong
 
Tăng lạy vái.
 
Điều Ngự nói:
Nguyên lai đầy đủ muôn công dụng
Thiên lệch vì ngươi chẳng được nên
 
Lại đứng lên hỏi:
- Thế nào là ngàn trăm ức hóa thân?
 
Đáp:
Mây mù kéo bắt lên trời lượn
Thước nước như xưa cửa ngực vây
 
Lại đứng lên hỏi:
- Như thế?
 
Điều Ngự nói:
Dưới núi nhóm mây cười chết kẻ
Bốn bề hỗn độn sắt ăn xong.
 
Tăng lạy vái rút lui.
 
Hỏi:
- Bàn huyền nói diệu, đem cổ luận kim, thảy đều nhờ vào ngôn ngữ. Chẳng dính ngôn ngữ một câu làm sao mà nói ra đây?
 
Đáp:
Gió xuân lất phất ngàn hoa nở
Gãy mất càng xe một tiếng thôi
 
Tăng ngẫm nghĩ, mở miệng.
 
Điều Ngự lại nói:
Chim kêu rỉ máu đâu dùng chỗ
Như cũ mây chiều vắt núi tây.
 
Lại đứng lên hỏi:
- Muôn dặm mây nhóm là thế nào?
 
Đáp:
- Mưa mênh mông.
 
Lại đứng lên hỏi:
- Muôn dặm mây phủ là thế nào?
 
Đáp:
- Sáng rõ
 
Lại đứng lên hỏi:
- Rốt ráo là thế nào?
 
Đáp:
- Chớ nhúc nhích. Nhúc nhích thì ba mươi gậy.
 
Hỏi:
- Thế nào là mặt mũi xưa nay?
 
Điều Ngự chặp lâu, nói:
- Hiểu không?
 
Đáp:
- Không hiểu.
 
Điều Ngự liền đánh.
 
Hỏi:
-Thế nào là ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp?
 
Đáp:
Nếu dùng sắc thấy ta
Dùng âm thanh tìm ta
Người ấy hành đạo tà
Chẳng thể thấy Như Lai.
 
Hỏi:
- Thế nào là Phật?
 
Đáp:
- Cám trong cối
 
Hỏi:
- Thế nào là ý tây lai của tổ sư?
 
Đáp:
- Bánh vẽ.
 
Hỏi:
- Thế nào là đại ý của Phật pháp?
 
Đáp:
- Cùng hầm không đất khác.
 
Hỏi:
- Xưa có tăng hỏi Triệu Châu con chó có tính Phật không, Châu bảo không có. Ý chỉ thế nào?
 
Đáp:
Vị muối trong nước
Keo xanh trong màu
 
Hỏi:
Câu có câu không
Như dây bám cây
Thì thế nào?
 
Điều Ngự bèn nói:
Câu có câu không,
Dây khô cây đổ.
Mấy vị thầy tu,
Dập đầu trán vỡ.
Câu có câu không,
Gió vàng thể lộ.
Vô số cát sông,
Kiếm đâm dao bổ.
Câu có câu không
Lập chỉ lập tông.
Dùi rùa đập ngói,
Trèo núi lội sông.
 
Câu có câu không
Chẳng có chẳng không,
Khắc thuyền tìm gươm,
Bản đồ kiếm ngựa.
 
Câu có câu không,
Đắp đỗi hay không.
Nón tuyết giày bông
Ôm cây đợi thỏ
 
Câu có câu không,
Từ nay từ xưa.
Quên trăng giữ ngón.
Chết đuối trên bờ.
 
Câu có câu không,
Như vậy như vậy,
Tám chữ mở toang,
Không còn mũi rẫy
 
Câu có câu không,
Ngó phải ngó trái.
Ráo riết hùa theo,
Ồn ào tranh cãi.
 
Câu có câu không,
Rầu rầu rĩ rĩ.
Cắt đứt sắn bìm,
Đó đây vui vẻ.
Bèn xuống tòa.
 
BÀI GIẢNG TẠI VIỆN KỲ LÂN

Ngày mồng 9 tháng giêng nhuận năm Bính Ngọ (1306), Trúc Lâm đại tôn giả đến viện Kỳ Lân khai đường, chỉ pháp tòa nói:
- Tòa này là giường mây khúc lục, là tòa báu kim nghê. Ngồi đây đoán định lời lẽ Phật tổ thì thật rất chật hẹp.
 
Bèn niêm hương:
- Một nén hương này, khói lành thơm phức, khí tốt bay lên, ngưng đọng năm phần pháp thân, biến khắp mười phương lễ diệu. Sức nóng lò hương dâng lên mười phương ban phúc, chín miếu ứng thiêng, tuổi vua lâu bền, ngôi trời vững chãi.
 
Một nén hương này, trong sạch rễ mầm, hiếm lạ giống tính, không mượn sức bón vun, toàn nhờ xông thấy biết. Sức nóng lò hương vâng xin mưa thuận gió hòa, nước thái dân yên, trời Phật thêm sáng, xe pháp thường quay.
 
Một nén hương này, nướng cũng không chín, đốt cũng không cháy, gõ vào không mở, kéo lại không đến, ngó trộm thì con ngươi khô kiệt, ngửi thử thì cửa não téc đôi. Sức nóng lò hương dâng lên Vô Nhị thượng nhân, Tuệ Trung đại sĩ, mưa pháp ơn nhuần, cháu con đều gội.
 
Thượng hoàng đến tòa giảng, khi thăng đường, thượng thủ đánh bảng.
Vân vân.
 
Sư nói:
- Đại chúng, nếu nhắm vào chân lý thứ nhất mà nói, động niệm tức sai, mở miệng là bậy, thì làm sao hiểu chân lý, làm sao hiểu quán tưởng? Hôm nay, hãy căn cứ vào chân lý thứ hai mà nói, thế có được không nào?
 
Rồi Sư ngoảnh nhìn tả hữu, nói:
- Ở đây chẳng có người nào có đủ được con mắt to lớn hay sao. Nếu có, hai đóa lông mày không mất một mảy may. Nếu không, bần đạo không khỏi cái miệng lầm rầm, đưa ra những lời thừa rách nát sáo mòn.Nhưng vì các người, xin lấy ra một phần hổ lốt. Hãy lắng nghe, lắng nghe.
 
Này xem, đạo lớn trống rộng, đâu buộc đâu ràng, bản tính sáng trong, chẳng lành chẳng dữ. Bởi do chọn lựa, lắm ngả sinh ngang, một giây thoáng mờ, dễ thành trời vực. Thánh phàm cùng chung một lối, phải trái há được phân ranh. Nên biết tội phước vốn không, nhân quả rốt ráo chẳng thật. Người người vốn đủ, ai nấy tròn đầy. Phật tính pháp thân như hình với bóng, lúc ẩn lúc hiện, chẳng dính chẳng rời. Lỗ mũi thẳng xuống cửa mặt, lông mày vắt ngang hố mắt, há dễ tìm thấy được đâu?
 
Nên hãy đi tìm cái đạo không thấy. Ba ngàn pháp môn cùng về tấc dạ. Hà sa diệu dụng thảy tại nguồn tâm. Cái gọi là giới môn, định môn, tuệ môn, các người không thiếu. Nên trở về mà tự nghĩ suy. Phàm những tiếng ho hắng, mày dương mắt nháy, tay cầm chân bước, đó là tính gì? Biết được tính đó là tâm gì, tâm tính rõ thông, thì cái gì đúng, cái gì là không đúng.
 
Pháp tức là tính, Phật tức là tâm. Tính nào chẳng phải là pháp? Tính nào chẳng phải là Phật. Tức tâm tức Phật, tức tâm tức pháp, pháp vốn chẳng pháp. Tức pháp tức tâm, tâm vốn chẳng tâm, tức tâm tức Phật.
 
Này các người, thời gian dễ trôi qua, mạng người không dừng lại. Cớ sao ăn cháo ăn chay, mà không rõ việc cái bát cái tô, chiếc thìa đôi đũa để tìm hiểu?
 
* * *
 
Bấy giờ có vị tăng bước ra, nói:
Ăn cơm mặc áo, tầm thường việc
Sao phải quan tâm để phát ngờ.
 
Bèn lạy xuống, rồi đứng lên hỏi:
- Cõi thiền vô dục thì không hỏi. Cõi dục không thiền, xin nói cho một câu.
 
Sư đưa tay chỉ vào khoảng không.
 
Lại đứng lên hỏi:
- Dùng đờm dãi người xưa để làm gì?
 
Sư nói:
- Mỗi lần nêu ra, một lần mới.
 
Lại đứng lên hỏi:
- Người xưa đều nói như thế nào là Phật, như thế nào là pháp, như thế nào là tăng. Chỉ như thế nào ấy thì việc thế nào?
 
Sư đáp:
- Như thế nào. Việc như thế nào.
 
Lại đứng lên nói:
Không dây đàn gảy tri âm ít
Cha đánh con nghe, cách điệu cao.
 
Vân vân.
 
* * *
 
Một hôm, sư nghe đồ đệ tụng kinh, bèn hỏi:
- Chúng làm gì thế?
 
Có tăng đi ra, thưa:
- Chúng niệm Phật tâm.
 
Sư nói:
Nếu bảo là tâm,
Tâm tức không Phật.
Nếu bảo là Phật,
Phật tức không tâm.
Thì gọi cái gì là tâm?
 
Tăng không nói.
 
* * *
 
Lại hỏi một vị Tăng:
- Chúng đang làm gì?
 
Tăng đáp:
- Niệm Phật.
 
Sư nói:
- Phật vốn vô tâm thì niệm cái gì?
 
Lại đứng lên nói:
- Niệm việc đó.
 
Sư hỏi:
- Việc đó là việc gì?
 
Lại đứng lên nói:
- Không biết.
 
Sư nói:
- Ông đã không biết, thì người nói đó là ai?
 
Vị Tăng không đáp lời.
Vân vân.
 
Lỗ kiến vỡ đê
Mảy bụi che mắt
Một hạnh vừa mất
Trăm hạnh đổ theo.
 
Trân trọng …
 
 
 
NÓI CHUYỆN VỚI SÀI THUNG (1278)
 
Tiên quân tôi qua đời. Tôi mới nối ngôi. Thiên sứ đến mở đọc chiếu thư, khiến tôi sợ vui lẫn lộn ở trong lòng. Trộm nghe chúa nước Tống bé nhỏ, mà thiên tử thương xót, còn phong cho tước công, thì đối với tiểu quốc tất cũng được thêm lòng thương xót. Xưa có bảo sáu việc, đã nhờ ơn tha miễn. Còn lễ tự thân đến chầu thì tôi sinh trưởng thâm cung, không tập cưỡi ngựa, không quen phong thổ, sợ chết dọc đường. Em tôi từ thái úy trở xuống cũng đều thế cả. Thiên sứ trở về, xin kính cẩn dâng biểu bày tỏ lòng thành, cùng cống vật lạ.
 
* * *
 
NÓI CHUYỆN VỚI TRƯƠNG LẬP ĐẠO (1291)
 
Bản quốc quy phụ Thiên triều ba mươi năm nay, lòng thờ bề trên chưa ngày nào có chút xao lãng, lễ cống hàng năm chưa từng thiếu sót. Kể từ đời ông, rồi tới cha, cho đến ngày nay, trước sau một lối.
 
Nhiều lần tiếp được chiếu vời, chỉ vì đau yếu không thể vào chầu, đến nỗi Thánh thượng nổi giận, dấy quân sang đánh, khiến cho sinh linh nước tôi bị giết hại, lăng mộ bị bới đào, chùa chiền bị đốt phá, cây cối bị chặt đẵn không thể kể xiết. Bản quốc chẳng có tội tình gì mà phải chịu nạn lớn như vậy.
 
Chiếu thư của thiên tử lần nào cũng nói nước tôi có tội giết quốc thúc, đuổi sứ giả, chống cự quân thiên triều, tội ấy đến nay chưa thể tha, nhưng quốc thúc tôi vốn do tiên vương tôi sai sang chầu “Thiên tử” để thay mặt giải bày, “Thiên tử” lại phong quốc thúc làm vương, khiến cho quốc thúc tôi tự hãi không biết tránh đi đâu. Chẳng phải nước tôi hại quốc thúc mà quốc thúc tự trốn ra miền Hải Nam, người trong tông tộc cầm quân nghênh chiến, điều ấy quả thực tôi không hề biết vậy.
 
Duy một việc không sang chầu là vì tham sống sợ chết chứ không có ý gì khác; xa ngoài vạn dặm, đường đất gian nguy, chướng khí núi non, không quen thủy thổ, nếu chết ở giữa đường phỏng có ích gì cho “thượng quốc” đâu? Liền mấy năm nay, lễ cống không thiếu sót, cẩn thận thờ người trên, phỏng có thiệt gì cho “thượng quốc” đâu? Tâm tình đó của người dưới không được đề đạt đến người trên vậy.
 
Nay thiên sứ sang đây, mong được kể rõ nỗi oan của bản quốc, để ngài về kinh tâu bày trước “thiên tử”. “Khắp cả gầm trời, chẳng đâu không phải đất nhà vua; khắp các bến bờ trên cõi đất, chẳng ai không phải bề tôi nhà vua. Cả nước Nam này đã là dân của “Thiên tử” thì lại càng không có chí gì khác. “Thiên tử” coi bốn bể là nhà, nước tôi tuy không sang chầu được thì cũng vẫn ở trong lãnh vực ấy, vẫn là bề tôi của xã tắc, điều này duy trời đất biết cho thôi. 
 
•••••
 
 
 
SỐ NGƯỜI TRUY CẬP: 0    USER ONLINE: 0