Trần Nhân Tông Library

Văn trị - Võ công

Lời tác giả

Cuộc chiến tranh vệ quốc 1285

Cuộc chiến tranh vệ quốc 1288

Xây dựng hòa bình thời hậu chiến

Một số vấn đề tư tưởng

Vua Trần Nhân Tông là một vị anh hùng dân tộc, có những đóng góp to lớn, nhiều mặt cho đất nước, cho lịch sử. Vua đã trực tiếp lãnh đạo quân và dân nước ta, tập hợp được những nhà quân sự tài giỏi, huy động được tiềm lực của toàn dân, đánh thắng đội quân hung hãn, thiện chiến nhất thời bấy giờ, làm nên những chiến công oanh liệt Hàm Tử, Chương Dương, Bạch Đằng, Tây Kết lẫy lừng, đưa dân tộc ta lên đỉnh cao của thời đại. Không những thế, vua đã mở rộng biên cương của tổ quốc, đặt nền móng vững chắc cho sự nghiệp Nam tiến hoành tráng của dân tộc, mà con cháu hôm nay và mai sau mãi mãi ghi nhớ và biết ơn.

Thêm vào đó, nền văn hóa Việt Nam thời đại vua Trần Nhân Tông đã xuất hiện hai sự kiện có ý nghĩa hết sức trọng đại.Thứ nhất là việc dùng tiếng Việt như một ngôn ngữ hành chánh chính thức của triều đình cùng với tiếng Hán. Đây là lần đầu tiên việc sử dụng tiếng Việt đã được ghi lại bằng minh văn. Các triều đại trước chắc chắn đã ít nhiều dùng tiếng Việt, nhưng cho đến nay ta không có bất cứ một xác minh nào. Chính dưới thời vua Nhân Tông, mà một sự kiện như thế đã chính thức được chép lại. Phải nói rằng, tiếng Việt sử dụng chính thức này đã tạo điều kiện cho sự ra đời một loạt các tác phẩm văn học tiếng Việt từ Tiều ẩn quốc ngữ thi tập của Chu Văn An, cho đến bản dịch Kinh Thi của Hồ Quý Ly, cùng các bài thơ của Nguyễn Biểu, Trần Trùng Quang, nhà sư chùa An Quốc. Đặc biệt là Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi và bản dịch kinh Phật thuyết đại báo phụ mẫu ân trọng và Phật thuyết báo phụ mẫu ân trọng tiếng Việt xưa nhất hiện còn, có thể là của thiền sư Viên Thái.

Sự kiện thứ hai là việc vua Trần Nhân Tông đã thành lập dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử thuần túy Việt Nam với chủ trương Cư trần lạc đạo. Triều vua Trần Nhân Tông có những biến động chính trị, quân sự to lớn qua việc hai lần đánh thắng quân xâm lược Nguyên Mông và việc sát nhập hai châu Ô, Lý vào bản đồ Đại Việt, cùng những biến động học thuật với việc sử dụng tiếng Việt như một ngôn ngữ chính thức cùng với tiếng Hán, thì tất nhiên phải có những biến động về tư tưởng. Giữa những biến động này chứng tỏ có quan hệ biện chứng. Không thể có biến động này xảy ra mà không kéo theo một biến động khác xuất hiện.

Chính từ những biến động đó, mà dòng thiền Trúc Lâm ra đời, không những làm nền tảng cho sự phát triển Phật giáo Việt Nam mấy trăm năm tiếp theo, mà còn tạo tiền đề cho sự nghiệp Nam tiến của dân tộc trong mấy trăm năm ấy. Không phải ngẫu nhiên vị sáng tổ của phái Thảo Đường là vua Lý Thánh Tông mở đầu cho sự nghiệp Nam tiến vào năm 1069. Rồi vua Trần Nhân Tông đặt nền móng cho sự nghiệp đó với việc thành lập hai châu Thuận và Hóa. Và gần đúng 400 năm sau, Bồ tát giới Hưng Long Nguyễn Phúc Chu đã chính thức sai tướng Nguyễn Hữu Cảnh đi thiết lập thành phố Sài Gòn và gầy dựng Nam Bộ thành một bộ phận không thể phân ly của tổ quốc Việt Nam. Phải có một lý luận đằng sau những người con ưu tú này của dân tộc. Vì Cư trần lạc đạo phú của vua Trần Nhân Tông được bảo tồn qua các truyền bản lưu giữ trong các tự viện của dòng thiền Trúc Lâm, lần đầu tiên ta có một văn bản để nghiên cứu cơ sở lý luận vừa nói.

Sự nghiệp văn trị và võ công của vua Trần Nhân Tông vĩ đại như thế. Trải qua 700 năm lịch sử, sự nghiệp này đã được nhiều lần đánh giá và ca ngợi, từ những người đồng thời như Trương Hán Siêu, Trần Minh Tông, Phạm Sư Mạnh cho đến những người về sau như Nguyễn Trãi, Ngô Sỹ Liên, Lê Quý Đôn, Ngô Thời Nhiệm v.v… Song hiện nay một số người vẫn còn nhận thức mơ hồ, thậm chí lệch lạc. Và sự nghiệp văn học và tác phẩm của vua Trần Nhân Tông cũng đã từng bước được sưu tập như Việt âm thi tậpToàn Việt thi lụcTam tổ thực lục,... Nhưng cho đến nay, trong công tác sưu tập này vẫn còn có những thiếu sót. Chẳng hạn toàn bộ các văn thư ngoại giao do vua Trần Nhân Tông viết cho vua quan nhà Nguyên vẫn chưa được thu thập và công bố đầy đủ, tối thiểu là trong giới hạn của những nguồn tư liệu hiện tại bảo lưu và cho phép.

Chúng tôi, do thế, đề nghị giới thiệu lại sự nghiệp võ công và văn trị cùng những tác phẩm văn học, mà vua Trần Nhân Tông đã để lại cho chúng ta đến ngày hôm nay. Toàn tập Trần Nhân Tông ra đời là một thể hiện nỗ lực ấy. Toàn tập này được chia làm hai phần. Phần đầu giới thiệu tổng quát sự nghiệp võ công và văn trị qua 9 chương nghiên cứu từng vấn đề, từ tuổi trẻ cho đến vai trò nhà vua trong hai cuộc chiến tranh 1285 và 1288, cũng như trong việc mở mang bờ cõi, sử dụng tiếng Việt và thành lập dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử. Phần hai công bố các tác phẩm văn học từ thơ phú, văn xuôi, bài giảng, ngữ lục cho đến các văn thư ngoại giao, nhằm cung cấp tư liệu cho những ai quan tâm nghiên cứu nhiều mặt về lịch sử Việt Nam nói chung và bản thân vua Trần Nhân Tông nói riêng.

Cuối cùng, để cung cấp tài liệu tham khảo và kiểm soát, chúng tôi cho in lại toàn bộ các văn bản chữ Hán và Quốc âm, mà chúng tôi sử dụng để phiên âm hay dịch nghĩa. Trong trường hợp có nhiều bản khác nhau, chúng tôi chọn những bản xưa nhất hiện có làm bản gốc và cho in, còn các bản khác thì được dùng làm khảo dị.

Toàn tập này về cơ bản hoàn thành vào năm 1977, nhưng đến nay mới được công bố trọn vẹn. Tuy vậy, chỉ có một điều đáng tiếc là trong số các tác phẩm của vua Trần Nhân Tông do chúng tôi sưu tầm được trong những năm 1974-1975 và trước đó, thì trong lần công bố này thiếu mất bản dịch chú Lăng nghiêm do Bồ Đề Thất Lỵ (Bodhisri) truyền đạt, Bảo Sát bút thọ và vua Trần Nhân Tông nhuận sắc. Đây có thể nói là một trong những bản dịch cuối cùng từ tiếng Phạn ra tiếng Hán tại nước ta và của Viễn Đông và có sự tham gia của nhà vua.

Bản chúng tôi tìm thấy tại chùa Từ Quang tỉnh Phú Yên là một bản in thời Cảnh Hưng không còn nguyên vẹn lắm. Những trang đầu có lời tựa đã bị mất, chỉ còn tờ cuối. Còn năm đệ chú Lăng Nghiêm thì bốn đệ đầu còn nguyên, đệ cuối cùng bị rách và chỉ còn đoạn phiến. Về phần Thập chú cũng bị mất. Sau mỗi cụm từ Phạn in cỡ chữ lớn có hai hàng chữ Hán dịch nghĩa in cỡ chữ nhỏ. Rất tiếc bản này đã bị thất lạc trong năm 1984. Chúng tôi hy vọng những ai đang giữ bản in ấy, vì lợi ích chung của nền học thuật nước nhà, xin công bố, để làm tư liệu nghiên cứu cho việc tìm hiểu không những chính các đóng góp của vua Trần Nhân Tông đối với dân tộc và Phật giáo, mà còn lịch sử văn hóa và tư tưởng Việt Nam nói chung.

                                                                                      Vạn Hạnh
                                                                     Tiết trùng dương năm Kỷ Mão
                                                                                LÊ MẠNH THÁT
                                                                                        

Ta đã thấy ngay vào năm 1279, khi Trần Nhân Tông lên ngôi ở Đại Việt và khi nhà Tống bị tiêu diệt ở Trung Quốc, Hốt Tất Liệt liền ra lệnh đóng chiến thuyền tiến đánh Đại Việt, ý chừng muốn thừa thắng xông lên, sử dụng đội quân bách chiến bách thắng, đè bẹp sức chiến đấu của dân tộc ta. Tuy nhiên, do rút kinh nghiệm trong cuộc chiến 1258, lần này Hốt Tất Liệt chuẩn bị phương hướng và sách lược kỹ càng hơn với việc cho Toa Đô tiến đánh Chiêm Thành vào năm 1282 để làm gọng kìm phía nam cùng với hai gọng kìm đông bắc và tây bắc, nhằm bóp nát Đại Việt. Thực tế ta sẽ thấy cuộc chiến sẽ xảy ra theo hướng đúng như thế, nhưng kết quả hoàn toàn khác.

Hốt Tất Liệt chuẩn bị cuộc chiến năm 1285
 
Sau thất bại của việc áp đặt chính quyền bù nhìn Trần Di Ái lên nước ta vào cùng năm 1282, Hốt Tất Liệt vẫn kiên trì chờ đợi thắng lợi từ chiến trường Chiêm Thành. Nhưng chiến thắng đã không bao giờ xảy ra. Bản kỷ của Nguyên sử 13 tờ 2b2-3 và 2b9-11 đã ghi nhận về sự tan rã của đội quân Toa Đô từ Chiêm Thành chạy về Trung Quốc và "bình chương của Hồ Quảng hành tỉnh là A Lý Hải Nha xin tự thân mình đến bờ biển thu thập đám quân tan rã từ Chiêm Thành". Quân dân Chiêm Thành đã tiến hành một cuộc kháng chiến trường kỳ, vừa đánh vừa đàm, dìm đội quân Toa Đô trong vũng lầy của chiến tranh du kích tại một đất nước nhiệt đới.
 
Chờ mãi không thấy chiến thắng, mà chỉ thấy thư yêu cầu viện binh, Hốt Tất Liệt ngày Đinh Sửu 28 tháng 5 năm Chí Nguyên 21 (1284) đã tước hổ phù của Ô Mã Nhi do thất bại trong khi đem quân đi tiếp viện cho Toa Đô. Rồi đến ngày Mậu Tý 12 tháng 7 năm đó ra lệnh cho con là Thoát Hoan chính thức cầm quân đánh Chiêm Thành như Bản kỷ của Nguyên sử 13 tờ 4a8 đã chép. Song đây là một quyết định giả vờ, vì đối tượng xâm lược chủ yếu của Thoát Hoan không phải là Chiêm Thành, mà chính là Đại Việt. Cũng chính trong ngày Mậu Tý ấy, phái bộ của trung lượng đại phu Nguyễn Đạo Học do vua Trần Nhân Tông cử đi đem phương vật biếu vua Nguyên, đồng thời để dò xét tình hình. Đó cũng là ngày vua Nguyên cho phái bộ Lê Anh của ta về nước.
 
Hốt Tất Liệt cho tổ chức bộ máy chỉ huy quân sự khổng lồ, mà ngoài Thoát Hoan ra thì gồm hầu hết các tướng tài của đội quân Mông Cổ từng có chiến công trong việc tiêu diệt nhà Tống. Đó là A Lý Hải Nha, người chiến thắng của các thành Tương Dương, Ngạc Châu, Phàn Thành, Tỉnh Giang, Giang Lăng và nhiều chiến trường khác nữa của Trung Quốc. Rồi Lý Hằng, kẻ chiến thắng trong chiến dịch Nhai Sơn, hoàn thành việc tiêu diệt vương triều Tống. Và một loạt các tướng tá đã từng cộng tác với A Lý Hải Nha và do chính A Lý Hải Nha cất nhắc bồi dưỡng như Áo Lỗ Xích, Trình Bằng Phi, Ô Mã Nhi, Toa Đô, Phàn Tiếp, v. v. Nói cách khác, Hốt Tất Liệt đã tập hợp một bộ sậu tác chiến đầy kinh nghiệm và có bản lĩnh.
 
Khi Thoát Hoan còn ở Kinh Hồ Chiêm Thành hành tỉnh vào tháng 7 năm Chí Nguyên 21 (1284), vua Trần Nhân Tông đã sai phái bộ Nguyễn Đạo Học sang gặp Thoát Hoan. Và theo An Nam truyện của Nguyên sử 209 tờ 5b12-6a6, Thoát Hoan đã sai lý vấn quan Khúc Liệt (Kỳlô) và tuyên sứ Tháp Hải Tản Lý (Taqai Sarϊq) cùng với Nguyễn Đạo Học đem thư của A Lý Hải Nha trách vua ta và đòi vua phải cung cấp lương thực cho quân Nguyên và lên biên giới đón Thoát Hoan vào đất nước mình trên đường chúng đi đánh Chiêm Thành. Khi Thoát Hoan tiến quân đến huyện Hành Sơn của Hồ Nam thì Khúc Liệt và Tháp Hải Tản Lý đã trở về từ Đại Việt cùng với phái bộ Trần Đức Quân và Trần Tự Tông do vua Trần Nhân Tông gửi lên cùng bức thư của vua, từ chối việc mượn đường của Thoát Hoan: "Từ nước tôi đến Chiêm Thành, thủy bộ đều không tiện". Khi nhận được thư này, Thoát Hoan lại cho Triệu Tu Kỷ gửi thư lại cho vua Trần Nhân Tông yêu cầu mở đường và cấp lương. Cùng lúc lại được tin Trần Hưng Đạo đem quân lên án ngữ biên giới.
 
Tất cả chi tiết này An Nam truyện của Nguyên sử 209 tờ 5b11 chép vào tháng 2 của năm Chí Nguyên thứ 22 (1285). Lý do nằm ở chỗ Bản kỷ của Nguyên sử 13 tờ 6a5 đã ghi tháng 12 năm Chí Nguyên 21, quân của Thoát Hoan đã tới nước ta. An Nam chí lược 4 tờ 53 ghi càng rõ hơn: "Tháng 12 ngày 21 Giáp Tý, quân đã đến đón ở biên giới An Nam". Điều này hoàn toàn phù hợp với những ghi chép của Kinh thế đại điển tự lục trong Nguyên văn loại 41 tờ 27a2-3: "Năm 21 tháng 10, quân đến Vĩnh Châu. An Nam sai Hưng Đạo Vương đem quân 2 vạn đóng những nơi xung yếu để chặn quân vua. Tháng 12, đánh bại chúng ở ải Khả Ly".
 
Như vậy, đúng ra phải tới tháng 10 năm Chí Nguyên 21 (1284), Thoát Hoan mới tiến quân đến huyện Vĩnh Châu của Hồ Nam. Tại đây, A Lý Hải Nha lại sai vạn hộ Triệu Tu Kỷ viết thư đòi vua ta phải "mở đường, sửa soạn lương thực đến đón Trấn Nam Vương", như An Nam truyện của Nguyên sử 209 tờ 6a5-6 đã ghi. Cũng theo An Nam truyện của Nguyên sử 209 tờ 6a6-7, tới Ung Châu của Quảng Tây, Thoát Hoan được tin tướng điện tiền Phạm Hải Nhai của Đại Việt đem quân đến đóng các xứ Khả Lan, Vi Đại Trợ. Thoát Hoan cho tiến quân tiếp đến Tư Minh của Quảng Tây, viết thư cho vua Trần Nhân Tông, để lặp lại các đòi hỏi mà A Lý Hải Nha đã nói tới. Rồi tiếp tục dẫn quân vào đất nước ta ở Lộc Châu, tức huyện Lộc Bình của Lạng Sơn ngày nay.
 
Tại đây, khi nghe tin vua Trần Nhân Tông đã điều quân đóng các ải Khâu Ôn và Khâu Cấp Lãnh, Thoát Hoan và A Lý Hải Nha đã chia quân làm hai ngả để tiến. Việc chia quân này theo An Nam chí lược 4 tờ 53 là vào ngày 21 Giáp Tý tháng 12 năm Giáp Thân, tức ngày 27 tháng giêng năm 1285, và nó cũng cho biết cánh quân phía Tây do Vạn Hộ Bột (An Nam chí lược viết Lý, LMT) La Hợp Đáp Nhi (Bolqadar) và chiêu thảo A Thâm (Atsin) chỉ huy do đường huyện Khâu Ôn tiến xuống. Còn cánh phía Đông thì có khiếp tiết Tản Đáp Nhi Đãi (Tatartai) và vạn hộ Lý Băng Hiến tiến xuống bằng đường Cấp Lãnh.
 
Ngay thời điểm này vua Trần Nhân Tông vẫn sai thiện trung đại phu Nguyễn Đức Dư và triều thỉnh lang Nguyễn Văn Hàn đưa thư tới Thoát Hoan yêu cầu lui quân, nhắc tới tờ chiếu Hốt Tất Liệt năm 1261 về việc "sắc riêng cho quân ta không vào bờ cõi nhà ngươi", như An Nam truyện của Nguyên sử 209 tờ 6a9-10. A Lý Hải Nha đã giữ Nguyễn Văn Hàn lại và cho Nguyễn Đức Dư cùng đi với tổng bản A Lý đem thư hắn trả lời việc xin lui quân của phía ta bằng cách nói rằng: "Sở dĩ dấy quân là vì Chiêm Thành chứ không phải vì An Nam". Nhưng A Lý đến vùng đất huyện Cấp Bảo thì gặp quân Đại Việt do quản quân Nguyễn Lộc chỉ huy, rồi các nơi thôn Lý, huyện Đoản, Vạn Kiếp đều có quân của Hưng Đạo Vương, nên A Lý không tiến lên được. A Lý Hải Nha bèn sai Nghê Nhuận đi do thám hư thực để tính việc tiến quân. Chẳng bao lâu, Tản Đáp Nhi Đãi, Lưu Bang Hiến và Tôn Hựu báo cáo là đến ải Khả Ly gặp quân Giao đánh trả. Đó là viết theo An Nam truyện của Nguyên sử 209 tờ 6a3-b2.
 
Trận Nội Bàng

Trong trận đánh tại ải này, Tôn Hựu đã bắt được 2 tướng của ta là quản quân phụng ngự Đỗ Vĩ và Đỗ Hựu và sau đó giết 2 tướng này. Rồi tiến đến Động Bàng, đại quân của Thoát Hoan đã giao chiến với quân ta và tướng Tần Sâm trúng thương, đã hy sinh. Tiếp theo, chúng tiến quân đến đóng ở thôn Biến Trú.
 
Ngày 26 tháng 12 ĐVSKTT viết: “Giặc đánh vào các ải Vĩnh Châu, Nội Bàng, Thiết Lược và Chi Lăng”. Thế là sau 5 ngày tiến quân từ Lộc Châu xuống, cánh quân phía tây của Bột La Đáp Nhĩ cũng như đại quân của Thoát Hoan đã thành công khi phá vỡ tuyến phòng ngự chủ yếu để bảo vệ kinh thành Thăng Long bằng cách vượt qua các cửa ải chính của nước ta ở phía bắc và bắt đầu tiến xuống đồng bằng phía nam. Đặc biệt khi đánh vào ải Nội Bàng, theo An Nam truyện của Nguyên sử 209 tờ 6b5, đại quân của Thoát Hoan đã chia làm 6 mũi để bao vây và tiến chiếm. Bản kỷ của Nguyên sử 13 tờ 6a5-6 viết: “Tháng đó, quân Trấn Nam Vương đến An Nam, giết những lính thú, chia quân sáu đạo để tiến. Hưng Đạo Vương của An Nam đem quân cự lại”.
 
Như vậy, đây có thể nói là một trận đánh lớn, nếu không phải là trận đánh quyết chiến chiến lược, bởi vì chỉ huy trận đánh này về phía ta là do chính Quốc công tiết chế Trần Hưng Đạo thực hiện và chắc chắn quân ta đã tổn thất nặng với Đại liêu ban Đoàn Thai bị giặc bắt sống. Sau này, như sẽ thấy dưới đây, vua Trần Nhân Tông đã ra lệnh cho Trần Hưng Đạo điều động quân ở các lộ về, mà riêng quân của các vương, con của Trần Hưng Đạo, đã lên tới gần 20 vạn. Hơn nữa, Trần Hưng Đạo đã rút khỏi Nội Bàng trong một tình thế hết sức bức bách và vội vã, có vẻ như mặt trận Nội Bàng tan vỡ đột ngột, nằm bên ngoài dự kiến của chính bản thân Trần Hưng Đạo.
 
ĐVSKTT 5 tờ 45a4 -b1 viết về việc rút quân khỏi trận đánh này một cách khá hình ảnh bằng cách kể lại chuyện Tỳ tướng Yết Kiêu chờ đợi ông tại Bãi Tân: “Trước đây Hưng Đạo Vương có gia nô tên là Dã Tượng và Yết Kiêu. Ông đối đãi họ rất hậu. Khi quân Nguyên đến, Yết Kiêu giữ thuyền ở Bãi Tân. Dã Tượng thì đi theo Hưng Đạo. Lúc quan quân thua trận, quân thuyền đều giải tán. Vương muốn theo lối chân núi mà đi. Dã Tượng nói: ‘Yết Kiêu chưa thấy đại vương, tất không dời thuyền chỗ khác’. Vương đi ngay đến Bãi Tân, chỉ có thuyền của Yết Kiêu còn đấy. Vương mừng lắm, nói rằng: ‘Chim hồng hộc có thể bay cao được là nhờ vào sáu trụ xương cánh. Nếu không có thì cũng như chim thường thôi’. Vương nói xong thì thuyền chèo đi, quân kỡ của giặc đuổi theo không kịp. Vương đến Vạn Kiếp, chia quân đóng giữ Bắc Giang”. Thế đủ biết mặt trận Nội Bàng tan vỡ trong tình huống hoàn toàn bất lợi, thậm chí có vẻ bất ngờ, không những đối với vị chỉ huy trực tiếp là Trần Hưng Đạo, mà còn đối với vua Trần Nhân Tông, vị lãnh tụ đồng thời là chỉ đạo tối cao của cuộc kháng chiến thời bấy giờ.
 
Sự tình này ta có thể thấy qua việc vua Trần Nhân Tông, khi được cấp báo về tình hình chiến sự Nội Bàng, đã bỏ ăn sáng, dong thuyền đi suốt ngày ra Hải Đông, để gặp Trần Hưng Đạo, như ĐVSKTT đã mô tả: “Lúc ấy vua ngự chiếc thuyền nhẹ, sang lộ Hải Đông. Ngày đã gần chiều, vua chưa ăn cơm sáng, có tiểu tốt là Trần Lai đem dâng cơm gạo xấu. Vua khen là trung, ban cho tước thượng phẩm, kiêm chức tiểu tư xã xã Hữu Triều Môn ở Bạch Đằng”. Rõ ràng việc vua Trần Nhân Tông bỏ ăn sáng và lập tức cho thuyền ra Hải Đông để gặp Trần Hưng Đạo, chứng tỏ mặt trận này đóng vai trò hết sức quan trọng trong chiến lược quốc phòng của nhà Trần lúc đó.
 
Có thể nói, nó cho ta thấy chủ trương tác chiến ban đầu của vua Trần Nhân Tông và Trần Hưng Đạo hình như là đưa quân lên chặn giặc ngay tại những vùng địa đầu biên giới của tổ quốc theo chiến lược Lý Thường Kiệt đã làm hơn 200 năm trước. Việc mặt trận Nội Bàng tan vỡ, do thế, đòi hỏi phải có những quyết định chiến lược mới, thay đổi chiến lược cũ trong việc đối phó với kẻ thù, phải có một phương án tác chiến mới mà có thể vua Trần Nhân Tông và Trần Hưng Đạo đã dự phòng. Vì vậy, vua Trần Nhân Tông phải trực tiếp đi gặp Trần Hưng Đạo.
 
Trần Hưng Đạo và vua Trần Nhân Tông đã bàn gì trong cuộc hội kiến chớp nhoáng ở Hải Đông, ngày nay ta không được biết. Nhưng sau cuộc gặp đó ĐVSKTT 5 tờ 44b7 -45a4 đã ghi: “Hưng Đạo Vương vâng lệnh điều quân dân các lộ Hải Đông, Vân Trà, Bà Điểm, chọn người mạnh khỏe làm quân tiên phong vượt biển vào nam. Thế quân đã hơi nổi. Các quân nghe thế, không quân nào là không đến tụ họp. Vua làm thơ đề ở cuối thuyền rằng:
 
Cối Kê việc cũ ông nên nhớ
Hoan Ái vẫn còn mười vạn quân
 
Hưng Vũ Vương Nghiễn, Minh Hiến Vương Uất, Hưng Nhượng Vương Tảng, Hưng Trí Vương Hiện đốc xuất quân các sứ Bằng Hà, Na Sầm, Trà Hương, Yên Sinh, Long Nhã, cộng 20 vạn quân đến họp ở Vạn Kiếp theo sự điều khiển của Hưng Đạo Vương để chống quân Nguyên”.
 
Sự thay đổi phương án tác chiến chiến lược thực tế đã xảy ra, mà rồi đây ta lần lượt sẽ thấy nó thể hiện trong phương pháp chỉ đạo chiến tranh của vua Trần Nhân Tông. Phương án mới này thường được các nhà quân sự hiện nay gọi là phương án “rút lui chiến lược và phản công chiến lược”. Cuộc hội nghị chớp nhoáng giữa Trần Nhân Tông và Trần Hưng Đạo sau khi mặt trận Nội Bàng tan vỡ, thể hiện tư duy quân sự sắc sảo không chỉ của Trần Hưng Đạo, mà của chính Trần Nhân Tông với tư cách là vị tổng tư lệnh quân đội của nước ta thời bấy giờ. Chỉ một việc Trần Nhân Tông bỏ ăn cả ngày để đi gặp Trần Hưng Đạo đủ chứng tỏ tình hình nguy ngập như thế nào. Không những thế, nó còn cho ta thấy, Trần Nhân Tông đã bám sát tình hình tác chiến của quân đội ta thời bấy giờ chặt chẽ và sít sao tới mức nào, để khi tình hình diễn biến phức tạp bất lợi và có nhiều nguy cơ, thì vua Trần Nhân Tông đã chủ động đi tới hiện trường giải quyết dứt điểm các vấn đề vừa mới nảy sinh. Việc điều động quân từ các lộ và vương hầu tập kết ở Vạn Kiếp là một thí dụ điển hình. Hai câu thơ cho thấy rõ ràng vua Trần Nhân Tông viết để nhắn gửi cho Trần Hưng Đạo và các tướng lĩnh thời bấy giờ. Về “việc cũ Cối Kê”, tức việc Câu Tiễn nước Việt xưa bị Phù Sai nước Ngô đánh bại, nhưng cuối cùng qua gian khổ, nhịn nhục, đã vùng lên tiêu diệt Phù Sai để chiến thắng. Điều này hàm ý sự kiện mặt trận Nội Bàng tan vỡ là một tổn thất vô cùng to lớn đối với quân đội Đại Việt. Chính vào thời điểm này, Thượng hoàng Trần Thánh Tông đã hỏi thử vị tướng trực tiếp chỉ huy mặt trận là Trần Quốc Tuấn xem nên có đầu hàng không. Nhà chiến lược thiên tài đã trả lời: “Trước chém đầu thần trước rồi hãy hàng” như ĐVSKTT 6 tờ 11B đã ghi. Tuy thế, khi đã tập kết quân các lộ về, riêng quân của các vương hầu, như Hưng Vũ Vương Nghiễn, Minh Hiến Vương Uất, Hưng Nhượng Vương Tảng và Hưng Trí Vương Hiện đã lên tới con số hai chục vạn, chứng tỏ thực lực quân đội ta lúc ấy đang được bảo toàn. Đứng trước một tập đoàn quân hùng mạnh như thế, ngoài việc phát động tinh thần quyết chiến quyết thắng của “việc cũ Cối Kê”, vua Trần Nhân Tông còn động viên và làm phấn khởi các tướng lĩnh và quân nhân hiện diện bằng cách báo cho họ biết một tin vui là lực lượng ta vẫn còn 10 vạn quân tại Hoan Ái sẵn sàng bổ sung vào chiến đấu. Hơn nữa, sau trận Nội Bàng, phía địch vẫn thừa nhận “Hưng Đạo Vương vẫn còn binh thuyền hơn 1000 chiếc, đóng cách Vạn Kiếp 10 dặm”, như An Nam truyện của Nguyên sử 209 tờ 6b6 đã ghi.
 
Trận Vạn Kiếp
 
Cuộc tấn công Nội Bàng vào ngày 26 Tết năm Giáp Thân của Thoát Hoan, mà An Nam chí lược ghi là ngày 27, chắc chắn đã kéo dài mấy hôm. Thế mà năm Giáp Thân sắp hết, Tết năm Ất Dậu đã gần kề, quân dân Đại Việt đang rộn ràng ăn Tết bằng chiến đấu và chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu. Trận Nội Bàng đã kết thúc. Trần Hưng Đạo đã rút về Vạn Kiếp và tập kết quân từ các lộ để sửa soạn cho cuộc chiến sắp tới. ĐVSKTT 5 tờ 45b2-3 cho ta biết: “Ngày mồng 6 tháng giêng mùa xuân năm Ất Dậu Thiệu Bảo thứ 7 (1285) Ô Mã Nhi nhà Nguyên đánh vào các xứ Vạn Kiếp và núi Phả Lại, quan quân vỡ chạy”. Tuy nhiên, Nguyên sử 13 tờ 6a6 lại ghi: “Tháng đó (tức tháng 12 năm Chí Nguyên thứ 21), Hưng Đạo Vương của An Nam đem quân chống lại ở Vạn Kiếp, bèn tiến quân đánh bại nó. Vạn hộ Nghê Nhuận đánh, chết ở Lưu Thôn”.
 
Thế là từ chiến thắng Nội Bàng, Thoát Hoan đã triển khai ngay kế hoạch tấn công Vạn Kiếp, chứ không chờ gần 10 ngày mới cho lệnh tấn công, như ĐVSKTT đã có. Dẫu sao đi nữa, trong trận chiến Nội Bàng và những trận trước như Động Bàng, Khâu Ôn, nếu quân ta có tổn thất, thì nhất định quân địch cũng tổn thất không kém do tinh thần chiến đấu ngoan cường của quân đội ta. Vì vậy, cả hai bên đều cần thời gian, gấp rút tổ chức lại quân đội và sắm sửa khí tài phục vụ cho cuộc chiến sắp tới.
 
Theo An Nam truyện của Nguyên sử 209 tờ 6b6-7, Thoát Hoan cho dựng công trường đóng chiến thuyền và thành lập các cánh quân thủy, giao Ô Mã Nhi chỉ huy, tiến xuống Vạn Kiếp. Trên đường tiến, chúng đã lượm được hai lá thư vua Trần Nhân Tông gửi cho Thoát Hoan và A Lý Hải Nha về việc yêu cầu chúng chấp hành lệnh năm Trung Thống thứ 2 (1261) của Hốt Tất Liệt và đòi chúng rút quân về. Đồng thời, A Lý Hải Nha gửi thư cho vua Trần Nhân Tông yêu cầu mở đường “cho triều đình đem quân đánh Chiêm Thành”, rồi giao cho sứ ta bị chúng giữ lại là Nguyễn Văn Hàn đem tới Vạn Kiếp.
 
Đến giờ phút đó, A Lý Hải Nha vẫn còn dở giọng như An Nam truyện của Nguyên sử 209 tờ 6b11-7a3 đã ghi: “Triều đình đem quân đánh Chiêm Thành, nhiều lần đưa thư cho thế tử, bảo mở đường, chuẩn bị lương, không ngờ đã trái mệnh triều đình, để bọn Hưng Đạo Vương đem quân chống lại, đánh bị thương quân ta. Để cho sinh linh An Nam chịu tai họa, chính là do nước ngươi làm ra. Nay đại quân qua nước ngươi, để đánh Chiêm Thành, hoàng đế truyền lệnh cho thế tử hãy nghĩ kĩ đi. Nước ngươi quy phụ đã lâu, nên nghĩ đến đức thương yêu to lớn của hoàng đế, mà lập tức ra lệnh rút quân mở đường, khuyên bảo trăm họ ai nấy cứ làm ăn sinh sống. Quân ta đi qua, không mảy may xâm phạm. Thế tử hãy ra đón Trấn Nam Vương, cùng bàn việc quân. Nếu không, đại quân sẽ đóng lại ở An Nam, mở phủ”.
 
Về phía Đại Việt, thì như đã thấy, vua Trần Nhân Tông và Trần Hưng Đạo đã điều động quân các lộ vùng đông bắc như Hải Đông, Vân Trà, Ba Điểm và các xứ Bàng Hà, Na Sầm, Trà Hương, Yên Sinh và Long Nhãn về đóng ở Vạn Kiếp và núi Phả Lại. Núi Phả Lại, theo An Nam Chí Nguyên 1 tờ 42 mục Sơn xuyên thì “ở huyện Từ Sơn, mặt kề Bình Than, sông Như Nguyệt quanh bên trái, sông Ô Cách bọc bên phải, cảnh vật mỹ lệ, là cảnh đẹp một phương”. Bản thân Trần Nhân Tông theo An Nam truyện của Nguyên sử 209 tờ 7a3-4 thì đem “các quân Thánh Dực hơn một nghìn thuyền giúp Hưng Đạo Vương cự chiến”.
 
Vậy là, khi Tết Ất Dậu chưa tới, theo Bản kỷ của Nguyên sử, Ô Mã Nhi đã ra lệnh tấn công căn cứ Vạn Kiếp. Một trận đánh ác liệt đã nổ ra. Tướng Nguyên là vạn hộ Nghê Nhuận đã tử trận tại Lưu Thôn. Điều này phù hợp với mô tả trong An Nam truyện của Nguyên sử 209 tờ 6b5-6. Theo đó, sau trận Nội Bàng, “Hưng Đạo Vương trốn đi, quan quân đuổi đến Vạn Kiếp, đánh các ải, đều phá được”. Trận Vạn Kiếp đã xảy ra như vậy trước Tết Ất Dậu.
 
 
Trận Bình Than

Đến ngày mồng 9 Nhâm Ngọ tháng giêng, theo An Nam chí lược 4 tờ 54 vua, Trần Nhân Tông “đem 10 vạn quân, đại chiến ở Bài Than. Nguyên soái Ô Mã Nhi, chiêu thảo Nạp Hải (Naqai), và trấn phủ Tôn Lâm Đức đem những thuyền bắt được từ trước đến đánh tan”. Cũng ngày này, Bản kỷ của Nguyên sử 13 tờ 7a8-9 ghi nhận: “Ô Mã Nhi dẫn quân gặp Hưng Đạo Vương của An Nam bèn đánh bại”, tuy không nói ở đâu. Thế thì, trận Bài Than với 10 vạn quân do vua Trần Nhân Tông chỉ huy chắc chắn phải gồm cả nghìn chiến thuyền do Trần Hưng Đạo bố trí cách Vạn Kiếp chừng 10 dặm, mà Nguyên sử nói tới ở trên.
 
Bài Than ở đây tức chính là Bình Than, bởi vì An Nam Chí Nguyên 1 tờ 46-47 khi viết về sông Bình Than, đã nói: “Một tên là Bàn Than, lại có tên Bài Than ở tại huyện Chí Linh, phát nguyên từ Xương Giang đến sông Thị Cầu, thì hai nhánh hợp lưu chảy qua hai núi Chí Linh và Phả Lại, quanh co mênh mông không rõ đâu là bờ bến, đến cửa sông Đồ Mộ thì rẽ thành hai nhánh và chảy vào biển”. Bài Than trong trích dẫn này là đọc theo thủ bản B do Gaspardone đã ghi lại ở phần khảo dị trang 47. ([1])
 
Vậy, Bình Than “mặt kề” với núi Phả Lại, nơi ba năm trước đã chứng kiến hội nghị quân sự đánh Nguyên do vua Trần Nhân Tông chủ trì, thì bây giờ đang là địa điểm diễn ra trận thủy chiến dữ dội nhất của lịch sử quân sự dân tộc do chính vua Trần Nhân Tông trực tiếp chỉ huy với cả 10 vạn quân tham dự. Có thể nói đây là một trong những trận thủy chiến lớn nhất, để tiêu hao sinh lực địch, đồng thời thể hiện chủ trương rút lui chiến lược của bộ chỉ huy tối cao.
 
Trận Thăng Long
 
Sau các trận Vạn Kiếp, Phả Lại và Bình Than, quân địch tiến đánh Vũ Ninh và Đông Ngạn, rồi tiến xuống Gia Lâm.Trong khi đó, quân ta rút về Thăng Long theo đường sông Thiên Đức và có những trận đánh lẻ tẻ với quân Nguyên trên đường sông này. ĐVSKTT 5 tờ 45b3-5 ghi: “Ngày 12 giặc đánh Gia Lâm, Vũ Ninh, Đông Ngạn, bắt được quân ta, đều có thích vào cánh tay hai chữ sát thát bằng mực, chúng rất giận, đem giết rất nhiều, rồi tiến đến Đông Bộ Đầu, dựng cờ lớn. Vua muốn sai người xem rõ hư thực của giặc mà chưa chọn được người. Chi hầu cục thủ Đỗ Khắc Chung tiến lên tâu rằng: ‘Thần hèn mọn bất tài, nhưng xin được đi’. Vua mừng nói: ‘Đâu biết trong đám ngựa kéo xe muối, lại có ngựa ký ngựa kỷ’. Rồi Chung nhận thư xin đi”.
 
Nhưng thực tế, theo Nguyên sử 13 tờ 7a9 thì đó là ngày “Ất Dậu thế tử An Nam là Trần Nhật Huyên đem hơn nghìn chiến thuyền chống cự. Ngày Bính Tuất, đánh nhau, đại phá. Nhật Huyên trốn đi, bèn vào thành y, rồi trở ra đóng ở bắc sông Phú Lương”. An Nam chí lược 4 tờ 54 viết: “Ngày 13 Bính Tuất, thế tử giữ Lô Giang, lại bị vỡ, bỏ chạy.Trấn Nam Vương vượt sông, vào yến tiệc ở cung đình”. Kinh tế đại diễn tự lục trong Nguyên văn loại 41 tờ 27a4-56 cũng ghi tương tự: “Quan quân đến sông Phú Lương, Nhật Huyên chính mình cự chiến, bị thua, bỏ thành chạy về phủ Thiên Trường, quan quân vào quốc đô”.
 
An Nam truyện của Nguyên sử 209 tờ 7a4 viết về trận đánh này càng rõ hơn: “Trấn Nam Vương liền cùng quan hành tỉnh tự mình đến Đông Ngạn, sai quân đánh, giết được rất nhiều, bắt được 20 thuyền. Hưng Đạo Vương thua chạy. Quan quân buộc bè làm cầu, sang bờ bắc sông Phú Lương. Nhật Huyên bố trí binh thuyền, dựng rào gỗ dọc theo sông. Thấy quan quân đến bờ, lập tức nổ pháo, hô lớn, thách đánh. Đến chiều lại sai Nguyễn phụng ngự mang thư đến Trấn Nam Vương và quan hành tỉnh, xin rút đại quân. Hành tỉnh lại đưa thư trách, rồi lại tiến quân. Nhật Huyên liền bỏ thành chạy, đồng thời sai Nguyễn Hiệu Nhuệ đem thư xin lỗi và biếu phương vật, cùng xin rút quân. Hành tỉnh lại đưa thư chiêu dụ, rồi điều quân sang sông, đóng ở dưới thành An Nam. Hôm sau, Trấn Nam Vương vào quốc đô nước đó. Cung thất đều trống trơn, chỉ lưu lại mấy tờ chiếu sắc và mấy lá thư của hành tỉnh, tất cả đều bị xé nát”.
 
Qua báo cáo này ta rút được ba nhận xét. Thứ nhất, trận Bình Than, tuy là một trận thủy chiến lớn với sự tham dự của cả một tập đoàn quân trên 10 vạn người, vẫn là một trận vận động chiến, đánh để rút và chủ động nhử địch vào nơi mình muốn. Cho nên, khi Thoát Hoan cho quân buộc bè làm cầu để vượt sông Thiên Đức, tức sông Đuống ngày nay, để lên bờ sông Phú Lương, tức sông Hồng, vua Trần Nhân Tông, một lần nữa, lại “nổ pháo, hô to, đòi đánh”, trực tiếp chỉ huy trận thành Thăng Long.
 
Thứ hai, tuy thách đánh quân thù, nhưng vua Trần Nhân Tông vẫn duy trì hành lang quan hệ nào đó với quân thù, để phục vụ cho ý đồ chiến thuật và tình báo của ta. Nguyên sử ghi việc Nguyễn Phụng Ngự và Nguyễn Hiệu Nhuệ được vua Trần Nhân Tông sai mang thư cho Thoát Hoan. Những tên này không thấy sử ta nói tới. thay vào đó, ĐVSKTT 5 thì ghi tên Đỗ Khắc Chung.
 
Thứ ba, vua Trần Nhân Tông có thể chủ động quan hệ với giặc như thế là nhờ bảo toàn lực lượng từ trận Bình Than, cùng kéo về Thăng Long để làm cuộc triệt thoái chiến lược về Thiên Trường, rút toàn quân và dân thủ đô, nhằm tránh ba mũi gọng kìm, tức mũi gọng kìm cánh quân phía đông bắc của chính Thoát Hoan và A Lý Hải Nha, cánh quân phía tây bắc do Nạp Tốc Lạt Đinh (Nasir ud Din), và đặc biệt là gọng kìm phía nam do Toa Đô chỉ huy.
 
Chính trong ngày 14 tháng giêng năm Ất Dậu ấy (1285), khi Thoát Hoan vào kinh thành yến tiệc với thuộc hạ, xong rồi rút ra đóng ở phía bắc sông Hồng, Bản kỷ của Nguyên sử 13 tờ 7a10-11 báo cho ta biết “bọn Toa Đô, Đường Cổ Đãi (Tangutai)… đem quân hội với Trấn Nam Vương”. Đường Cổ Đãi là tên tướng, mà khi xuất quân, Thoát Hoan đã sai đến Chiêm Thành gọi Toa Đô đem quân về cùng hợp đồng chiến đấu, như An Nam truyện của Nguyên sử 209 tờ 5b12-13 đã ghi: “Sai Tả thừa Đường Ngột Đãi chạy dịch đến Chiêm Thành, hẹn với Tả thừa Toa Đô đem quân cùng đến hội”. Tuy nhiên, Toa Đô mới đem quân đi, chứ chưa đến hội kịp, như sẽ thấy. Vậy là, tất cả những cánh quân chủ yếu do Thoát Hoan chỉ huy, đã tập hợp về Thăng Long, để rồi chúng sẽ nhận những đòn phản công giáng trả sấm sét của quân dân Đại Việt với những chiến thắng Chương Dương, Tây Kết, Hàm Tử lẫy lừng.
 
Nhưng trước khi có những chiến thắng này, thì từ trung tâm ở Thăng Long, Thoát Hoan một mặt “sai Vạn hộ Lý Bang Hiến và Lưu Thế Anh đem quân mở đường từ Vĩnh Bình vào An Nam, mỗi 30 dặm lập một trại, 60 dặm đặt một trạm, mỗi một trại, một trạm đóng quân 300 tên để trấn giữ và tuần tra, lại sai Thế Anh dựng đồn, chuyên đôn đốc công việc của trại, trạm”, như An Nam truyện của Nguyên sử 209 tờ 7b7-9 đã ghi. Đây là biện pháp củng cố hậu phương của chúng đối với những vùng chúng đã chiếm được, nhưng luôn luôn bị quân ta quấy nhiễu.
 
Mặt khác, cũng theo An Nam truyện của Nguyên sử 209 tờ 7b-9-10, Thoát Hoan đã ra lệnh cho “Hữu thừa Khoan Triệt (Košnčašk) dẫn Vạn hộ Mang Cổ Đãi (Manqudai) và Bột La Hợp Đát Nhi (Bolqadar) bằng đường bộ và Lý tả thừa dẫn Ô Mã Nhi Bạt Đô (Omar ba’atur) bằng đường thủy”, truy đuổi và tiến đánh các cánh quân của ta đang rút lui cùng những cứ điểm đóng quân dọc theo sông Hồng cùng các chi lưu của nó, để phòng vệ cho Thiên Trường ở phía nam Thăng Long. Và trận đầu tiên đã diễn ra ở bãi Thiên Mạc.
 

 
[1] E. Gaspardone, Ngan-nan Tche Yuan, Hanoi: Imprimarie d’Extrême-Orient, 1932, p. 47.1
 
 
Trận Đà Mạc

Đà Mạc hay cũng gọi Thiên Mạc, mà sau này có tên bãi Mạn Trù là một bãi đất nằm ven sông Hồng thuộc tỉnh Hưng Yên ngày nay, như Khâm định Việt sử thông giám cương mục 6 tờ 42a3-4 viết: “Sông Thiên Mạc tức hạ lưu sông Phú Lương ở tại bãi Mạn Trù của huyện Đông Yên vùng tỉnh Hưng Yên”. Ở đây, quân ta có một cứ điểm do tướng Trần Bình Trọng chỉ huy. Theo An Nam chí lược 4 tờ 54 thì “ngày 21 Nhâm Thìn đánh vỡ ải Thiên Hán, chém được tướng Bảo Nghĩa Hầu”. Ngày Nhâm Thìn tháng giêng năm Ất Dậu ấy phải là ngày 19, chứ không phải 21. Chắc chắn 21 viết sai của 19, vì đây là những chữ số rất dễ viết lộn. Còn Thiên Hán thì rõ ràng chữ Hán viết sai của chữ Mạc vì dạng chữ chúng giống nhau.
 
An Nam truyện của Nguyên sử 209 tờ 7b10 không ghi rõ ngày tháng, nhưng có chép trận Thiên Mạc và việc quân Nguyên bắt được Kiến Đức Hầu Trần Trọng. Kinh thế đại điển tự lục trong Nguyên văn loại 41 tờ 27a6-7 cũng chép việc bắt được Kiến đức Hầu Trần Trọng, nhưng ghi việc này sau trận A Lỗ và Thiên Trường và trước khi vua Trần Nhân Tông rút ra cửa Giao thủy. Trong số những thông tin này, thông tin của An Nam chí lược tương đối chính xác, vì Lê Thực đã ghi lại những điều ít nhiều mình có biết tới và có tham gia.
 
Trần Trọng đây chắc chắn là vị anh hùng Trần Bình Trọng của ĐVSKTT. Chỉ có điểm khác là, thay vì Bảo Nghĩa Hầu, phía Trung Quốc lại có Kiến Đức Hầu. Tước Kiến Đức Hầu có thể là tước được phong khi Trần Bình Trọng còn sống. Còn tước Bảo Nghĩa Hầu là tước được phong khi Trần Bình Trọng đã mất, để nêu cao khí phách oanh liệt của vị dũng tướng lúc đối diện với những cám dỗ của kẻ thù, mà tình tiết sẽ được ghi rõ trong ĐVSKTT dưới đây. Việc An Nam chí lược 4 tờ 54 ghi khác với Nguyên sử, bởi vì Lê Thực đang còn ở tại Việt Nam và làm việc với Chương Hiến Hầu Trần Kiện, lúc vị anh hùng hy sinh và triều đình phong tước, nên biết rõ sự thay đổi tước hầu của chính Trần Bình Trọng.
 
Phía Trung Quốc không ghi rõ ai trực tiếp chỉ huy trận đánh này. Nhưng phía Việt Nam, qua trận đánh này lại thêm một vị anh hùng. Đó là Trần Bình Trọng. ĐVSKTT viết: “Bảo Nghĩa Vương Trần Bình Trọng (vương là dòng dõi Lê Đại Hành, chồng sau của công chúa Thụy Bảo, ông cha làm quan đời Thái Tông, được ban quốc tính họ Trần) đánh nhau với giặc ở bãi Đà Mạc (tức Thiên Mạc, nay là bãi Mạn Trù) bị chết. Khi bị bắt, không chịu ăn. Giặc hỏi việc nước, không trả lời. Hỏi: ‘Có muốn làm vương đất Bắc không?’. Vương thét lớn: ‘Thà làm quỷ nước Nam, chứ không làm vương đất Bắc’. Rồi bị giết”.
 
Điểm khác biệt cơ bản là ĐVSKTT đã ghi trận Đà Mạc và cái chết oanh liệt của Trần Bình Trọng vào tháng 2 năm At Dậu, sau sự kiện đầu hàng của Chương Hiến Hầu Trần Kiện và bọn thuộc hạ Lê Thực. Trong khi đó chính bản thân Lê Thực lại được ghi vào ngày Nhâm Thìn tháng giêng năm Ất Dậu. Trong trường hợp này, Lê Thực tỏ ra đúng hơn, khi ta căn cứ trên diễn tiến của tình hình chiến sự thời bấy giờ. Hơn nữa, Thực lại là người sống đồng thời với Trần Bình Trọng và trực tiếp tham gia nghe ngóng một số những tình hình đó. Và thứ ba nữa, Thực không có lý do gì cần phải thay đổi ngày tháng của cuộc tấn công vào cứ điểm Đà Mạc của quân Nguyên.
 
Cuối cùng, như đã thấy, Bảo Nghĩa Hầu Trần Bình Trọng hy sinh chỉ cách việc đầu hàng của chính Thực trong một khoảng thời gian rất ngắn, trên dưới một tháng, nên chắc chắn có tác dụng to lớn đối với bản thân Thực. Thực tế, Khâm định Việt sử thông giám cương mục 7 tờ 36b2 đã chép là vua Trần Nhân Tông, khi nghe báo tin Trần Bình Trọng hy sinh, đã vật vã kêu khóc, chứng tỏ sự hy sinh ấy đã có một tác động to lớn trong giới lãnh đạo đất nước thời bấy giờ. Tước Bảo Nghĩa Hầu có lẽ được vua Trần Nhân Tông đổi phong cho Trần Bình Trọng nhằm nhấn mạnh nghĩa khí không đầu hàng giặc của vị anh hùng vào một thời điểm, mà chắc chắn nhà vua thấy xung quanh mình đã xuất hiện những kẻ không còn giữ được nghĩa vua tôi, tinh thần trung quân ái quốc và muốn đi đầu hàng giặc.
 
Thêm vào đó, ĐVSKTT chủ yếu chép lại Đại Việt sử ký tục biên của Phan Phu Tiên. Mà Phan Phu Tiên khi viết bộ sử của chính mình, lại không có được những thuận lợi của những nhà viết sử khác. Đất nước ta đã bị quân Minh xâm lược gần 20 năm và trải qua những cuộc chiến tranh giải phóng dữ dội do những người yêu nước như Trần Trùng Quang, Nguyễn Biểu, Phạm Ngọc, Lê Lợi lãnh đạo. Do thế, những sử liệu chắc chắn bị quân thù tịch thu, phá hủy. Đặc biệt, các sử liệu do quốc sử quán nhà Trần ghi chép, ta hiện không biết chúng có được Hồ Quý Ly có kế hoạch đem cất giấu hay không. Chỉ một sự kiện hai cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại năm 1285 và1288 đã được ĐVSKTT chép rất sơ sài, thậm chí có những điểm hoàn toàn sai lạc, là một thí dụ điển hình. Cho nên, người ta không ngạc nhiên trước những sai khác vừa nêu trên.
 
Nói tóm lại, trận Đà Mạc không phải một trận lớn. Nhưng qua trận Đà Mạc, ta không chỉ thấy khí phách anh hùng, liều mình vì nước, không chịu đầu hàng giặc của người tướng chỉ huy là Trần Bình Trọng, mà còn thấy được ý chí quyết chiến quyết thắng kẻ thù của quân dân Đại Việt trong những thời điểm khó khăn nhất của tổ quốc. Chính những con người như thế đã làm nên những chiến thắng vang dội về sau như trận chiến Hàm Tử, Chương Dương, Tây Kết v. v..
 
Trận A Lỗ

Sau trận Đà Mạc bắt được Kiến Đức Hầu Trần Trọng, An Nam chí lược 4 tờ 54 đã viết tiếp: “Thế tử lui giữ ải Hải Thị, đóng cọc đắp bờ ngăn sông phía tây để đánh. Quan quân trên dưới bắn chéo. Bọn chúng vỡ lớn”. Kinh thế đại điển tự lục trong Nguyên văn loại 41 tờ 27a6 viết: “Đại quân đuổi Nhật Huyên ở sông A Lỗ và sông Đức Cương”. Căn cứ vào hai báo cáo này, rõ ràng Hải Thị và sông A Lỗ chỉ cùng một nơi. Đặc biệt, An Nam Chí Nguyên 1 tờ 47 có chép: “Sông Hải Triều ở tại Khoái Châu phân lưu từ sông Hà Lỗ, trên thông với sông Ngọc Châu”. Hà Lỗ đây chắc chắn là sông A Lỗ, mà Kinh thế đại điển tự lục vừa nói tới. Còn Khoái Châu thuộc địa phận tỉnh Hưng Yên bây giờ. Mà Đà Mạc, tức Thiên Mạc theo Khâm định Việt sử thông giám cương mục 6 tờ 42a3-4 lại ghi ở vào địa phận tỉnh Hưng Yên, và nằm trên hạ lưu sông Hồng. Vậy hai căn cứ Đà Mạc và A Lỗ nằm rất gần nhau. Đây có lẽ là cụm cứ điểm nhằm phòng vệ cho Thiên Trường.
 
Với chi tiết “trên dưới bắn chéo”, ta thấy đây rõ ràng là hai cánh quân thủy bộ địch do Khoan Triệt và Lý Hằng chỉ huy, đã đuổi theo đại quân của vua Trần Nhân Tông và tiến đánh căn cứ A Lỗ, sau khi đã chiếm được căn cứ Đà Mạc. Đây một lần nữa là một trận đánh tiêu hao lớn, chủ động nhử quân địch theo hướng quân ta muốn.
 
 
Trận Đại Hoàng

Sau chiến thắng A Lỗ, theo An Nam chí lược 4 tờ 54, “ngày mùng 3 Đinh Tỡ tháng hai, Trấn Nam Vương phá quân Thế tử ở sông Đại Hoàng”. Đây là lần đầu tiên ta thấy sự xuất hiện của Thoát Hoan trên vùng đất gần Thiên Trường. Sông Đại Hoàng, theo An Nam Chí Nguyên 1 tờ 42 “là hợp tại phủ Lý Nhân, trên tiếp sông Lô, dưới thông với sông Giao Thủy phủ Phụng Hóa”. Còn Khâm đinh Việt sử thông giám cương mục 6 tờ 44a5-6, khi chú thích về Hoàng Giang, đã viết: “Hoàng Giang ở tại vùng huyện Nam Xương phủ Lý Nhân, trên tiếp với sông Thiên Mạc, dưới thông với sông Giao Thủy”. Vậy, Đại Hoàng hay Hoàng Giang do tiếp giáp với Thiên Mạc, là một căn cứ khác trong cụm căn cứ phía nam Thăng Long, nhằm bảo vệ Thiên Trường.
 
Đây chắc chắn là một trận đánh lớn, vì Thoát Hoan đã dẫn đại quân mình từ Thăng Long truy kích xuống, trong khi quân ta cũng hội về Đại Hoàng, mà ngoài vua Trần Nhân Tông trực tiếp chỉ huy, còn có các tướng Trần Hưng Đạo, Trần Quang Khải. Tuy nhiên, một lần nữa, nó chỉ là một trận đánh chặn, tiêu hao sinh lực địch, để cho quân ta rút lui an toàn, chứ chưa phải là những trận phản công.
 
Tình hình quân sự sau khi ta rút khỏi Thăng Long

ĐVSKTT không ghi trận A Lỗ và Đại Hoàng này. Nhưng sau trận Đà Mạc, ĐVSKTT 5 tờ 47a5-6 đã viết: “Thế giặc bức bách, hai vua ngầm đi chiếc thuyền nhỏ đến Tam Trĩ Nguyên, sai người lái thuyền ngự ra Ngọc Sơn để đánh lừa quân giặc”. Thực tế, quân nhà Trần thời điểm này chưa đến nỗi bức bách xiêu dạt và hai vua Trần Thánh Tông và Trần Nhân Tông không đến nỗi cô lập phải hoạt động một cách lén lút như thế. Nguyên sử 13 tờ 8b8-10 viết: “Tháng 3 ngày Bính Tý Kinh Hồ Chiêm Thành hành tỉnh xin thêm quân. Lúc bấy giờ Trần Nhật Huyên trốn về hai xứ Thiên Trường và Trường Yên, binh lực lại tập hợp. Hưng Đạo Vương đem hơn ngàn chiến thuyền về nhóm ở Vạn Kiếp, còn Nguyễn Lộc thì ở Vĩnh Bình, mà quan quân thì đi xa lại đánh lâu, treo lơ lửng ở giữa. Quân của Toa Đô và Đường Cổ Đãi lại đến không đúng lúc, nên xin thêm quân. Vua cho đi đường thủy là nguy hiểm, ra lệnh cho quân tăng viện đi theo đường bộ”.
 
Thế là cuộc chiến tranh, sau khi vua Trần Nhân Tông rút khỏi Thăng Long và đưa quân về đóng ở vùng Thiên Trường và Trường Yên, thì quân địch ở vào một tình thế hết sức khó khăn. Chúng tự nhận xét là chúng đã bị treo lơ lửng ở giữa một mẻ lưới thiên la địa võng của quân dân Đại Việt đang sẵn sàng chụp lên đầu chúng.
 
Thực tế quân Đại Việt đang triển khai chiến lược bao vây và tiêu diệt đám quân viễn chinh này bằng ba mũi. Mũi phía bắc do tướng Nguyễn Lộc chỉ huy và sẽ có những đóng góp to lớn với những trận đánh làm thất kinh táng đởm bọn cướp nước và bán nước, như sẽ thấy sau. Mũi phía đông thì do chính Trần Hưng Đạo đưa chiến thuyền trở lại Vạn Kiếp trấn giữ để chặn đường rút về ngả phía đông của bọn giặc. Còn lại là toàn bộ đại quân thì tập trung tại vùng Thiên Trường và Trường Yên, thuộc hai tỉnh Nam Định và Ninh Bình ngày nay, do vua Trần Nhân Tông và Thượng hoàng Trần Thánh Tông trực tiếp chỉ huy cùng với hai danh tướng Trần Quang Khải và Trần Nhật Duật. Đây là mặt trận chủ yếu, có những diễn biến phức tạp về phía địch cũng như ta.
 
Trần Kiện, Tú Viên, Văn Lộng đầu hàng

Về phía địch, bọn Toa Đô đang ráo riết kéo quân ra phía bắc theo lịnh của Thoát Hoan do Đường Ngột Đãi đem tới và sẽ có những đụng độ lớn với quân ta, như sẽ thấy dưới đây. Còn về phía ta, sau các trận đánh và việc rút khỏi Thăng Long cùng các cứ điểm Đà Mạc, A Lỗ và Đại Hoàng, một bộ phận trong giới lãnh đạo chính trị và quân sự của Đại Việt lúc bấy giờ tỏ ra hết sức hoang mang, mất hết niềm tin vào tiềm lực dân tộc và sự lãnh đạo sáng suốt của vua Trần Nhân Tông cùng Thượng hoàng Trần Thánh Tông, quốc công Trần Hưng Đạo và thái sư Trần Quang Khải. Chúng kéo nhau liên hệ với giặc để xin đầu hàng, mà tên đầu tiên là Trần Kiện cùng thuộc hạ của y vào ngày mồng 1 tháng 2 năm At Dậu. ĐVSKTT 5 tờ 46b5-7, viết: “Ngày Giáp Thìn mồng 1 tháng 2, con thứ của Tỉnh Quốc đại vương Quốc Khang là thượng vị Chương Hiến Hầu tên Kiện và liêu thuộc là bọn Lê Thực đem cả nhà đầu hàng quân Nguyên. Toa Đô sai đưa bọn Kiện về Yên Kinh. Thổ hào ở Lạng Giang là bọn Nguyễn Thế Lộc và Nguyễn Lĩnh đánh chặn ở trại Ma Lục. Gia nô của Hưng Đạo Vương là Nguyễn Địa Lô bắn chết Kiện. Thực đem xác Kiện để lên mình ngựa trốn đi trong đêm, chạy được mấy mươi dặm đường, đến Khâu Ôn chôn tại đấy”.
 
Sự kiện này An Nam chí lược 4 tờ 54 viết càng rõ: “Thế tử sai em là Chiêu Văn Vương Trần Duật, hầu Trịnh Đình Toản đem quân đánh ở Nghệ An, thua chạy. Thế tử ở trong thế gấp, sai con anh mình là Chương Hiến Hầu Trần Kiện đón đánh ở Thanh Hóa, giằng co hồi lâu, sức yếu, không có viện binh, Chương Hiến bèn cùng bọn Thực đem quân ra hàng”. An Nam chí lược 13 tờ 131-32 viết càng chi tiết hơn: “Mùa đông năm ấy (1284) đại quân của Trấn Nam Vương tiến vào nước. Thế tử đánh thua. Hữu thừa Toa Đô lại từ Chiêm Thành tiến mặt hậu.Thế tử hoảng hốt không có sách lược bèn gọi Kiện lên, giao đem quân đánh Toa Đô. Sức yếu không viện, vào lúc đó Thế tử còn mất chưa thể biết. Kiện gọi bọn Thực vào: ‘Thế tử bị gọi mà không vào chầu đến nỗi có chiến tranh. Nguy hiểm ở trong sớm chiều, mà vẫn chấp mê không tỉnh, nỡ để cho nước mất nhà tan ư?’. Tháng giêng năm sau (1285), Kiện đem bọn Thực vài vạn người, dâng vũ khí đầu hàng Trấn nam vương”.
 
Như thế, việc Trần Kiện đầu hàng là một diễn biến phức tạp, vì đây là lần đầu tiên một tôn thất của hoàng gia, đồng thời nắm trong tay một đạo quân lớn đóng tại một mặt trận xung yếu là Thanh Hóa đã đầu hàng giặc. Nếu không ngăn chặn kịp thời, tác động của việc đầu hàng ấy sẽ rất lớn. Nó sẽ lan ra và có nguy cơ đe doạ làm sụp đổ mặt trận phía nam. Tính chất quan trọng của mặt trận này, ngay khi rút khỏi Thăng Long, vua Trần Nhân Tông đã nhìn thấy, và sau ngày rằm tháng giêng năm At Dậu (1285) đã cử Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật vào trấn nhậm.
 
Cuối tháng giêng, An Nam chí lược 4 tờ 54 và Kinh thế đại điển tự lục trong Nguyên văn loại 41 tờ 27a5-6 chép: “Đại vương Giảo Kỳ, Hữu thừa Toa Đô, Tả thừa Đường Ngột Đãi, tham chính Hắc Đích từ Chiêm Thành đánh vào phủ Bố Chính”. Rồi từ đó, Toa Đô tiến ra Nghệ An. Trần Nhật Duật không cản được, phải rút lui. Cho nên, ĐVSKTT 5 tờ 46b4-5 viết tiếp: “Ngày 28 Hưng Đạo Vương bàn xin thượng tướng thái sư Quang Khải ngăn quân của nguyên soái Toa Đô ở Nghệ An”. Nghĩa là sau khi Trần Nhật Duật không ngăn nổi, cấp báo về cho bộ chỉ huy tối cao thì vua Trần Nhân Tông đã cử Trần Quang Khải vào chi viện. Chính trong thời gian này, Trần Kiện được giao việc nắm quân ở Thanh Hóa. Tại đây, An Nam chí lược 13 tờ 132 ghi: “Tháng giêng, Kiện đem bọn Thực cùng vạn quân, dâng vũ khí, hàng Trấn Nam Vương”.
 
 
 
Trận Phú Tân

Ngày hôm sau, tức ngày Ất Tỵ, mồng hai tháng hai năm Ất Dậu (1285), An Nam chí lược 4 tờ 54 ghi tiếp: “Giảo Kỳ đem kỡ binh vượt cửa kinh Vệ Bố, phá quân nhà Trần, giết tướng chúng là Đinh Xa và Nguyễn Tất Thống”. Rồi ngày mồng ba, khi Thoát Hoan tấn công cứ điểm Đại Hoàng và vua Trần Nhân Tông rút lui về Thiên Trường, theo An Nam chí lược 3 tờ 54, đám Trần Tú Viên và Trần Văn Lộng đã ra đầu hàng. Bốn ngày sau, tức ngày mồng sáu tháng hai, An Nam chí lược 4 tờ 54 chép: “Ngày Kỷ Dậu mồng sáu, Giảo Kỳ đem bọn Chương Hiến đánh phá quân của người em Thế tử là Thái sư Trần Khải ở bến Phú Tân, chém đầu ngàn cái, Thanh Hóa, Nghệ An đều hàng”. Đây chính là lúc Toa Đô dã hội quân được với bọn Thoát Hoan, đúng như An Nam truyện của Nguyên sử 209 tờ 7b4-7 đã viết: “Đường Ngột Đãi cùng quân của bọn Toa Đô đến từ Chiêm Thành hợp với đại quân (của Thoát Hoan), từ khi vào nước Đại Việt, bảy lần lớn nhỏ đánh nhau, lấy đất hơn hai ngàn dặm, bốn sở cung vua, trước đánh bại quân của Chiêu Minh Vương. Chiêu Hiếu Vương và đại liêu Hộ đều chết. Chiêu Minh Vương trốn xa, không dám ra mặt trở lại. Còn ở Nghệ An, Diễn Châu, Thanh Hóa, Trường Yên thì bắt được bọn Trần thượng thư, rể của Lương phụng ngự của Giao Chỉ và Triệu Mạnh Tín, Diệp lang tướng hơn 400 người của nhà vong Tống”.
 
Trần Kiện đã dắt bọn Giảo Kỳ tấn công cứ điểm Phú Tân do chính Thượng tướng Trần Quang Khải chỉ huy cùng con mình là Văn Túc Vương Đạo Tải, cháu là Tả Thiên Vương Đức Việp. Trước khi Trần Quang Khải rút quân khỏi cứ điểm thì Chiêu Hiếu Vương và đại liêu Hộ đã hy sinh.
 
Việc đầu hàng của Trần Kiện từ đó có một tác động rất to lớn. Mặt trận phía nam với nhiều tướng giỏi như Thượng tướng Trần Quang Khải, Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật đã lần lượt rút khỏi vùng Thanh-Nghệ và tập trung vào vùng Thiên Trường, để sau trận Đại Hoàng ngày mồng ba tháng hai năm Ất Dậu (1285) và trận Phú Tân ngày mồng sáu, vua Trần Nhân Tông cùng với Trần Hưng Đạo và Trần Quang Khải thực hiện một cuộc rút lui chiến lược. Trước khi rút lui để thực hiện kế hoãn binh, vua Trần Nhân Tông đã sai Trung Hiến Hầu Trần Dương và Nguyễn Nhuệ đến hòa đàm với Thoát Hoan. Đồng thời lại sai người hầu cận là Đào Kiên đem công chúa An Tư đến cho Trấn nam vương để làm “thư bớt nạn nước”. Thoát Hoan bèn cho Thiên Hộ Ngãi đến dụ vua Trần Nhân Tông đến hội đàm. Vua không nghe, như An Nam chí lược 4 tờ 54 đã ghi. ĐVSKTT 5 tờ 47a1 có ghi sự kiện dâng công chúa An Tư nhưng lại chép vào trước trận Đà Mạc.
 
Chiến lược rút về Thanh Hóa

Vậy là sau các trận Đại Hoàng và Phú Tân, toàn bộ quân chủ lực nhà Trần ngoài những đơn vị được bố trí ở các địa phương, đã tập trung về Thiên Trường, rồi thực hiện một cuộc rút lui chiến lược tại cửa biển Giao Thủy, như An Nam truyện của Nguyên sử 209 tờ 7b10-11 đã ghi. Nguyên sử cũng ghi tiếp là phía quân Nguyên không biết quân ta rút đi đâu. Rồi ở tờ 7b11-12 nó chép: “Tông tộc là Văn Nghĩa Hầu, cha là Vũ Đạo Hầu và con là Minh Trí Hầu, rể là Chương Hoài Hầu cùng Chương Hiến Hầu, và quan của nhà vong Tống là Tăng tham chính, con của Tô thiếu bảo là Tô Bảo Chương, con Trần thượng thư là Trần Đinh Tôn liên tiếp đem nhau đến hàng”. Việc đầu hàng của Văn Nghĩa Hầu tức Trần Tú Viên, ta đã thấy xảy ra vào ngày mồng ba tháng ba năm Ất Dậu (1285), như An Nam chí lược 4 tờ 54 có ghi ở trên.
 
Chính bọn đầu hàng này đã cung cấp thông tin cho Thoát Hoan, nên sau đó Nguyên sử 209 tờ 7b13-8a3 đã cho biết: “Nhật Huyên đến cửa biển An Bang, bỏ thuyền chèo giáp trượng, chạy trốn trong núi rừng. Quan quân bắt được thuyền một vạn chiếc, chọn cái tốt để đi, còn thừa đều đốt bỏ. Rồi lại đuổi ba ngày đêm trên bộ, bắt sống được mấy tên lính khai rằng Thượng hoàng và Thế tử chỉ có thuyền bốn chiếc, Hưng Đạo Vương và con ba chiếc, Thái sư 80 chiếc, chạy vào phủ Thanh Hóa. Toa Đô cũng báo Nhật Huyên và Thái sư chạy vào Thanh Hóa. Ô Mã Nhi bạt đô đem quân 1300 người và chiến thuyền 60 chiếc giúp Toa Đô tập kích quân của Thái sư”. Vậy rõ ràng đây là một cuộc rút lui lớn, cuộc rút lui chiến lược do chính vua Trần Nhân Tông cùng Thượng hoàng, Trần Hưng Đạo và Trần Quang Khải thực hiện.
 
Cuộc rút lui này đã xảy ra vào lúc nào? An Nam chí lược 4 tờ 54 viết: “Ngày Nhâm Ngọ mồng chín tháng ba, Giảo Kỳ với Đường Cổ Đái đem quân thủy ra biến vây Thế tử ở Tam Trĩ, suýt bắt được Thế tử”. Tuy nhiên, theo ĐVSKTT 5 tờ 47a5-6 thì sự kiện rút về Tam Trĩ này (tức vùng núi Ba Chẽ ở Quảng Ninh) từ cuối tháng giêng. Đến ngày Giáp Tuất mồng một tháng ba, ĐVSKTT 5 tờ 47b4-5 lại viết: “Hai vua bỏ thuyền mà đi bộ đến Thủy Chú, lấy thuyền ra sông Nam Triệu (tức huyện Thủy Đường), vượt biển Đại Bàng vào Thanh Hóa”. Thế rõ ràng cuộc rút lui đã xảy ra chắc chắn trước ngày mồng chín tháng ba (chính xác là ngày Nhâm Ngọ mồng mười) và sau trận đánh Phú Tân vào ngày mồng sáu cùng tháng.
 
Thực hiện cuộc rút lui chiến lược vào Thanh Hóa này hiển nhiên là để tránh hai gọng kìm của các cánh quân Thoát Hoan ở phía bắc tiến xuống, và cánh quân phía nam do Toa Đô chỉ huy đánh lên vùng Thiên Trường và Trường Yên. Đại quân của Thoát Hoan và Toa Đô như vậy đã nằm tại vùng đồng bằng Bắc Bộ, còn quân chủ lực ta đóng tại phía nam ở Thanh Hóa. Từ đây, vua Trần Nhân Tông cùng Thượng hoàng và các tướng Trần Hưng Đạo, Trần Quang Khải, Trần Nhật Duật... đã chia quân tiến hành một cuộc phản công lớn, giải phóng thủ đô Thăng Long, giải phóng đất nước thoát khỏi sự chiếm đóng của quân thù.
 
Trần Ích Tắc đầu hàng

Vào thượng tuần tháng ba năm Ất Dậu này, khi vua Trần Nhân Tông cùng bộ chỉ huy tối cao của cuộc kháng chiến vệ quốc đang thực hiện cuộc rút lui chiến lược, thì theo An Nam chí lược 4 tờ 54 “ngày 15 Mậu Tý, em vua là Chiêu Quốc Vương Trần Ích Tắc đem đồ đảng đến nội phụ”. ĐVSKTT 5 tờ 47b5-7 chép sự kiện này sau ngày mồng một tháng ba: “Chiêu Quốc Vương Ích Tắc và bọn Phạm Cự Địa, Lê Diễn, Trịnh Long đều đem gia thuộc đến hàng Nguyên”. Số phận Ích Tắc sau này là số phận của kẻ đầu hàng, sống lây lất và chết ở quê người, muôn đời chịu tiếng ô nhục. Cuộc chiến tranh vệ quốc đang đi đến những giờ phút quyết định và kết thúc vinh quang đang chờ đón những anh hùng có tên và không tên đã và đang hy sinh cho Tổ quốc muôn vàn mến yêu của họ.
 
Cuộc phản công: Chiến thắng A Lỗ

Sau cuộc rút lui chiến lược về Thanh Hóa cùng bộ chỉ huy chiến lược của mình vào thượng tuần tháng ba, vua Trần Nhân Tông tại đây chắc chắn đã tập hợp quân đội và phân chia công tác, chuẩn bị cho cuộc phản công lớn. Trong 20 ngày còn lại của tháng ba này, các sử liệu Trung Quốc không thấy nói gì, chỉ thấy chép việc quân Nguyên đưa bọn đầu hàng như Chương Hiến Hầu, Minh Thành Hầu, Nghĩa Quốc Hầu v.v.. lên Trung Quốc. Còn phía nước ta, ĐVSKTT 5 tờ 48a7-8 nhắc đến một nhận xét của vua Trần Nhân Tông đối với đạo quân Toa Đô: “Bọn giặc nhiều năm đi xa, vạn dặm lương thảo, thế tất mệt mỏi. Lấy nhàn đợi mệt, trước phải cướp chí khí của chúng, thì ắt phá được chúng”. Nhận xét này có thể vua Trần Nhân Tông đã phát biểu trong cuộc hội nghị quân sự cao cấp tại Thanh Hóa lúc ấy. Dẫu sao, thời gian này là thời gian quý báu để cho quân ta ráo riết chuẩn bị phản công.
 
Đến tháng tư, An Nam chí lược 4 tờ 54, khi nói về cuộc phản công này, chỉ chép được một câu: “Mùa hè tháng tư, An Nam nhân lúc sơ hở, đánh lấy lại La thành”. Còn An Nam truyện của Nguyên sử 209 tờ 8a7-9 chỉ chép một cách tổng quát: “Quan quân nhóm các tướng lại bàn việc người Giao chống trả. Quan quân tuy nhiều lần đánh chúng bại tan, nhưng chúng đã thêm quân càng lúc càng nhiều. Quan quân khốn khổ thiếu thốn, tử thương cũng nhiều. Quân và ngựa của Mông Cổ cũng không thể thi thố tài năng. Bèn bỏ kinh thành vượt sông lên bờ bắc quyết nghị rút quân”.
 
Sự thật thì như Kinh thế đại điển tự lục trong Nguyên văn loại 41 tờ 27a8-9 viết: “Tháng tư, quân của Giao Chỉ đại khởi. Hưng Đạo Vương của chúng đánh vạn hộ Lưu Thế Anh ở đồn A Lỗ, Trung Thành Vương đánh thiên hộ Mã Vinh ở Giang Khẩu. Họ đều bị giết và rút lui. Thế rồi quân thủy bộ đến vây đại doanh mấy lớp, tuy chết nhiều nhưng quân tăng viện càng lúc càng đông. Quan quân sớm chiều cố đánh khốn khổ, thiếu thốn, khí giới đều hết, bèn bỏ kinh thành của chúng mà vượt sông… ”
 
Thế đã rõ. Vào đầu tháng tư, mũi tiến quân đầu tiên của cuộc phản công là do chính Quốc công Trần Hưng Đạo chỉ huy nhắm vào cứ điểm A Lỗ, mà quân ta đã bỏ lại trên tuyến phòng ngự Thiên Trường. Cuộc phản công đã thắng lợi. Tướng giặc Lưu Thế Anh phải rút khỏi cứ điểm này. Có thể nói đây là chiến thắng đầu tiên của quân dân Đại Việt sau một loạt các trận đánh vừa rút lui vừa tiêu hao sinh lực địch từ Vạn Kiếp, Bình Than, Thăng Long, Đà Mạc cho đến A Lỗ, Đại Hoàng và Phú Tân. Chiến thắng A Lỗ này không thấy sử ta ghi lại.
 
 
 
Trận Tây Kết thứ nhất và chiến thắng Hàm Tử
 
Trong tháng tư, ĐVSKTT 5 tờ 48a8-b6 viết: “Mùa hạ tháng tư, vua sai bọn Chiêu Thành Vương (khuyết danh), Hoài Văn Hầu Quốc Toản, tướng quân Nguyễn Khoái đem tiệp binh đón giặc ở bến Tây Kết. Quan quân giao chiến với người Nguyên ở Hàm Tử Quan. Các quân đều ở đó. Chỉ quân của Chiêu Văn Vương Nhật Duật có người Tống, mặc áo quần Tống, cầm cung tên chiến đấu. Thượng hoàng sợ các quân có kẻ không phân biệt được, sai người đến bảo rằng: ‘Đó là quân Thát của Chiêu Văn đấy, phải nhìn kỹ chúng’. Ay là vì người Tống và quân Thát tiếng nói và y phục giống nhau. Người Nguyên thấy vậy, đều kinh hãi nói: ‘Có người Tống đến giúp’. Nhân thế thua chạy về Bắc.Trước đó, nhà Tống mất, người Tống về theo ta. Nhật Duật thu nạp họ, có Triệu Trung làm gia tướng. Cho nên chiến công đánh bại giặc Nguyên, Nhật Duật lập được nhiều hơn cả”.
 
Như thế trong tháng tư, sau chiến thắng A Lỗ, quân Đại Việt dưới sự chỉ huy của Chiêu Thành Vương, Hoài Văn Hầu Quốc Toản, Nguyễn Khoái và Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật đã tiến đánh Tây Kết và Hàm Tử quan. Đây là hai cứ điểm nằm gần nhau, đều thuộc huyện Châu Giang của tỉnh Hưng Yên bây giờ. Đặc biệt, nếu Tây Kết là đối lại với thôn Đông Kết của xã Đông Bình, huyện Châu Giang ngày nay, thì rõ ràng cứ điểm Tây Kết chính nằm trong vùng cứ điểm Đà Mạc của người anh hùng Trần Bình Trọng, bởi vì thôn Đông Kết hiện cách sông Hồng 3 cây số, tức đất bãi Đà Mạc.
 
Vậy, cuộc phản công trong tháng tư năm Ất Dậu 1285 là nhằm thu hồi lại các cứ điểm quân sự, mà ta đã thiết lập và bị quân giặc chiếm hai tháng trước đó, để từ đấy làm bàn đạp tiến lên giải phóng kinh đô Thăng Long.
 
Chiến thắng Chương Dương
 
Giống như trận Hàm Tử, trận Chương Dương không được các sử liệu Trung Quốc nói tới, vì đây là một trận thua lớn của quân Nguyên. Các sử liệu ta thì chép cũng rất rời rạc. ĐVSKTT 5 tờ 47b chỉ viết: “Tháng 5 ngày mồng 3, hai vua đang đánh giặc ở Trường Yên, chém đầu cắt tai không kể xiết. Ngày mồng 7, tin thám báo rằng: ‘Toa Đô từ Thanh Hoùa kéo quân ra’. Ngày mồng 10, có người từ chối giặc trốn đến Ngự Viên tâu báo: ’Thượng tướng Quang Khải, Hoài văn hầu Quốc Toản và Trần Thông, Nguyễn Khả Lạp cùng em là Nguyễn Truyền đem dân binh các lộ, đánh được giặc các xứ kinh thành’. Quân giặc tan vỡ, bọn thái tử Thoát Hoan và bình chương A Lạc chạy qua sông Lô”.
 
Vậy, căn cứ vào ĐVSKTT thì chiến thắng Chương Dương đến ngày mồng 10 tháng 3 năm At Dậu (1285), vua Trần Nhân Tông cùng Thượng hoàng, lúc ấy đang chỉ huy tiến đánh giặc ở Trường Yên, mới được báo cáo. Mà báo cáo này là do một quân nhân ta thoát từ tay giặc về trình bày. Có lẽ tình hình chiến sự lúc ấy hết sức bức xúc, vì Chương Dương là cứ điểm tiền tiêu, nằm không cách xa kinh thành Thăng Long bao nhiêu, tức nay là xã Chương Dương của huyện Thường Tín tỉnh Hà Tây, có nhiệm vụ phòng vệ cho đại bản doanh của chúng tại Thăng Long. Do đó, nó có thể tập trung số lượng lớn quân địch. Cho nên, khi đánh được Chương Dương, quân ta phải truy đuổi địch lên đại bản doanh của chúng đóng ở Thăng Long, mà trận đánh, như sẽ thấy, tỏ ra hết sức dữ dội và có nhiều thương vong cho cả hai bên.
 
Dẫu sao, vào mồng 10 tháng 5 thì vua Trần Nhân Tông đã được báo cáo về chiến thắng Chương Dương. Tuy nhiên, chiến thắng này có thể xảy ra từ tháng 4, bởi vì cả An Nam chí lược 4 tờ 54 lẫn Kinh thế đại điển tự lục trong Nguyên văn loại 41 tờ 27a8-9 đã ghi là quân tà tiến đánh Thăng Long (Kinh thế đại điển tự lục) và đã lấy lại kinh thành (An Nam chí lược) trong tháng ấy. Từ những chiến thắng quyết định Hàm Tử và Chương Duơng đâửy, cánh cửa tiến vào giải phóng kinh thành Thăng Long cho quân ta đã mở toang. Ý nghĩa của những chiến thắng này được đánh giá cao và gây ấn tượng mạnh mẽ trong tầm nhìn của những nhà chiến lược quân sự, đúng như lời thơ của vị danh tướng thiên tài Trần Quang Khải sau này đã ghi nhận:
 
Chương Dương cướp giáo giặc
Hàm Tử bắt quân Hồ,
 
Giải phóng Thăng Long
 
Ngày nay xã Chương Dương nằm trên bờ sông Hồng cách thủ đô Hà Nội khoảng 20 km về phía nam. Vị trí này ngày xưa cũng thế. Cho nên, khi đã đánh bật quân địch ra khỏi cứ điểm ở bến Chương Dương, quân ta nhất định truy kích bọn chúng và triển khai chiến thắng của mình, để tiến lên giải phóng thủ đô Thăng Long, mà chúng vào chiếm đóng trong 3 tháng trước. Sự kiện lịch sử này, ĐVSKTT chỉ chép một cách rời rạc, như đã dẫn. Các tác giả bộ Khâm định Việt sử không giám cương mục 7 tờ 41a 5-6 đã lấy làm tiếc là một sự kiện như thế mà không được ghi chép rõ ràng: “Trận đánh thắng giặc ở Chương Dương, thu phục được kinh thành, là chiến công lớn nhất lúc bấy giờ. Sử cũ chép việc này không được rõ ràng”.
 
Tuy nhiên, ngày nay tổng hợp các nguồn sử liệu khác nhau, đặc biệt là nguồn sử liệu Trung Quốc, ta biết đây là trận đánh lớn, cả hai bên đều có thương vong nặng nề. Và về phía ta, thì trừ cánh quân phía nam do vua Trần Nhân Tông và Trần Thánh Tông chỉ huy đang từ Thanh Hóa tiến về giải phóng Trường Yên và Thiên Trường do bọn Giảo Kỳ và Đường Ngột Đãi đang chiếm đóng, còn lại toàn bộ đại quân ta đều tập trung tại kinh thành Thăng Long và chia làm hai mũi. Một mũi do chính Thượng tướng Trần Quang Khải cùng các tướng Hoài Văn Hầu Trần Quốc Toản, Trần Thông, Nguyễn Khả Lạp và Nguyễn Truyền đang rầm rộ triển khai những thành quả của chiến thắng Chương Dương, ráo riết truy đuổi quân giặc, và tiến về giải phóng Thăng Long.
 
Mũi thứ hai do chính Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn và anh mình là Hưng Ninh Vương Trần Quốc Tung, tức là Tuệ Trung Thượng Sĩ, chỉ huy. Mũi quân này, về phía sử ta và người nghiên cứu ngày nay, thường không được nói tới. Tuy nhiên, An Nam truyện của Nguyên sử 209 tờ 8a7-10 lại viết rất rõ: “Quan quân tập họp các tướng bàn việc người Giao chống cự quan quân. Bọn chúng tuy nhiều lần thua tan, nhưng quân chúng lại thêm càng lúc càng nhiều. Quan quân khốn thiếu, tử thương cũng nhiều. Ngựa quân Mông Cổ không thi thố được kỹ năng. Bèn bỏ kinh thành vượt sông lên bờ bắc, quyết nghị rút quân về đóng ở châu Tư Minh. Trấn Nam Vương đồng ý, bèn dẫn quân về. Ngày đó, Lưu Thế Anh kịch chiến với hơn hai vạn binh của Hưng Đạo Vương và Hưng Ninh Vương”.
 
Thế rõ ràng vào ngày quân địch quyết định rút khỏi kinh đô Thăng Long, thì cũng chính là ngày hai anh em Trần Quốc Tuấn và Trần Quốc Tung với hơn vạn quân trong tay đã tiến hành chỉ huy một trận đánh lớn với tướng giặc Lưu Thế Anh. Tên tướng giặc này, Trần Hưng Đạo đã đánh bật ra khỏi cứ điểm A Lỗ trong chiến thắng đầu tiên của cuộc tổng phản công. Bấy giờ, chắc Lưu Thế Anh đã được Thoát Hoan giao cho công tác đánh chặn hậu, nhằm tạo đường và thời gian cho đại quân giặc rút khỏi Thăng Long.
 
Thực tế, chiến dịch giải phóng Thăng Long là một chiến dịch lớn. Kinh thế đại điển tự lục trong Nguyên văn loại 41 tờ 27a9-b1 mô tả rất gần với những gì mà bọn chỉ huy giặc đã bàn trước khi rút khỏi Thăng Long: “Trung Thành Vương đánh Thiên Hộ Mã Vinh ở Giang Khẩu đều bị giết và rút lui. Đã thế, quân thủy bộ đến đánh Đại Mãng doanh thành vây mấy vòng, tuy chết nhiều, mà quân tăng viện lại càng đông. Quan quân sớm chiều kịch chiến khốn thiếu, khí giới đều hết, bèn bỏ kinh thành nó, vượt sông qua đóng đồn (bên kia sông), rồi bỗng cho lệnh rút quân”.
 
Như vậy, chiến dịch giải phóng thủ đô Thăng Long diễn ra hết sức khốc liệt và hoành tráng. Quân ta tập trung hầu như toàn bộ lực lượng quân chính qui của mình với các tướng tài như Trần Hưng Đạo, Trần Quốc Tung, Trần Quang Khải... chia ra mấy mũi cùng hợp đồng chiến đấu. Quân ta vây địch mấy vòng và một số trận đánh đã xảy ra, mà ta hiện biết. Chẳng hạn, trận Trung Thành Vương đánh tên Thiên hộ Mã Vinh tại Giang Khẩu, tức phố Hàng Buồm của Hà Nội ngày nay. Và đặc biệt là trận Trần Hưng đạo và Trần Quốc Tung kịch chiến với Lưu Thế Anh.
 
Thời gian xảy ra chiến dịch giải phóng Thăng Long, như đã nói trên, phải ở vàocuối tháng tư của năm At Dậu (1285). Tuy nhiên, An Nam chí lược 4 tờ 54 còn chép đến mồng 5 tháng 5 quân của Giảo Kỳ còn đánh với quân ta trong cung, trước khi vượt qua sông Lô để gặp Thoát Hoan và cùng với tên này rút về vào ngày mồng 6 tháng 5: “Tháng 5 ngày mồng 5 Đinh Sửu, Giảo Kỳ và Vạn Hộ phục quân bắn nỏ trong cung, đánh tan, đến sông Lô. Ngày hôm sau, rút quân về”. Bọn Giảo Kỳ này có thể chính là bọn đã chiếm đóng Trường Yên và Thiên Trường, mà theo ĐVSKTT đã bị vua Trần Nhân Tông đánh bật ra khỏi hai địa điểm ấy vào ngày mồng 3 tháng 5. Từ đó, chúng rút chạy về Thăng Long, hy vọng kết hợp với quân của Thoát Hoan, để tiến hành một cuộc phản công mới. Tuy nhiên, khi tới Thăng Long thì Thoát Hoan đã quyết định rút quân, và chúng đã gia nhập vào đoàn quân đang triệt thoái này để đi về Bắc, sau một vài trận đánh lẻ tẻ kiểu phục quân bắn nỏ trong cung, như Lê Thực đã ghi lại.
 
Như thế, chiến dịch giải phóng Thăng Long diễn ra trong một thời gian ít lắm cũng vài tuần từ khi bao vây cho đến khi đánh bật chúng ra khỏi kinh đô. Đây là một trận đánh kéo dài dai dẳng. Bọn Thoát Hoan cố bám lại trong khi quân ta kiên quyết đánh đuổi chúng đi. Vì vậy, đúng như ĐVSKTT đã ghi, đến ngày mồng 10 tháng 5 vua Trần Nhân Tông mới được báo về chiến thắng giải phóng thủ đô.
 
 
Trận Như Nguyệt: Trần Quốc Toản hy sinh

Rút khỏi Thăng Long vào ngày mồng 6 tháng 5, đại quân Thoát Hoan nhắm hướng sông Như Nguyệt để tiến lên. Tại đây, các sử liệu Trung Quốc thống nhất là đã sảy ra một trận đánh và người chỉ huy trận đánh này đã anh dũng hy sinh. Đó là Hoài Văn Hầu Trần Quốc Toản. An Nam truyện của Nguyên sử 209 tờ 8a10 chép: “Quan quân đến sông Như Nguyệt, thì Nhật Huyên sai Hoài Văn Hầu đến đánh”. Kinh thế đại điển tự lục trong Nguyên văn loại 41 tờ 27b 1-2 viết: “Đến sông Như Nguyệt, Nhật Huyên sai Hoài Văn Hầu đến đuổi thì bị giết”.
 
Về phía sử ta không thấy ghi trận sông Như Nguyệt này. Tuy nhiên, viết về cuộc hội nghị quân sự Bình Than vào tháng 10 năm Nhâm Ngọ (1282), khi kể tới chuyện Hoài Văn Hầu Trấn Quốc Toản vì tuổi nhỏ không được tham dự hội nghị, ĐVSKTT 5 tờ 43a6 đã kể tiếp “bèn lấy làm xấu hổ, tức giận, tay cầm quả cam, bóp nát lúc nào không biết. Tới khi lui về, huy động gia nô và thân thuộc hơn nghìn người, làm binh khí, đóng chiến thuyền, viết vào cờ sáu chữ ‘Phá giặc mạnh, báo ơn vua’. Sau đối trận với giặc, tự mình xông lên trước quân sĩ, giặc trông thấy phải tránh lui, không kẻ nào giám đối địch. Đến khi chết, vua rất thương tiếc, tự mình làm văn tế, lại truy phong tước vương”. Vậy, dù ĐVSKTT không nói đến trận Như Nguyệt, nhưng đã nói đến cái chết của Hoài Văn Hầu và việc vua Trần Nhân Tông thương tiếc làm bài văn tế, thì rõ ràng ĐVSKTT đã nói tới sự hy sinh anh dũng của Hoài Văn Hầu tại trận Như Nguyệt, mà các sử liệu Trung Quốc đã đề cập.
 
Chiến thắng Tây Kết, chém đầu Toa Đô

Trong khi quân ta đang truy kích đại quân của Thoát Hoan tại sông Như Nguyệt, thì vào ngày mồng 7 tháng 5 năm At Dậu (1285) ĐVSKTT 5 tờ 47a ghi tin thám báo nói “Toa Đô từ Thanh Hóa kéo quân ra (.....) Ngày 17 Toa Đô cùng Ô Mã Nhi từ ngoài biển lại đánh vào sông Thiên Mạc, muốn họp quân ở Kinh Sư để giúp lẫn nhau (.....) Ngày 20 hai vua tiến quân đóng ở bến Đại Mang. Tổng quản nhà Nguyên là Trương Hiển đầu hàng. Ngày hôm ấy đánh bại giặc ở Tây Kết. Quân giặc chết và bị thương rất nhiều, chém được đầu nguyên soái Toa Đô. Nửa đêm, Ô Mã Nhi trốn qua cửa sông Thanh Hóa. Hai vua đuổi theo không kịp, bắt được dư đảng chúng hơn năm vạn tên đem về. Ô Mã Nhi chỉ còn một chiếc thuyền lớn vượt biển trốn thoát. (.....). Vua trông thấy thủ cấp của Toa Đo, thương hại nói: ‘Người làm tôi phải nên như thế này’. Rồi cởi áo ngự, sai hữu ty đem liệm chôn. Nhưng ngầm sai lấy đầu Toa Đô đem tẩm dầu để răn, vì cớ Toa Đô mượn đường vào nước ta đã 3 năm vậy”.
 
Đấy là diễn tiến của trận Tây Kết và cái chết của Toa Đô theo ĐVSKTT. Nhưng sử liệu Trung Quốc không hoàn toàn thống nhất với những gì ta vừa đọc, và thậm chí giữa chúng có những mâu thuẫn. Ví dụ, Bản kỷ của Nguyên sử 13 tờ 9b10 - 11 viết: “Trần Nhật Huyên chạy vào cảng biển. Trấn Nam Vương sai Lý Hằng đuổi đánh úp, bị thua. Gặp lúc nắng mưa dịch bịnh hoành hành, quân muốn trở về Bắc ở châu Tư Minh, bèn sai bọn Toa Đô trở về Ô Lý. An Nam đem quân đuổi theo. Toa Đô đánh bị chết”. Vậy rõ ràng theo Bản kỷ, Toa Đô đã được Thoát Hoan cử đem quân xuống miền nam, đóng ở vũng Ô Lý và Việt Lý của Chiêm Thành, tức vùng Quảng Trị- Thừa Thiên ngày nay.
 
Thế nhưng, Toa Đô truyện của Nguyên sử 129 tờ7b9-10 lại viết: “Thoát Hoan sai Toa Đô đóng Thiên Trường, để kiếm ăn, cách đại bản doanh hơn hai trăm dặm. Bỗng có lệnh vua rút quân. Thoát Hoan dẫn quân về, Toa Đô không biết. Giao Chỉ sai người nói cho biết. Nó không tin. Khi đến thì đại doanh trống không. Giao Chỉ chặn ở sông Càn Mãn. Toa Đô đánh, bị chết”. Như vậy, Toa Đô không được cử đem quân về Ô Lý và Việt Lý, mà thực tế về đóng Thiên Trường. Khi Thoát Hoan rút quân, y không biết, tìm đến Thăng Long. Tới nơi, thấy chẳng có ai, bèn trở về. Trên đường về, Toa Đô đã bị quân ta đánh và giết chết.
 
Trong khi đó, An Nam chí lược 4 tờ 54 lại khẳng định: “Khi ấy Toa Đô nghe biết đại quân đã về, mới từ Thanh Hóa đem quân ra, dọc đường ngày đêm đánh nhau với quân An Nam. Đến Bãi Khanh, tướng Toa Đô là Lễ cước Trương làm phản, đem quân kia đánh với quân ta. Toa Đô phóng ngựa rơi xuống nước chết. Ô Mã Nhi và Vạn hộ Lưu Khuê đi thuyền nhẹ trốn thoát ra biển. Tiểu Lý đi thuyền phía sau, thấy cơ không thoát được, tự đâm cổ. Vua Trần cho người cứu sống”.
 
Vậy căn cứ vào Toa Đô truyệnAn Nam chí lược thì Toa Đô đã từ Thanh Hóa kéo quân ra bình nguyên Bắc Bộ. Nhưng những sự việc sau đó thì chúng lại không thống nhất với nhau. Toa Đô truyện thì bảo Toa Đô đi tìm gặp Thoát Hoan, mà không gặp, trên đường về, bị quân ta chặn ở sông Càn Mãn và Toa Đô đã tử trận tại đây. Mục Sơn xuyên của tỉnh Bắc Ninh trong Đại Nam nhất thống chí cho rằng sông Càn Mãn là sông Thị Cầu. Thế phải chăng Toa Đô đã chết tại trận Như Nguyệt?
 
Trả lời câu hỏi này ta có tài liệu từ An Nam chí lượcĐVSKTT. An Nam chí lược chép quân Toa Đô đến Bái Khanh thì một trong những tướng của hắn đã trở giáo làm phản. Đó là Lễ cước Trương. Trương dẫn quân Đại Việt tiến đánh quân Toa Đô. Toa Đô phóng ngựa rớt xuống sông bị chém đầu. ĐVSKTT thì chép khi vua Trần Nhân Tông và Thượng hoàng đến Đại Mang bộ, thì tổng quản nhà Nguyên là Trương Hiển đầu hàng. Thế thì Lễ cước Trương cũng chính là Trương Hiển. Và Đại Mang bộ chính là Bái Khanh. Chính ngày Trương Hiển đầu hàng, quân Đại Việt do chính vua Trần Nhân Tông và Thượng hoàng chỉ huy đã thắng lớn, chém đầu Toa Đô, rượt Ô Mã Nhi và Lưu Khuê chạy ra biển. Đạo quân phía Nam của nhà Nguyên hoàn toàn bị tiêu diệt.
 
Chiến thắng Vạn Kiếp

Đồng thời với chiến thắng Tây Kết vang dội ở phía Nam, do chính vua Trần Nhân Tông và Thượng hoàng chỉ huy, thì ở phía Bắc, chiến dịch truy kích ráo riết quân thù dưới sự chỉ huy trực tiếp của Trần Hưng Đạo lại tiến hành. Sau chiến thắng sông Như Nguyệt của quân Đại Việt, đại quân của Thoát Hoan đã chạy xuống Vạn Kiếp. Ở đây chúng đã gặp quân của Hưng Đạo Vương. ĐVSKTT 5 tờ 47b đã viết: “Ngày 20 (.....) Hưng Đạo Vương lại cùng với Thoát Hoan và Lý Hằng đánh nhau ở Vạn Kiếp. Giặc thua, chết đuối rất nhiều. Lý Hằng đem quân hộ vệ Thoát Hoan chạy về Tư Minh. Quân ta lấy tên độc bắn trúng vào đầu gối trái của Hằng. Hằng chết. Tỳ tướng Lý Quán thu nhặt 5 vạn quân còn lại, lấy đồ đồng giấu Thoát Hoan vào trong để trốn về Bắc. Đến Tư Minh, Hưng Vũ Vương đuổi theo, lấy tên độc bắn trúng Lý Quán chết. Quân Nguyên vỡ lớn”.
 
Trận Vạn Kiếp này tất cả sử liệu Trung Quốc không nhắc tới, mà chỉ nói tới trận sông Sách. An Nam truyện của Nguyên sử 209 tờ 8a10 -12 viết: “Đi đến sông Sách, buộc cầu nổi để vượt sông. Tả thừa Đường Ngột Đãi v. v. Quân chưa kịp sang sông thì phục binh trong rừng đã đổ ra. Quan quân phần lớn chết chìm, hết sức đánh mới được ra khỏi đất Giao Chỉ. Bọn Đường Ngột Đãi chạy ngựa trạm tâu lên”. Kinh Thế đại điển tự lục trong Nguyên văn loại 41 tờ 27b2 cũng chép tương tự: “Đến sông Sách, phục binh đổ ra, quan quân đạp nhau, đứt cầu nổi, phần lớn chết đuối”. An Nam chí lược 4 tờ 54 chép khác một chút: “Quân An Nam kéo đến sông Nam Sách. Hữu thừa Lý Hằng đi sau đánh lui chém được nghĩa dũng của Hưng Đạo Vương là Trần Thiệu”.
 
Sông Sách của Nguyên sửKinh thế đại điển tự lục, An Nam chí lược gọi là sông Nam Sách. Mà sông Nam Sách theo Khâm định Việt sử thông giám cương mục tiền biên 5 tờ 22a3 là “ở phủ Nam Sách tỉnh Hải Dương ngày nay”. Tất nhiên, trận sông Sách không thể xảy ra ở phủ Nam Sách, vì nó không nằm trên đường rút quân của Thoát Hoan. Sông Sách phải nằm sát Vạn Kiếp, nơi mà theo ĐVSKTT đã diễn ra trận đánh giữa Trần Hưng Đạo với Thoát Hoan và Lý Hằng. Sông Sách do thế, phải là sông Thương. Từ đó, trận sông Sách trong sử liệu Trung Quốc chính là trận Vạn Kiếp, mà ĐVSKTT nói tới. Trận này là một trận phục kích lớn bất ngờ, làm cho đại quân của Thoát Hoan dẫm đạp lên nhau để tháo chạy, gãy cầu phao, chết chìm rất nhiều.
 
Lý Hằng phải kịch chiến với quân của Hưng Đạo Vương để bảo vệ cho Thoát Hoan chạy về được Tư Minh, đúng như Bản kỷ của Nguyên sử 13 tờ 9b 11-12 viết: “(Tháng 5 ngày Mậu Tuất...) Hằng đi sau chống cự, để bảo vệ Trấn Nam Vương, đầu gối trái trúng tên độc, đến Tư Minh độc phát ra mà chết”. Tuy nhiên, để qua được bên kia biên giới, đoàn quân chiến bại của Thoát Hoan còn chịu một trận phục kích cuối cùng tại Vĩnh Bình, mà chỉ văn bia của Lý Hằng, tức Trung thư tả thừa Lý công gia miếu bi do Diêu Toại (1238-1314) viết trong Mục am tập 12 tờ 8b5, ghi nhận: “Giặc đóng cửa Vĩnh Bình, dùng tên độc bắn ông bị thương xuyên qua đầu gối. Ông cướp được cửa quan, ra khỏi cõi. Vì thuốc độc phát tác, ông chết ở châu Tư Minh”. Trận Vĩnh Bình này, Lý Hằng truyện của Nguyên sử 129, tờ 9a12-11b5cũng không đề cập tới. Nó viết: “Quân mọi đuổi, đánh bại hậu quân. Vương liền đổi lệnh, sai Hằng đi sau, vừa đánh vừa đi. Tên độc bắn xuyên vào đầu gối Hằng. Một tên lính cõng Hằng chạy đến Tư Châu, thuốc độc ngấm ra, rồi chết. Lúc ấy 50 tuổi”.
 
 
Chiến thắng Phù Ninh

Trong khi Trần Hưng Đạo truy kích cánh quân của Thoát Hoan ở phía đông bắc, thì Trần Nhật Duật đánh đuổi cánh quân của Nạp Tốc Lạt Đinh (Nàsir ud Din) đang tìm đường trở về Vân Nam. Cánh quân này, khi Thoát Hoan tiến vào nước ta, không thấy Bản kỷAn Nam truyện của Nguyên sử nói tới. Chỉ có Nạp Tốc Lạt Đinh truyện phụ trong Nguyên sử 125 tờ 3b là có đề cập đến, nhưng thay vì Chí Nguyên năm 22 (1285), nó lại chép thành Chí Nguyên năm 32 (1295), nên nhiều người không chú ý tới. Tại đây, ta được biết: “Chí Nguyên năm 22, Nạp Tốc Lạt Đinh đem 1000 quân Hợp lạt chương (qarajang, tức quân Ô thoán của Vân Nam, LMT) và Mông Cổ theo Hoàng thái tử Thoát Hoan đi đánh Giao Chỉ. Luận công, được thưởng 2000 lạng bạc”.
 
Về phía sử ta thì cánh quân của Nạp Tốc Lạt Đinh này cũng không được đề cập. Chỉ đến khi Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật mất năm 1330, ĐVSKTT 7 tờ 3a7-b3, mới nói tới việc Trần Nhật Duật tham gia cuộc kháng chiến chống Minh năm 1285 với chi tiết: “Đến cuối đời Thiệu Bảo, ông giữ trại Thu Vật ở Tuyên Quang. Giặc Nguyên mới đến cõi, Chiêu Quốc tâu rằng: ‘Chiêu Văn ở Tuyên Quang, chắc ở trên ấy gọi giặc Nguyên sang’. (Vì Nhật Duật thích chơi với người Tống, nên Chiêu Quốc nói thế). Khi Tuyên Quang thất thủ, Nhật Duật thuận dòng xuôi xuống. Quân giặc rượt theo hai bên bờ sông. Nhật Duật ngăn lại, thấy quân giặc đi thong thả, nói với quân ta rằng: ‘Phàm quân đuổi theo, tất phải đi nhanh, nay lại đi thong thả, e có quân chặn ở đằng trước’. Ông vội sai người dò xem, quả nhiên thấy giặc đã chặn ngay hạ lưu. Ông bèn lên bộ chạy thoát “.
 
Thế là khi Nạp Tốc Lạt Đinh từ Vân Nam dọc theo sông Hồng kéo quân xuống nhắm hướng Thăng Long, đã bị Trần Nhật Duật chặn đánh, rồi rút quân vào cuối đời Thiệu Bảo, tức những năm 1284-1285. Cho nên, lúc Thoát Hoan họp bộ chỉ huy của hắn ở Thăng Long và quyết định rút quân, chắc chắn Nạp Tốc Lạt Đinh được phân công chỉ huy cánh quân Tây Bắc, nhắm hướng Vân Nam, để triệt thoái. Trên đường triệt thoái này, chúng đã bị quân ta dưới sự chỉ huy của Hà Đặc, Hà Chương tấn công ráo riết.
 
ĐVSKTT tờ 47 khi viết về việc Toa Đô và Ô Mã Nhi từ ngoài biển tiến vào đánh cứ điểm Thiên Mạc ngày 17 tháng 05 năm At Dậu (1285), đã viết tiếp: “Du binh đi đến huyện Phù Ninh, viện phụ đạo huyện ấy là Hà Đặc lên Trỉ Sơn cố giữ. Quân giặc đóng ở động Cự Đà. Đặc lấy tre đan thành hình người to lớn, cho mặc áo, cứ đến tối thì dẫn ra dẫn vào, lại dùi thủng cây to, cắm tên lớn vào giữa lỗ, để giặc ngờ sức bắn khoẻ, xuyên được cây to. Giặc sợ không dám đánh với Đặc, quân ta hăng hái xông ra đánh, phá được giặc. Đặc đuổi đến A Lạp, làm cầu nổi sang sông, hăng đánh quá nên bị chết. Em là Chương bị giặc bắt, lấy trộm được cờ xí và y phục của giặc trốn về, đem dâng lên vua, xin dùng cờ ấy giả làm quân giặc để đến doanh trại chúng. Giặc không ngờ là quân của ta. Bèn đánh tan quân giặc”.
 
Trận chặn đánh quân của Nạp Tốc Lạt Đinh này do ĐVSKTT chép chung với sự kiện Ô Mã Nhi và Toa Đô tiến đánh cứ điểm Thiên Mạc, nên thường gây hiểu lầm. Khâm định Việt sử thông giám cương mục 7 tờ 41b1-3 nhận thấy việc này nên đã viết: “Toa Đô từ đường biển tiến ra, đánh vào sông Thiên Mạc. Thế mà quân tuần tiễu lại đến huyện Phù Ninh, xa cách nhau hàng ba bốn ngày đường. Tất nhiên không có lẽ như thế. Việc này nghi là chép nhầm, sẽ nghiên cứu sau”. Dĩ nhiên ĐVSKTT đã không chép sai. Nhưng do việc những sự kiện được chép liên tục, nên dễ gây hiện tượng nhầm lẫn. Huyện Phù Ninh là một huyện của tỉnh Phú Thọ bây giờ và động Cự Đà ngày nay tuy không tìm thấy, nhưng xã Tử Đà hiện còn lại thuộc huyện Phù Ninh. Và theo thần phả thì Hà Đặc là người xã Tử Đà. Cũng thế, địa điểm A Lạp ngày nay không tìm thấy, nhưng Đồng khánh địa dư chí có chép tên các xã An Lạp và Đức Lạp thuộc huyện Lập Thạch tỉnh Sơn Tây. Vậy có khả năng Cự Đà là Tử Đà và A Lạp là An Lạp. Thế thì các trận đánh của Hà Đặc, Hà Chương đã xảy ra dọc theo sông Hồng tại tỉnh Phú Thọ ngày nay.
 
Khải hoàn về Thăng Long

Sau các chiến thắng Vạn Kiếp, Phù Ninh quét sạch quân thù ra khỏi bờ cõi, vua Trần Nhân Tông cùng Thượng hoàng và các tướng lĩnh như Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, Chiêu Minh Vương Trần Quang Khải, Hưng Ninh Vương Trần Quốc Tung. v. v đã khải hoàn trở về kinh đô Thăng Long trong tiếng reo hò hoan hô của hàng chục vạn quân dân Thăng Long vừa mới đập tan mưu đồ chiếm đóng nước ta của quân xâm lược Nguyên Mông. Thượng tướng Thái sư Trần Quang Khải với tư cách là một trong những danh tướng chỉ huy giải phóng thủ đô Thăng Long và người đang trực tiếp điều hành toàn bộ chính quyền dân sự của đất nước đã làm bài thơ tổng kết cuộc chiến tranh vệ quốc đầy hy sinh gian khổ vừa qua và kêu gọi mọi người ra sức xây dựng nền thái bình muôn đời cho Tổ quốc, cho con cháu mai sau:
 
Chương Dương cướp giáo giặc
Hàm Tử bắt quân Hồ
Thái bình hãy gắng sức
Non nước ấy nghìn thu.
 
 
 
Ngày mùng 6 tháng 6 năm Ất Dậu (1285), vua Trần Nhân Tông khải hoàn về thủ đô Thăng Long. Chưa đầy hai tháng sau tức ngày 20 tháng 7, khi tập hợp được tất cả các báo cáo về cuộc chiến tranh vừa qua, Hốt Tất Liệt thông qua Khu mật viện ra lệnh bổ sung quân cho Thoát Hoan và A Lý Hải Nha tiến hành cuộc chiến tranh thứ hai. Bản kỷ của Nguyên sử tờ 10a13-b4 viết: “(Chí Nguyên năm 22 tháng 7) ngày Canh Dần, Khu mật viện nói quân do Trấn Nam Vương Thoát Hoan tổng chỉ huy để đi đánh Giao Chỉ, do đánh lâu sức mệt, xin chia lấy 1.000 quân Mông Cổ trong 3 vạn hộ của bọn Áo Lỗ Xích (Aγuruγči) và phân lấy 4.000 người quân Hán và tân phụ từ ba hành viện Giang Hoài,Giang Tây và Kinh Hồ, chọn tướng giỏi chỉ huy, lấy Trấn Nam Vương Thoát Hoan và A Lý Hải Nha làm tiếp chế. Vua nghe theo. Lại lấy Đường Ngột Đãi làm tả thừa kinh hồ hành tỉnh. Đường Ngột Đãi xin thả quân đi đánh Giao Chỉ về nhà nghỉ ngơi. Vua xuống chiếu đồng ý, cho Thoát Hoan và A Lý Hải Nha xử lý”.
 
Hốt Tất Liệt chuẩn bị chiến tranh
 
Tháng 9 ngày Canh Dần, Hốt Tất Liệt cho tiến hành một đợt tuyển quân nữa. Kết quả, như Bản kỷ của Nguyên sử 13 tờ 11a8-10, là “các quân đánh Giao Chỉ, trừ 100 quân Mông Cổ và 400 quân Hán lưu lại làm túc vệ cho Trấn nam vương Thoát Hoan, còn lại bao nhiêu đều cho về nhà, riêng lấy Giang Hoài hành khu mật viện tổng chỉ huy quân Mông Cổ đóng ở Giang Tây”. Rồi tới tháng 10, Hốt Tất Liệt gửi Hợp Tản Nhi Hải Nha (Qasar Qaya), tên đã từng làm chánh và phó đạt lỗ hoa xích (daruga?i) tại nước ta vào những năm 1273-1275, đến Đại Việt để thăm dò tình hình (Nguyên sử, Bản kỷ 13 tờ 11a12-13). Cũng trong tháng này, An Nam truyện của Nguyên sử 209 tờ 8a12-13 cho biết khu mật viện xin điều quân tập trung đến Đàm Châu giao cho Trấn Nam Vương và A Lý Hải Nha chọn tướng chỉ huy.
 
Tháng giêng năm sau (1286) cũng theo An Nam truyện của Nguyên sử 209 tờ 8a13-b3, Hốt Tất Liệt ra lệnh cho các đại thần cùng bàn việc đánh Đại Việt, mà Bản kỷ của Nguyên sử 14 tờ 1b1-2 chép rõ là “sai bọn A Lý Hải Nha bàn việc đánh An Nam". Việc bàn này, Bản kỷ cũng ghi rõ là xảy ra vào ngày Tân Mão, tức ngày 24 tháng giêng năm Bính Tuất (1286).
 
Tháng 2 ngày Giáp Thìn, tức ngày mùng 7, Hốt Tất Liệt lại cử “A Lý Hải Nha giữ nguyên chức Tả thừa tướng của An Nam hành trung thư tỉnh, Áo Lỗ Xích làm bình chương chính sự đô nguyên soái, Ô Mã Nhi, Diệt Lý (đúng ra phải là Hắc, LMT) Mê Thất (Yiγmiš), A Lý Quỹ Thuần (Ariq Qusun), Phàn Tiếp đều làm tham tri chính sự, rồi gửi sứ đến bảo Hoàng tử Giả Tiên Thiết Mộc Nhi (ấsôn Tômỳr) điều quân Hợp lạt chương một hoặc hai, ba nghìn người, giao cho A Lý Hải Nha theo đánh Giao Chỉ, đồng thời ghi đủ tên họ của tướng sĩ để tâu lên”, như Bản kỷ của Nguyên sử 14 tờ 1b8-10 đã ghi. Qua ngày Đinh Tỡ (20 tháng 2) Hốt Tất Liệt lại ra lệnh “cho Hồ Quảng hành tỉnh đóng 300 hải thuyền để đi đánh Giao Chỉ, kỳ hạn sẽ tập hợp tại châu Khâm và châu Liêm vào tháng 8. Ngày hôm sau sai Kinh Hồ Chiêm Thành hành tỉnh đem 6 vạn quân của ba hành tỉnh Giang Triết, Hồ Quảng và Giang Tây đi đánh Giao Chỉ. Bình chương của Kinh Hồ hành tỉnh là Áo Lỗ Xích đem việc đánh Giao Chỉ xin vào gặp vua. Vua ra lệnh cho theo ngựa trạm xuống kinh đô”.
 
Cũng trong ngày 21 tháng 2 ấy, Hốt Tất liệt chính thức phong cho Trần Ích Tắc làm An Nam quốc vương, ban cho ấn và phù, Trần Tú Viên làm phụ nghĩa công, như Nguyên sử 14 tờ 2a11 và 209 tờ 8b2 -3 đã ghi. An Nam chí lược 13 tờ 132 còn chép thêm việc Hốt Tất Liệt phong cho một loạt các tên Việt gian khác như con trưởng của Ích Tắc là Bá Ý làm an phủ sứ lộ Đà Giang, Lại Ích Khuy làm An Phú sứ lộ Nam Sách Giang, Trần Văn Lộng làm Tuyên Phủ sứ lộ Quy Hóa Giang v.v.. Thực tế, Hốt Tất Liệt muốn dựng lên một chính phủ bù nhìn nhằm áp đặt lên đất nước ta, khi bọn Thoát Hoan đánh chiếm Đại Việt thành công.
 
Đồng thời cũng trong tháng 2, Hốt Tất Liệt gửi thư cho quan dân nước ta kể tội vua ta là Trần Nhân Tông về việc dám giết Trần Di Ái và không nhận đạt lỗ hoa xích Bất Nhan Thiết Mộc Nhi (Buyan Tämür), và kêu gọi dân ta bình tĩnh làm ăn, trong khi chúng tiến quân đến hỏi tội vua ta, như An Nam truyện của Nguyên sử 209 tờ 8a13-b2 đã ghi.
 
Như thế trong hai tháng đầu năm Bính Tuất (1286) Hốt Tất Liệt và triều đình nhà Nguyên ráo riết chuẩn bị mọi phương lược, nhân lực cũng như khí tài để tiến đánh nước ta. Đến tháng tư ngày Canh Tý, tức ngày mồng 4, để tăng cường tiềm lực và khích lệ đám quân Mông Cổ đang lao động sản xuất tại các đồn điền, Hốt Tất Liệt đã ra lệnh miễn thuế cho các đồn điền có quân Mông Cổ đi đánh Giao Chỉ, như Bản kỷ của Nguyên sử 14 tờ 3a1-2 đã ghi. 12 ngày sau, vào ngày Nhâm Tý, tức ngày 16 tháng tư, Nạp Tốc Lạt Đinh lại “được lệnh đem quân Mông Cổ và Hợp lạt chương 1000 người cùng những tướng giỏi đến Giao Chỉ để giúp Hoàng tử Thoát Hoan”.
 
Cũng trong tháng 4 này, khi Áo Lỗ Xích về đến Đại Đô ra mắt Hốt Tất Liệt để bàn việc xâm lược Đại Việt, Hốt Tất Liệt đã động viên Ao Lỗ Xích với những lời: “Ngày trước bọn Mộc Hoa Lê (Muqali) tận lực với vương thất, tiếng thơm đến nay bất hủ. Khanh cố gắng lên, há lại không vẻ vang như người xưa hay sao!”, như Áo Lỗ Xích truyện của Nguyên sử 131 tờ 17a2 đã ghi. Đồng thời, để tỏ sự ưu ái, Hốt Tât Liệt còn phong cho con của Áo Lỗ Xích là Thoát Hoàn Bất Hoa (Togan Buqa) chức vạn hộ. Áo Lỗ Xích được chú ý như thế, bởi vì sức khỏe của A Lý Hải Nha, sau đợt viễn chinh Đại Việt, đã tỏ ra sút kém. Đến ngày 25 tháng 5 năm Bính Tuất (1286) A Lý Hải Nha đã chết, như Hồ Quảng hành tỉnh tả thừa tướng thần đạo bi trong Nguyên văn loại 82 tờ 24b2 đã cho biết.
 
Đến tháng 6 ngày Tân Hợi, tức ngày 16, Hốt Tất Liệt còn gửi Diệp Mã Lạt (đúng ra là Lạt Ma, LMTư) Đan (Iramadan) đi sứ nước ta. Nhưng chỉ 2 ngày sau, tức ngày Quý Sửu, Tuyến Ca (Sôngô) của Hồ Quảng hành tỉnh đã phàn nàn về việc hành tỉnh phải giao nộp 2 vạn 8 ngàn 700 quân tập hợp tại Tỉnh Giang của Quảng Tây ngày nay để đi đánh Giao Chỉ, số tinh nhuệ đã đưa đi hết, số còn lại 1 vạn 7 ngàn 800 quân thì đều ốm bệnh không thể dùng được, như Bản kỷ của Nguyên sử 14 tờ 4a6-8 đã ghi. An Nam truyện của Nguyên sử 209 tờ 8b10 -12 còn chép rõ quan điểm của Tuyến Ca hơn nữa.
 
Thứ nhất, Tuyến Ca đồng ý với báo cáo của Hồ Nam tuyên úy ty về tình cảnh khốn khổ của quân đội và dân chúng sau những năm liên tiếp đi chinh phạt Nhật Bản và Chiêm Thành. Thứ hai, việc tiến đánh Giao Chỉ chưa cần thiết, vì nó không đáng giá và vì Giao Chỉ xưa nay vẫn triều cống bình thường. Nếu muốn đánh thì đợi một dịp khác thuận lợi hơn. Chính đây là quan điểm của Tuyến Ca. Khu mật viện đem tâu lên. Thêm vào đó, tại chính quyền trung ương, Thượng thư bộ Lễ là Lưu Tuyên lại cũng nêu những lý do tương tự, để đề nghị hoãn việc tiến đánh Đại Việt, như Lưu Tuyên truyện của Nguyên sử 168 tờ 8a1-10 đã chép.
 
Dưới áp lực của những lời đề nghị này, Hốt Tất Liệt bất đắc dĩ đồng ý, ra lệnh cho tạm thời hoãn cuộc tiến quân. Trần Ích Tắc lại lủi thủi trở về lại Ngạc Châu, nơi đóng đại bản doanh của Thoát Hoan, như An Nam truyện của Nguyên sử 209 tờ 9a1 đã ghi. Tuy nhiên, Hốt Tất Liệt không bao giờ rời bỏ dã tâm xâm lược Đại Việt. Cho nên, chỉ 5 tháng sau, vào ngày Ất Mão tháng 10, Hốt Tất Liệt đã cấp cho Thoát Hoan 4.000 con ngựa. Rồi tháng 11 ngày Kỷ Tỡ thành lập Chinh Giao Chỉ hành tỉnh, tức cơ quan chuyên trách về việc xâm lược Đại Việt, và giao cho A Bát Xích (Aba?i) làm hữu thừa, như Bản kỷ của Nguyên sử 14 tờ 5b 12 -13 và 6a 6 -7 đã chép. Cùng với việc thành lập Chinh Giao Chỉ hành tỉnh vừa nói, Hốt Tất Liệt lại lôi con bài Trần Ích Tắc ra. Ngày Bính Thìn tháng 12, Hốt Tất Liệt đã ban tiền cho Trần Ích Tắc.
 
Qua tháng giêng năm Đinh Hợi (1287), Hốt Tất Liệt càng ráo riết tổ chức các hoạt động chuẩn bị xâm lược. Trước hết ngày Đinh Hợi, lấy quân Tân phụ 1 ngàn người cho theo A Bát Xích đến An Nam. Qua ngày Tân Mão, đưa quân Mông Cổ và Hán khoản thuộc 3 hành tỉnh Giang Hoài, Giang Tây và Hồ Quảng 7 vạn người với 5 trăm chiếc thuyền cùng với 6 ngàn quân Vân Nam cùng 1 vạn 5 trăm ngàn quân Lê của 4 châu ở ngoài biển. Về vận chuyển lương đường biển thì giao cho Trương Văn Hổ, Phí Củng Thìn và Đào Đại Minh phụ trách vận chuyển 17 vạn thạch lương chia đường mà tiến. Và để danh chánh ngôn thuận cùng tăng thêm tính chất quan trọng cho cơ quan đầu não tiến hành xâm lược Đại Việt, Chinh Giao Chỉ hành tỉnh đã được đổi thành Chinh Giao Chỉ hành thượng thư tỉnh, giao Áo Lỗ Xích làm bình chương chính sự, Ô Mã Nhi và Phàn Tiếp làm tham tri chính sự, nắm hết mọi quyền. Đồng thờI giao cho Trấn Nam Vương Thoát Hoan làm tiết chế.
 
Thế là bộ máy xâm lược đã bắt đầu hoạt động do Thoát Hoan và Ao Lỗ Xích đứng đầu với trong tay hơn 90 nghìn quân. An Nam chí lược 4 tờ 55 còn nói đến sự hiện diện của các binh sĩ thuộc dân tộc thiểu số Quảng Tây, mà nó gọi là Quảng Tây động binh. Tích Đô Nhi truyện của Nguyên sử 133 tờ 9b có ghi việc Tích Đô Nhi (Śiktur) chỉ huy động quân theo Thoát Hoan đánh Giao Chỉ vào tháng 7 năm Chí Nguyên thứ 24 (1287). Thế là trong đợt xâm lược này, bọn Thoát Hoan có trong tay trên 100 ngàn quân và được tổ chức khá kỹ càng cả thủy lẫn bộ cùng việc vận chuyển lương thực.
 
Đó là những chuẩn bị cho cuộc chiến tranh năm 1288 về phía địch. Còn về phía ta, vua Trần Nhân Tông và bộ chỉ huy tối cao của dân tộc thời bấy giờ đã làm gì?
 
 
 
Những chuẩn bị về phía Đại Việt

Ngày mồng 6 tháng 6 năm Ất Dậu (1285) khi vua Trần Nhân Tông vừa khải hoàn trở về Thăng Long, thì một trong những công việc đầu tiên mà nhà vua làm và ĐVSKTT 5 tờ 50b1-2 ghi lại, là “sai trung phẩm phụng ngự Đặng Du Chi đưa bọn tể thần của Chiêm Thành là Bà Lậu Kê Na Liên cọng 30 người về nước, vì đi theo Toa Đô mà bị bắt”. Đó rõ ràng thể hiện một bước đi ngoại giao, nhằm ổn định và thiết lập quan hệ hữu nghị tốt lành với nước láng giềng phía Nam, mà trong gần 10 năm kể từ khi lên ngôi vua Trần Nhân Tông đã ra sức vun đắp và bồi dưỡng. Đây là một chiến lược ngoại giao lâu dài và nhất quán, đã đem đến hoa tươi trái ngọt cho quốc gia Đại Việt, mà đỉnh cao là việc mở rộng biên cương lên tới trên 200 cây số, khi hai châu Ô Mã và Việt Lý đã trở thành một bộ phận không thể phân ly của tổ quốc vào năm 1306 sau này.
 
Tiếp theo là công tác phong thưởng cho người có công với nước và trừng trị những kẻ có tội đầu hàng giặc. Việc này, ĐVSKTT 5 tờ 50b3-4 chép: “Mùa thu tháng 8, sai tả bộc xạ Khương Cương Giới tuyên phong các công thần theo thứ bậc khác nhau và trị tội những kẻ đầu hàng giặc”. Như thế ngay việc phong thưởng để khích lệ công thần và quân sĩ cũng như việc trừng phạt những kẻ có tội đầu hàng giặc để làm gương răn đe vẫn được đặt lui vào một thời gian sau. Sự chậm chạp này có thể xuất phát từ yêu cầu thiết lập hồ sơ đòi hỏi phải có chứng cớ, đặc biệt đối với những ngưởi có công cũng như kẻ có tội.
 
Đại Việt chuẩn bị đối phó
 
Đối với những người có công lớn như Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, Chiêu Minh Vương Trần Quang Khải, Hưng Ninh Vương Trần Quốc Tung, Điện Tiền Phạm Ngũ Lão v.v.. tất nhiên việc thưởng công tỏ ra dễ dàng. Nhưng còn đối với những người ở những địa phương khác nhau và ở cấp thấp hơn thì vấn đề không phải dễ dàng. Văn bia chùa Hưng Phúc tìm được ở Thanh Hóa cho ta một ví dụ điển hình. Nó kể việc Lê Công Mạnh cùng anh em bà con và người trong hương An Duyên đã chặn đánh quân Toa Đô ở tại bến Cổ Bút.
 
Bia viết: “Khoảng năm Thiệu Bảo, giặc Hồ trở xuống phương Nam. Hữu tướng giặc là Toa Đô tiến quân theo đường biển, đi tắt qua ngõ Cổ Khê bằng con đường của hương An Duyên này. Ông đem người trong hương chặn ở bến Cổ Bút, cùng đánh nhau với giặc. Giặc cơ hồ không rút chạy được. Nhưng vì có kẻ gian trong hương hàng giặc chỉ đường, nên nhà cửa ông bị đốt phá, công việc xây chùa không thành. Đến khi giặc lui, nhà vua trở lại kinh đô, ông đem việc tâu lên. Vua xuống chiếu tra xét, rồi lấy sản vật trong hương bồi thường cho ông, để khuyến khích người trung cần, nêu rõ công sức của ông vậy”.
 
Đây chỉ là một thí dụ của những người có công đánh giặc, và sử sách không chép tới. Nhưng nhờ công đức làm chùa, mà bia chùa ghi lại, ta ngày nay mới biết chút ít về những hình thức phong thưởng công trạng đối với những vị có cống hiến, dù lớn hay nhỏ, trong cuộc chiến tranh vệ quốc năm 1285. Đó là đối với những người còn sống.
 
Còn đối với những người đã chết và gia đình họ, ngày nay ta chỉ có một số thông tin giới hạn, chủ yếu thuộc về các thành phần ưu tú nổi bật. Chẳng hạn, khi anh hùng Trần Bình Trọng hy sinh, vua Trần Nhân Tông đã vật vã thương khóc, như Khâm định Việt sử thông giám cương mục 7 tờ 37a2 đã ghi lại. Còn lúc anh hùng Trần Quốc Toản hy sinh tại chiến trường Như Nguyệt, vua Trần Nhân Tông đã làm bài văn tế, tỏ lòng vô cùng thương tiếc người bề tôi anh dũng kiên cường của mình.
 
Về phía những kẻ có tội đầu hàng giặc thì chắc chắn họ đã bị kết tội cũng với đầy đủ chứng cớ. Tuy nhiên, thực tế cho thấy đối với những kẻ có tội này, chỉ gần một tháng sau, vào tháng 9, khi đổi niên hiệu thành Trùng Hưng, vua Trần Nhân Tông đã ra lệnh đại xá cho cả thiên hạ. Đợt đại xá này, dù không tha hết những kẻ vừa kết tội trong tháng 8, song có phần chắc là một số lớn họ đã hưởng được ân xá. Đây là hai bước đi nhằm ổn định lòng dân, làm phấn khởi những người đã hy sinh trong cuộc chiến vừa qua cho tổ quốc, đồng thời cũng xóa đi những mặc cảm tội lỗi của những kẻ phản bội đầu hàng. Ranh giới phân cách trong dân tộc và sự chia rẽ tâm lý giữa những người cùng chung huyết thống được xóa nhòa.
 
Thứ ba, vua cho tiến hành một cuộc điều tra, để nắm được tiềm lực của dân tộc, nhằm đối phó với nguy cơ chiến tranh mà kẻ thù đang cố tình thực hiện. ĐVSKTT 5 tờ 48b cho biết: “Mùa đông tháng 10 xuống chiếu bình hộ khẩu trong nước. Triều thần can là dân đang lao khổ, việc sửa định hộ khẩu không phải là việc cần làm ngay. Vua nói: ‘Chỉ có lúc này mới nên sửa định hộ khẩu. Đừng để cho kẻ địch dòm thấy dân ta điêu hao’. Bầy tôi đều khen phục”. Như vậy, cuộc điều tra khi mới được vua Trần Nhân Tông đề ra đã gặp sự không đồng tình của triều thần. Nhưng sau đó, do được giải thích về ý đồ và ý nghĩa cũng như mục đích cuộc điều tra, họ đã tán đồng và tiến hành nhanh chóng. Mục đích và ý nghĩa cuộc điều tra rõ ràng là nhằm nắm vững tiềm lực như đã nói. Yêu cầu là phải nhanh chóng thực hiện trong một thời gian nhất định, để đáp ứng đòi hỏi chuẩn bị chiến tranh.
 
Thế là 6 tháng sau khi quét sạch quân thù ra khỏi đất nước, vua Trần Nhân Tông đã thực hiện một số biện pháp nội trị và ngoại giao nhằm ổn định và nâng cao tiềm lực chiến đấu của dân tộc. Bước qua năm sau, trong khi quân dân Đại Việt tưng bừng tổ chức lễ tết năm Bính Tuất, mà tết năm Ất Dậu họ đã không có dịp ăn mừng vì phải dồn sức chiến đấu với đội quân xâm lược Thoát Hoan, thì việc đầu tiên vua Trần Nhân Tông làm mà ĐVSKTT 5 tờ 50b9 đã ghi lại là “Mùa xuân tháng giêng, thả quân Nguyên về nước”. Số quân Nguyên này là do quân ta bắt được trong các chiến dịch khác nhau, đặc biệt là chiến dịch Tây Kết do chính vua Trần Nhân Tông chỉ huy và bắt được trên 5 vạn quân giặc. Đây rõ ràng thể hiện chính sách nhân đạo và tấm lòng hiếu sinh từ bi của một chính quyền từ vua cho tới quan và các tướng lĩnh cao cấp nhất đều là những Phật tử.
 
Song mặt khác, hành động ấy cũng biểu lộ một chính sách ngoại giao mềm dẻo, cố gắng tránh mọi nguy cơ đưa đến chiến tranh và phát huy hết sức mọi vận hội cho việc củng cố một nền hòa bình lâu dài. Trước mắt, việc thả những tù binh này đã tạo điều kiện thuận lợi cho quan hệ ngoại giao của nước ta và nhà Nguyên. Sự thật, sau khi thả tù binh Nguyên về vào tháng giêng, theo ĐVSKTT, 5 tờ 51a1, thì “tháng 2 nhà Nguyên sai Hợp Tản Nhi Hải Nha đến nước ta”. Dù nội dung của sứ bộ Hợp Tản Nhi Hải Nha (Qasar Qaya) là đến thăm dò tình hình đất nước ta, và được cử đi từ tháng 10 năm trước, nhưng khi đến nước ta chắc chắn chúng có nêu lên vấn đề trả lại tù binh Nguyên cho chúng, ngay cả khi chúng ta đã thả đám tù này từ tháng giêng. Dẫu trước hay sau, việc thả tù binh Nguyên nhất định có một tác động chính trị trong một chừng mực nào đó.
 
Tuy vậy, do việc nhà Nguyên ráo riết tiến hành tổ chức chiến tranh, thì tin tức về các hoạt động này thế nào cũng đến tai người lãnh đạo Đại Việt, nên tháng 3 năm Bính Tuất đã được ĐVSKTT 5 tờ 51a1-5 ghi lại như sau: “Tháng 3 vua Nguyên sắc cho thượng thư sảnh Áo Lỗ Xích, bình chương sự Ô Mã Nhi, đại tướng Trương Văn Hổ điều động 50 vạn quân, sai Hồ Quảng làm 300 chiếc thuyền đi biển, hẹn đến tháng 8, họp cả ở châu Khâm và châu Liêm, sai đem quân ba hành tỉnh Giang Chiết, Hồ Quảng và Giang Tây xâm lấn phương Nam, mượn cớ đưa kẻ đầu hàng Trần Ích Tắc về nước. lập làm An Nam quốc vương”. Thông tin về các hoạt động tổ chức chiến tranh của Hốt Tất Liệt, như vậy, đã được vua Trần Nhân Tông và triều đình Đại Việt nắm vững.
 
Đứng trước những nguy cơ chiến tranh tới gần, tất nhiên Đại Việt không thể ngồi yên hay đứng nhìn. Việc đầu tiên vua Trần Nhân Tông làm là “vào tháng 6 sai các vương hầu tôn thất mộ binh và nắm vững quân thuộc hạ của mình”, như ĐVSKTT 5 tờ 51a5-6 đã ghi. Tiếp đến, cũng theo ĐVSKTT 5 tờ 51a6-b2, trong một cuộc hội nghị cao cấp nhất, vua đã hỏi Trần Hưng Đạo: “Thế giặc năm nay thế nào?”. Trần Hưng Đạo trả lời: “Nước ta thái bình lâu ngày, dân không biết việc binh, nên năm trước quân Nguyên xâm lấn, hoặc có người đầu hàng trốn tránh. Nhờ uy binh của tổ tông và thần vũ của bệ hạ, mà đã quét sạch được rợ Hồ. Nay nếu nó lại sang thì quân ta đã quen việc đánh dẹp, mà quân nó thì ngại việc đi xa. Vả lại, nó đã cạch về sự thất bại của Hằng và Quán, nên quân Nguyên không có lòng chiến đấu nữa. Cứ ý thần xem, thì tất đánh tan được chúng”.
 
Qua phân tích của chính Hưng Đạo Vương về sự tất thắng của quân đội ta trong cuộc chiến tranh sắp tới, ta thấy toát lên một niềm tin mạnh mẽ vào khả năng chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu của quân dân Đại Việt và sự lãnh đạo sáng suốt của các vị vua Trần trong đó có vua Trần Nhân Tông. Một lần nữa, vua Trần Nhân Tông “sai Hưng Đạo Vương tổng đốc các vương hầu quân tôn thất điều động quân đội và chế tạo khí giới thuyền bè. Đến tháng 10 cho kiểm điểm và luyện tập các quân đã điều động”, như ĐVSKTT 5 tờ 51b1-3 đã ghi lại. Thế là về phía Đại Việt, ta cũng đã ráo riết chuẩn bị phương tiện, nhân lực và khí tài để đối phó với bóng ma chiến tranh đang đe dọa phủ lấy đất nước mình với niềm tự tin mạnh mẽ vào chiến thắng cuối cùng.
 
Bước qua năm Đinh Hợi (1287) niền tin ấy càng được cũng cố bền vững hơn. Theo ĐVSKTT 5 tờ 52a2-3, “tháng 2,(..) có quan chấp chính xin tuyển người mạnh khỏe làm lính để tăng số quân. Hưng Đạo Vương đã bác đi, nói: ‘Quân cần tinh, không cần nhiều. Dù nhiều đến như Bồ Kiên có 100 vạn quân, có làm gì được đâu?’”. Song song với việc không đôn quân bắt lính ấy, vua Trần Nhân Tông còn “đại xá cho thiên hạ”, thể hiện chính sách ổn định lòng dân. Đợt đại xá này chỉ cách đợt trước chưa đầy nửa năm, chắc chắn được khẩn trương thực hiện, nhằm biểu thị không chỉ tính nhân đạo của chế độ mình, mà còn ít nhiều bộc lộ cảm thức trách nhiệm của người lãnh đạo đối với muôn dân. Nếu người dân phạm tội thì không chỉ người dân chịu trách nhiệm trước tội lỗi của mình, mà chính quyền, cụ thể là người lãnh đạo tối cao, cũng phải có trách nhiệm trước những vi phạm và tội lỗi ấy của người dân.
 
Người dân Đại Việt vào thời Trần Nhân Tông, trước khi xảy ra cuộc chiến tranh 1285, đã được răn dạy: “Phàm các quận huyện trong nước, nếu như có giặc ngoài đến, thì phải tử chiến. Hoặc nếu sức địch không lại thì cho phép trốn vào trong núi đầm. Không được đầu hàng”. An Nam truyện của Nguyên sử 209 tờ 7b 1-2 đã ghi lại như thế. Vậy mà cũng có người đầu hàng. Trách nhiệm đầu hàng trước nhất vẫn thuộc về kẻ đầu hàng. Tuy nhiên, giống như cách xử sự của ông nội mình là Trần Thái Tông đối với Hoàng Cự Đà trong cuộc chiến tranh vệ quốc năm 1258, vua Trần Nhân Tông vẫn cảm thấy trách nhiệm của mình đối với sự đầu hàng của một số tôn thất và dân chúng, khi quân Nguyên xâm lược nước ta vào năm 1285. Chắc chắn vì cảm thức này, mà vua đã cho tiến hành 2 cuộc đại xá chỉ cách nhau có mấy tháng.
 
Đến tháng 4, vua Trần Nhân Tông đã cho em mình là Tá Thiên Đại Vương Đức Việp giữ quyền tướng quốc và duyệt binh một lần chót. Đồng thời vua cho giải quyết những vụ kiện tụng chưa xử lý xong và quy định các sắc dịch. Đây là những việc làm chạy đua với thời gian trong một đất nước đang có những giây phút hòa bình cuối cùng của mình, để chuẩn bị cho một cuộc chiến tranh đang từng bước từ bên kia biên giới tiến vào quê hương Đại Việt.
 
 
Cuộc chiến tranh bắt đầu: Trận Mộc Hoàn

Theo ĐVSKTT 5 tờ 52a6-8: “Ngày 14 (tháng 11 năm Đinh Hợi, 1287) Trịnh Xiển tâu về việc thái tử nhà Nguyên là A Thai đánh vào cửa Phú Lương”. Thực tế thì đây là trận đánh vào cửa Mộc Hoàn do Ái Lỗ chỉ huy, mà Bản kỷ của Nguyên sử 14 tờ 11a3-5 đã mô tả: “Tháng 11 ngày Nhâm Thìn (...) hữu thừa của Vân Nam tỉnh là Ái Lỗ đem quân đóng ở cửa Mộc Ngột của Giao Chỉ. Tướng Giao Chỉ là Chiêu Văn Vương đem 4 vạn quân trấn giữ. Ái Lỗ đánh phá, bắt được tướng nó là Lê Thạch và Hà Anh”.
 
Đây là trận mở đầu và do cánh quân Tây Bắc từ Vân Nam xuống của Ái Lỗ tiến hành. Ái Lỗ (Aruq) là một danh tướng của nhà Nguyên. Ái Lỗ truyện của Nguyên sử 122 tờ 8b3-5ữ chép: “(Năm Chí Nguyên thứ 24) Trấn Nam Vương đánh Giao Chỉ, ra lệnh cho Ái Lỗ đem 6 nghìn quân đi theo, từ La La đến đất Giao Chỉ. Tướng Giao Chỉ là Chiêu Văn Vương đem quân bốn vạn giữ cửa Mộc Ngột. Ái Lỗ đánh phá được, bắt tướng nó Lê Thạch và Hà Anh. Trải ba tháng, đánh nhau mười tám trận lớn nhỏ, bèn đến thành vua nó, cùng hội với các quân, lại đánh hơn hai mươi hiệp, công là nhiều”.
 
Năm sau, vào ngày Quý Mùi tháng 4 năm Chí Nguyên 25 (1288) khi báo cáo trận đánh này lại cho Hốt Tất Liệt ở Bản kỷ của Nguyên sử 15 tờ 3a5, Ái Lỗ còn viết: “Hữu thừa tỉnh An Nam là Ái Lỗ dâng lời nói rằng từ lúc xuất phát ở Trung Khánh qua La La, Bạch Y vào Giao Chỉ, đi về đánh 38 trận, chém đầu không thể kể xiết, tướng sĩ từ Đô nguyên soái trở xuống, những kẻ có công là 474 người”.
 
Vậy trận mở đầu này là một trận đánh lớn, dù quân số ít, chỉ 6 nghìn người, nhưng chắc chắn có sự tham gia của nhiều viên chỉ huy giỏi, mà một trong số đó là Mang Cổ Đái. Viên tướng này có một bề dày chiến trận với nhiều thành tích, và Nguyên sử đã dành hẳn một truyện để viết về y ở Nguyên sử 149 tờ 13a6-7. Truyện này không chỉ chép công trạng của Mang Cổ Đái, mà cònử ghi lại tên một số viên tướng khác như thái tử A Đài, mà ĐVSKTT đã nhắc tới ở trên. Truyện chép Mang Cổ Đái (Mangqudai) “theo chư vương A Đài (Atai) đánh Giao Chỉ, đến sông Bạch Hạc, đánh nhau với ngụy Chiêu Văn Vương của Giao Chỉ, cướp được 87 chiến thuyền”.
 
An Nam chí lược 4 tờ 54 cũng ghi lại trận này: “Hữu thừa Ái Lỗ cũng từ Vân Nam tiến quân đến Tam Đại Giang, đánh nhau với em vua là Trần Duật, bắt được tướng Hà Anh, Lê Thạch”. Tam Đại Giang nghĩa đen là ba sông lớn. Thế rõ ràng nó chỉ vùng ba sông Đà, Lô và Hồng gặp nhau ở tại Việt Trì. Chính tại Việt Trì này mà hơn 100 năm sau ĐVSKTT 8 tờ 53b2 -7 đã ghi việc “quân Minh chiếm bờ sông Mộc Hoàn ở Việt Trì” và “tập kích quân Hồ ở châu Mộc Hoàn”, trước khi tiến đánh thành Đa Bang. Vậy cứ điểm Mộc Ngột mà các sử liệu Trung Quốc nói tới, chắc chắn là cứ điểm Mộc Hoàn của ĐVSKTT. Tên Mộc Hoàn này đến cuối thế kỷ thứ 19 vẫn tồn tại, như Đồng Khánh địa dư chí đã ghi. Vậy Mộc Ngột cũng chính là Mộc Hoàn, vì chữ hoàn có dạng như chữ ngột.
 
Trận Mộc Hoàn đây cho thấy, trong đợt xâm lược lần này, Hốt Tất Liệt đã quan tâm đến cánh quân Vân Nam, tăng cường quân số cho nó lên tới 6 nghìn người, bố trí thêm một số tướng giỏi, và chắc chắn phải giao cho chúng một số nhiệm vụ. Sự quan tâm này phản ảnh nỗi lo lắng của Hốt Tất Liệt về việc thiếu vắng cánh quân phía Nam. Để bù đắp cho sự thiếu vắng này, cánh quân Vân Nam đã được tăng cường tiềm lực chiến đấu. Và tên tướng đầu sỏ Ái Lỗ đã hăng hái gánh vác nhiệm vụ của cánh quân phía Nam mà ngày trước Toa Đô đã cố sống cố chết thực hiện. Việc tiến đánh cứ điểm Mộc Hoàn trong cụm phòng ngự Phú Lương, mà ĐVSKTT nói đến, đã thể hiện một phần nào chủ trương chiến tranh của Hốt Tất Liệt.
 
Đối với cuộc chiến tranh đang nổ ra, chủ trương chiến lược của quân dân nhà Trần lần này khác với lần trước. Ngay từ những trận đánh đầu tiên này, khi vua Trtần Nhân Tông hỏi Trần Hưng Đạo, thì được trả lời “năm nay giặc dễ”, như ĐVSKTT 5 tờ 52a6-8 đã ghi. Quân đội nhà Trần ở các mặt trận khác nhau thực hiện các trận đánh rút lui vừa để tiêu hao sinh lực địch vừa để bảo toàn lực lượng ta, vừa chủ động nhữ địch đến những nơi ta muốn, để cuối cùng phản công và tiêu diệt chúng. Cho nên, trận Phú Lương, tuy ta có bị tiêu hao với việc hai tướng Lê Thạch và Hà Anh bị bắt cùng một số chiến thuyền bị cướp, nhưng danh tướng Trần Nhật Duật đã hoàn thành xuất sắc và trung thành chủ trương và nhiệm vụ được giao, rút về và bảo toàn lực lượng.
 
Thoát Hoan tiến quân

Trong khi Ái Lỗ rầm rộ tiến quân xuống cửa ải Phú Lương ở phía Tây Bắc, thì cánh quân ở phía Đông Bắc do Thoát Hoan và Áo Lỗ Xích chỉ huy đã từ đại bản doanh của mình ở Ngạc Châu kéo nhau xuất phát vào ngày mồng 3 tháng 9 năm Đinh Hợi (1287). Đến ngày 28 Ất Dậu tháng 10 chúng tới huyện Lai Tân của Quảng Tây. Tại đây, Thoát Hoan cho tách quân thủy bộ. Thoát Hoan cùng Áo Lỗ Xích và A Bát Xích đem quân bộ cùng bọn Việt gian Trần Ích Tắc nhắm hướng Tư Minh. Ngày Kỷ Hợi 13 tháng 11 Thoát Hoan và đồng bọn đến Tư Minh. Còn Ô Mã Nhi và Phàn Tiếp sau khi tách khỏi Thoát Hoan ở Lai Tân đã tiếp tục đi về Khâm Châu.
 
Tất cả những ghi nhận về ngày tháng vừa nêu chủ yếu lấy từ An Nam chí lược 4 tờ 55. Khi tham khảo thêm Lai A Bát Xích truyện và An Nam truyện của Nguyên sử 129 tờ 2a2-4 và 209 tờ 9a8, ta thấy hoàn toàn phù hợp. Phàn Tiếp truyện của Nguyên sử 166 tờ 10a10-11 cũng ghi tương tự: “Năm 24 (1287) lại đánh Giao Chỉ, tiến lên làm hành trung thư tỉnh tham tri chính sự. Bấy giờ ba đạo tiến quân. Hoàng tử Trấn Nam Vương cùng hữu thừa Trình Bằng Phi chia làm hai đạo. Một vào Vĩnh Bình, một vào ài Nữ Nhi. Tiếp cùng tham chính Ô Mã Nhi đem quân thủy vào biển”.Điều này chứng tỏ Lê Thực đã ghi nhật ký của cuộc tiến quân, mà bản thân hắn có tham gia. Và sau này khi bị thua trở về Trung Quốc, hắn đã dùng bản nhật ký ấy để một phần nào viết nên An Nam chí lược. Độ chính xác của tư liệu, do thế, tương đối cao trong liên hệ với các cuộc hành quân của giặc.
 
Các trận thủy chiến với địch

Thế là để xâm lược nước ta trong đợt này, tuy thiếu cánh quân phía Nam, Hốt Tất Liệt đã bổ sung bằng cách tăng cường cánh quân phía Tây Bắc do Ái Lỗ chỉ huy và tạo mới cánh quân thủy, giao cho hai tên phó của Áo Lỗ Xích là Ô Mã Nhi và Phàn Tiếp trực tiếp điều động. Theo An Nam chí lược 4 tờ 55 thì việc chia quân xảy ra ngày At Dậu 28 tháng 10 năm Đinh Hợi (1285), mà ngoài Ô Mã Nhi và Phàn Tiếp chỉ huy 18 ngàn quân còn có Ô Vị, Trương Ngọc và Lưu Khuê chỉ huy thêm mấy vạn quân và 500 chiến thuyền cùng 70 chiếc thuyền vận tải.
 
Ngày Mậu Tuất (đúng ra là ngày 12, LMT) 11 tháng 11, cánh quân thủy này đã tiến trước, vượt qua cửa biển Vạn Ninh, tức Móng Cái ngày nay và chúng bị tướng Nhân Đức Hầu Trần Lang phục kích ở Lạng Sơn, mà theo An Nam chí lược 4 tờ 55 của Lê Thực là có ý cắt đứt với hậu quân của địch. Địch biết, liền đêm đó cho vây núi, mờ sáng thì đánh nhau với ta. Theo chúng, số quân ta bị chết đuối lên đến vài trăm người và mất vài chục chiếc thuyền. Ô Mã Nhi thừa thắng tiến lên, không quan tâm đến thuyền chở lương đằng sau. Mất quân hộ tống, thuyền lương bị hãm.
 
An Nam truyện của Nguyên sử 209 tờ 9a11-12, kể lại trận đánh này như sau: “Ô Mã Nhi và Phàn Tiếp đem quân đi bằng đường biển qua cửa đôi núi Ngọc (nguyên bản có vương chắc là sai, LMT) rồi đến cửa An Bang, gặp thuyền của Giao Chỉ hơn 400 chiếc, đánh chúng, chém đầu hơn 4.000 cái, bắt sống hơn trăm tên, cướp thuyền trăm chiếc, bèn đuổi dài Giao Chỉ”. Phàn Tiếp truyện của Nguyên sử 166 tờ 19a11-13 cũng viết tương tự: “Tiếp cùng tham chính Ô Mã Nhi đem quân thủy vào biển, gặp thuyền giặc ở cửa An Bang, Tiếp đánh, chém đầu hơn 4 ngàn cái, bắt sống hơn trăm người, cướp được hơn trăm chiếc thuyền và vô số khí giới”. Văn bia của Lý Thiên Hựu do Tô Thiên Tước viết trong Từ khê văn cảo 18 cũng ghi tương tự: “Đến An Bang, gặp người Giao, chém đầu hơn 2 nghìn, bắt được thuyền hơn 60 chiếc”.Bản kỷ của Nguyên sử 14 tờ 11b1-2 chép trận này sớm lắm là vào ngày Tân Sửu của tháng 11 năm Đinh Hợi (1287), nghĩa là sau An Nam chí lược đến 4 ngày: “Ngày Tân Sửu Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp và bọn Trình Bằng Phi đến Giao Chỉ. Đến đâu cũng đều thắng cả”.
 
ĐVSKTT 5 tờ 52b1-3 viết về trận này: “Ngày 28 phán thủ thượng vị Nhân Đức Hầu Toàn đem quân thủy đánh ở vũng Đa Mỗ. Giặc chết đuối rất nhiều, bắt được 40 tên, thuyền, ngựa và khí giới đem dâng”. Thế rõ ràng trận thủy chiến Đa Mỗ do Nhân Đức Hầu Toàn chỉ huy cũng là trận Lãng Sơn của An Nam chí lược và trận cửa An Bang cũng chỉ là một mà thôi. Tuy nhiên, thời điểm xảy ra đã được ghi khác nhau. An Nam chí lược ghi ngày 11, Nguyên sử ghi ngày 15, còn ĐVSKTT thì ghi ngày 28. Những khác nhau này là do truyền tải tư liệu có sai sót, hoặc thông tin không chính xác. Điểm đáng chú ý hơn nữa là bên nào cũng cho mình thắng trong trận này cả.
 
Sau những trận đụng độ với cánh quân Tây Bắc do Ao Lỗ chỉ huy và cánh quân thủy do Ô Mã Nhi và Phàn Tiếp điều khiển, thì cánh quân Thoát Hoan từ Lai Tân đến Tư Minh. Thoát Hoan đã cử A Bát Xích nắm một nghìn quân đi tiên phong, như Lai A Bát Xích truyện của Nguyên sử 129 tờ 2a đã ghi nhận. Tại đây, vào ngày Kỷ Hợi 13 tháng 11 theo Bản kỷ của Nguyên sử 14 tờ 11a 12-13, Thoát Hoan đã chia đạo quân của mình thành 2 cánh. Một cánh do Trình Bằng Phi chỉ huy, và một do Ao Lỗ Xích điều khiển để tiến vào nước ta, và tăng cường đội quân của A Bát Xích lên một vạn người, giao A Bát Xích đi tiên phong.
 
Sự kiện này An Nam truyện của Nguyên sử 209 tờ 9a8-11 viết rõ hơn: “Tháng11, Trấn Nam Vương đến Tư Minh, để lại 2.500 quân, sai Vạn hộ Hạ Chỉ điều khiển để giữ xe lương, còn Trình Bằng Phi và Bột La Hợp Đáp Nhi (Bolqadar) đem khoảng một vạn quân Hán đi đường phía Tây qua ngã Vĩnh Bình, còn Áo Lỗ Xích thì đem một vạn quân theo Trấn Nam Vương do đường ải Nữ Nhi phía đông, để cùng tiến, và A Bát Xích đem một svạn quân đi làm tiên phong”. Ba ngày sau, tức ngày Tân Sửu, theo Bản kỷ của Nguyên sử 14 tờ 11b1, cánh quân Trình Bằng Phi đã có báo cáo chiến thắng, trong khi An Nam truyện của Nguyên sử 209 tờ 9a12-13 nói thêm: “Trình Bằng Phi và Bột La Hợp Đáp Nhi trải qua 3 cửa ải Lão Thử, Hãm Nê và Tư Trúc đánh nhau 17 trận, đều thắng”
 
Thoát Hoan tiến vào Đại Việt

Còn đại quân của Thoát Hoan, theo Bản kỷ của Nguyên sử 14 tờ 11b2-3, 5 ngày sau, vào ngày Bính Ngọ, tức ngày 20 tháng11, mới đến Giới Hà và bị quân ta chống cự. Đến ngày Canh Tuất 24 tháng 11, quân của Thoát Hoan đến Lộc Châu. Chính tại đây, theo An Nam chí lược 4 tờ 55, Thoát Hoan mới chia quân,“hữu thừa Trình Bằng (Phi), tham chính Bột La Đáp Nhi do ải Chi Lăng, còn đại quân thì do ải Khả Lỡ, hữu thừa A Bát Xích làm tiên phong cùng tiến”. ĐVSKTT 5 tờ 52a8-b1 có chép một trận đánh vào ngày 24 này: “Ngày 24, vua sai cấm quân giữ ải Lãnh Kinh. Hưng Đức Hầu Quán đem quân đón đánh, lấy tên độc bắn giặc, chết và bị thương rất nhiều. Giặc lui về đóng ở ải Vũ Cao”.
 
Vậy là khi tiến vào nước ta, Thoát Hoan đã chia quân theo đường tiến cũ của cuộc xâm lược trước, tức con đường phía Đông và con đường phía Tây. Cánh quân phía Tây qua các ải Lão Thử (Chi Lăng), Hãm Nê và Tư Trúc, tức đi trên con đường quốc lộ 1 ngày nay, để nhắm hướng Thăng Long. Còn cánh quân phía Đông từ Lộc Châu, tức Ô Bình ngày nay, qua các ải Khả Lỡ và Nữ Nhi để nhắm hướng Vạn Kiếp mà tiến xuống. Đây là con đường vòng qua huyện Sơn Động ngày nay. Và trận đầu tiên, mà chúng gặp là trận Lãnh Kinh do Hưng Đức Hầu Quán chỉ huy. Đây là trận mà Bản kỷ của Nguyên sử gọi là “Giao Chỉ đưa quân chống giữ “.
 
 
Trận Vạn Kiếp

Sau trận Lãnh Kinh, về phía sử ta cũng như Trung Quốc không thấy có ghi một trận nào đáng kể nữa. Ngay cả cánh quân phía tây có nói đến 17 trận đánh, nhưng cũng không thấy đâu ghi lại. Còn cánh quân phía Đông do Thoát Hoan và Áo Lỗ Xích chỉ huy thì cứ lặng lẽ mà tiến, dám chừng không gặp một trận đánh nhỏ nào cả. Chỉ thấy đến khi tới Vạn Kiếp, mà theo Bản kỷ của Nguyên sử 14 tờ 11b8 là vào ngày Giáp Dần của tháng 11 thì mới có một trận đánh xảy ra, và cũng là lúc quân Ô Mã Nhi đã tới gặp được quân của Thoát Hoan.
 
Lưu Uyên truyện của Nguyên sử 152 tờ 4b10-11 đã ghi thế này: “Năm (Chí Nguyên) 24, Uyên theo đi đánh Giao Chỉ. Trấn Nam Vương Thoát Hoan sai đem 2 vạn quân thủy bộ, đánh sông Vạn Kiếp, bắt được 16 người.Rồi tiếp đánh thành Linh Sơn, bọn giặc đón cự, thua lớn”. Còn Tích Đô Nhi truyện của Nguyên sử 133 tờ 9b6 chép việc Tích Đô Nhi được lệnh của A Bát Xích đánh chiếm thành Nhất Tự và bắt được 7 chiến thuyền.
 
Qua tháng 12, cụ thể là ngày mồng 3 Kỷ Mùi, theo An Nam chí lược 4 tờ 55 thì Thoát Hoan đã đến Tứ Thập Nguyên. Tại đây Thoát Hoan được tin thuyền lương của Trương Văn Hổ đã bị đánh chìm, “bèn sai Ô Mã Nhi đốc quân đi cướp lương hướng của An Nam, tả thừa A Lý, Lưu Giang dựng thành gỗ ở hai núi Phổ Lại và Chí Linh để chứa lương nuôi quân “. Nhưng sự việc này theo Bản kỷAn Nam truyện của Nguyên sử 14 tờ 12a1-2 và 209 tờ 9a13-b1 thì chép vào ngày Quý Dậu, tức ngày 15 tháng 12. Một mặt, nó viết: “Ngày Quý Dậu, Trấn Nam Vương đóng ở cảng Mao La, đánh trại Phù Sơn, phá được”. Mặt khác, An Nam truyện lại có: “Tháng 12, Trấn Nam Vương đóng ở cảng Mao La. Hưng Đạo Vương của Giao Chỉ trốn đi, nhân đó, bèn đánh trại Phù Sơn, phá được, lại sai Trình Bằng Phi và A Lý đem 2 vạn quân giữ Vạn Kiếp, vừa sửa sang rào gỗ ở núi Phổ Lại và Chí Linh”
 
Thế rõ ràng đại quân của Thoát Hoan đến Vạn Kiếp một cách khá dễ dàng. Chủ trương chiến lược của ta lần này là càng nhữ địch vào sâu nội địa, càng dễ dàng phản công và tiêu diệt chúng. Cho nên, ngay tại Vạn Kiếp, với một trận càn có quân số lên tới 2 vạn mà chỉ bắt được quân ta 16 người. Tuy nhiên, cũng rõ ràng không kém là khi tới Vạn Kiếp và có quân Trình Bằng Phi và Ô Mã Nhi cùng hội về, Thoát Hoan đã biết thuyền lương của Trương Văn Hổ không tới. Cũng trong thời gian này, ngày 16 tháng 12, vua Trần Nhân Tông đã sai minh tự Nguyễn Thức đem quân Thánh dực dũng nghĩa đến chỗ Hưng Đạo Vương để giữ cửa sông Đại Than, như ĐVSKTT 5 tờ 52b3-4 đã ghi.
 
Địch chiếm Thăng Long

Đến ngày Kỷ Mão 23 tháng 12, theo An Nam chí lược 4 tờ 55, Thoát Hoan cho quân tiến về Thăng Long với Ô Mã Nhi chỉ huy quân thủy và A Bát Xích điều khiển quân bộ. Khi Phàn Tiếp đem quân thủy đến Bắc Giang thì bị quân ta chặn lại. ĐVSKTT 5 tờ 52b3-4 chép việc tướng Nguyễn Thức ở Đại Than đã đánh với giặc thắng lớn: “Tháng 12 ngày 16 vua xuống chiếu minh tự Nguyễn Thức đem quân Thánh dực dũng nghĩa đến Hưng Đạo Vương giữ cửa Đại Than. Ngày 26 gặp giặc, đánh bại chúng”. Dù có thắng, quân ta vẫn chấp hành chủ trương rút lui. Thế là ngày At Dậu tức ngày 29 tết tháng chạp năm Đinh Hợi, theo Bản kỷ của Nguyên sử 14 tờ 12 a4, “Trấn Nam Vương đem các quân vượt sông Phú Lương, đóng dưới thành Giao Chỉ, đánh bại lính giữ thành. Nhật Huyên và con bỏ thành chạy xuống đồn Cảm Nam”.
 
Khi quân Thoát Hoan đã tiến đến được Thăng Long, bọn Việt gian như Lê Thực, Nguyễn Lĩnh, Lê Án.v.vỢ, mà Thoát Hoan đã để lại ở Tư Minh, tưởng có thể về Thăng long một cách an toàn cùng đoàn quân hộ vệ chúng gồm 5 ngàn tên do các tên Tỉnh đô sứ hầu Sư Đạt, Vạn hộ hầu không rõ tên và Thiên hộ Tiêu chỉ huy. Không ngờ vào ngày Giáp Thân 28 tết, khi mới vào cửa ải Nội Bàng, chúng đã bị quân ta đánh tan tác. Năm ngàn quân chỉ còn 60 tên cưỡi ngựa chạy thoát. Sau này khi viết An Nam chí lược 19 tờ 181 Lê Thực đã diễn tả lại tâm trạng mình lúc ấy như sau: “Chật vật hiểm nghèo, muôn phần chắc chết, ngày chạy mấy trăm dặm, từ nửa đêm tới tảng sáng thì đến châu, vọng bái cửa khuyết, mừng tết năm Mậu Tý”.
 
Địch truy đuổi quân ta

Giống như lần trước, khi tiến được vào Thăng Long, bọn Thoát Hoan bàn cách truy đuổi vua Trần Nhân Tông và quân ta. Tên tướng tiên phong A Bát Xích bàn thế này, như Lai A Bát Xích truyện của Nguyên sử 129 tờ 2a5- 7 đã ghi lại: “Giặc bỏ sào huyệt trốn vào núi, biển là có ý đợi chúng ta mệt mỏi, rồi thừa cơ đánh lại. Tướng sĩ ta phần nhiều là người phương Bắc. Lúc xuân hạ giao nhau, chướng khí tật bệnh hoành hành. Chưa bắt được giặc ta không thể giữ lâu được. Nay chia quân bình định các nơi, chiêu hàng những người quy phụ, ngăn cấm quân lính không được cướp bóc, mau bắt ngay Nhật Huyên. Đó là kế hay”
 
Để thực hiện kế hay này, Thoát Hoan lại sai A Bát Xích tiến công cứ điểm HàmTử vào ngày 29 Tết, tức ngày Kỷ Dậu năm Đinh Hợi, như An Nam chí lược 4 tờ 56 đã ghi: “Ngày 29 Kỷ Dậu (Trấn Nam) Vương vượt sông Lô về phía tây, còn A Bát Xích men theo bờ đông, phá ải Hàm Tử. Thế tử rút về giữ ải Hải Thị. Đại binh đánh phá được”. Mặt khác, Thoát Hoan cùng Ô Mã Nhi tiến công cứ điểm Cảm Nam, mà An Nam truyện của Nguyên sử 209 tờ 9b3, đã chép. Rồi từ đó, sau khi ta rút, theo An Nam chí lược 4 tờ 56 chúng lại tiến công cứ điểm Hải Thị. Hải Thị chắc chắn là chỉ cứ điểm A Lỗ, một nhánh của sông Hải Triều, cách đó 3 năm Trần Hưng Đạo đã lần đầu tiên đánh thắng quân đồn trú của Lưu Thế Anh. Sau trận đánh Cảm Nam vàHải Thị ấy, bọn chúng đuổi tới Thiên Trường và áp đến cửa biển Thiên Trường, nhưng không biết vua và quân ta đi đâu.
 
Chính trong khi đuổi theo quân Đại Việt trong những ngày đầu xuân của năm Mậu Tý, Ô Mã Nhi, dù đã nếm thất bại trong cuộc xâm lược lần trước, vẫn tưởng mình có thể khuất phục Đại Việt trong lần này. Hắn tuyên bố, nếu vua Trần Nhân Tông “lên trời, ta theo lên trời, chạy xuống đất, ta theo xuống đất, trốn lên núi ta theo lên núi, lặn xuống biển ta theo xuống biển”, như lá thư tháng tư năm Chí Nguyên 25 (1288) của vua Trần Nhân Tông do Từ Minh Thiện chép lại trong Thiên nam hành ký của Thuyết phu 51 tờ 19a1-3 ghi nhận. Tuy tức giận thề thốt, Ô Mã Nhi và ngay cả Thoát Hoan vẫn không biết vua Trần Nhân Tông và đại quân của Đại Việt rút đi đâu, như Bản kỷ và An Nam truyện của Nguyên sử 15 tờ 1a5 và 209 tờ 9b4 đã ghi.
 
Căm tức trước việc không đuổi kịp vua Trần Nhân Tông và đại quân của Đại Việt, bọn Thoát Hoan và Ô Mã Nhi quay trở lại càn quét vùng dân ở Thiên Trường, tức vùng Nam Định ngày nay. Tại vùng này, chính vua Trần Nhân Tông đã tố cáo tội ác của bọn chúng trong lá thư gửi cho Hốt Tất Liệt tháng tư năm Chí Nguyên 25 (1288), do Từ Minh Thiện chép trong Thiên nam hành ký của Thuyết phu 51 tờ 18b12-19a1: “Chúng đốt phá hết chùa chiền khắp nước, đào bới mồ mả tổ tiên, bắt giết người dân già trẻ, đập phá sản nghiệp của trăm họ. Các hành động tàn nhẫn phá phách, không gì là không làm”. Và chính Trương Lập Đạo, khi đi sứ qua nước ta vào năm 1291, đã ghi lại lúc trở về trong bản hành lục của y về lời tố cáo tương tự của vua Trần Nhân Tông trong một bữa tiệc khoản đãi hắn ở Thăng Long, như An Nam chí lược 3 tờ 46 đã ghi: “Năm ngoái đại quân đến đây, đốt phá nhà cửa, khai quật mồ mả tiên nhân, xương cốt ngổn ngang. Lời nói chưa dứt thì những người bề dưới đều khóc”.
 
Ngày mồng 4 Kỷ Sửu tháng giêng năm Mậu Tý (1288), sau khi không đuổi kịp vua Trần Nhân Tông và đại quân của Đại Việt, theo An Nam chí lược 4 tờ 56 Thoát Hoan đã dẫn quân trở về Thăng Long. Tại đây, hắn một mặt sai Áo Lỗ Xích và A Bát Xích dẫn quân đi kiếm lương thực. Mặt khác ra lệnh cho Ô Mã Nhi đem quân thủy đi đón thuyền lương của Trương Văn Hổ qua cửa biển Đại Bàng, như Bản kỷ và An Nam truyện của Nguyên sử 15 tờ 1a6-7 và 209 tờ 9b4-6 đã ghi. Đội thuyền vận tải lương của Trương Văn Hổ, sau trận đánh thủy chậm lắm vào ngày 28 tháng 11 tại vũng Đa Mỗ do tướng Nhân Đức hầu Trần Lang chỉ huy, đến ngày 30 tháng 11 đã bị quân của tướng Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư đánh tan tại Vân Đồn và sau đó tại Lục Thủy, tức cửa Lục của Hòn Gai ngày nay.
 
 
Chiến thắng Vân Đồn

Trận Vân Đồn, An Nam truyện của Nguyên sử 209 tờ 9b13-10a3 đã mô tả như sau: “Thuyền lương của Trương Văn Hổ vào tháng 12 năm ngoái (1287) tới đóng Đồn Sơn thì gặp 30 chiếc thuyền của Giao Chỉ. Văn Hổ đánh. Số giết và bắt được tương đương. Đến biển Lục Thủy, thuyền giặc càng đông, Văn Hổ liệu không thể địch nổi, mà thuyền lại nặng không thể đi được, bèn nhận chìm gạo xuống biển, rồi đi Quỳnh Châu.Thuyền lương của Phí Củng Thìn vào tháng 11 đóng ở Huệ Châu, gió không tiến lên được, trôi dạt đến Quỳnh Châu, cùng họp với Trương Văn Hổ. Thuyền lương của Từ Khánh cũng trôi dạt tới Chiêm Thành, cũng đến Quỳnh Châu. Phàm số lính tráng bị mất 220 người, thuyền 11 chiếc và lương một vạn bốn ngàn ba trăm thạch có lẻ”. Theo An Nam chí lược 4 tờ 56 thì Trương Văn Hổ sau khi thuyền lương bị hãm, đã cưỡi thuyền nhỏ chạy về Khâm Châu. Nhưng đây chắc là chép lầm.
 
ĐVSKTT 5 tờ 52b6-53a7 đã kể lại chiến thắng Vân Đồn: “Bấy giờ, quân thủy của nhà Nguyên đánh Vân Đồn. Hưng Đạo Vương đem hết công việc biên giới giao cho phó tướng của Vân Đồn là Nhân Huệ Vương Khánh Dư. Khánh Dư đánh thất lợi. Thượng hoàng nghe tin, sai trung sứ dến xiềng Khánh Dư đem về kinh. Khánh Dư bảo với trung sứ rằng: ‘Lấy quân luật mà xử, tôi đành chịu tội, nhưng xin hoãn cho vài ba ngày để tôi lập công chuộc tội, rồi sau về chịu búa rìu cũng chưa muộn’. Trung sứ nghe theo lời xin. Khánh Dư liệu biết quân giặc qua rồi, thì thuyền lương tất phải theo sau, bèn thu nhặt quân còn lại để đợi. Chốc lát sau, thuyền chở lương quả đến. Bèn đánh bại, bắt được quân lương khí giới của giặc không thể kể xiết, bắt được giặc cũng rất nhiều. Liền chạy thư về báo. Thượng hoàng nghe, tha hết tội trước, nói rằng: ‘Quân Nguyên chỉ nhờ lương, khí giới. Nay ta đã bắt được, sợ nó không biết còn có khi hung hăng’. Bèn thả số người bị bắt, tung đến doanh trại quân Nguyên báo cáo cho chúng nó đầy đủ”.
 
Chiến thắng Vân Đồn là một chiến thắng vang dội và quyết định. Phía địch cũng thừa nhận chiến thắng này là một tổn thất to lớn của chúng, đúng như ĐVSKTT 5 tờ 53a6-7 đã nhận định: “Năm nay trăm họ không bị thảm khốc như năm trước, Khánh Dư có dự công vào”. Và trước khi có chiến thắng Vân Đồn này, thủy quân Đại Việt đã liên tục chiến đấu từ ngày 12 tháng 11 năm Đinh Hợi cho đến hết tháng 12 năm đó, như ta đã thấy ở trên. Các tướng Nhân Đức Hầu Trần Toàn và Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư chắc chắn có lần đã thất bại trong gần 2 tháng liên tục chiến đấu ấy. Bản thân Trần Khánh Dư, như ĐVSKTT cho biết, suýt đã bị Thượng hoàng Trần Thánh Tông cho xiềng đưa về Thăng Long vì không hoàn thành nhiệm vụ. Nhưng vị tướng tài ba và kiên trì này đã thành công nhận chìm đoàn thuyền tải lương của Trương Văn Hổ chỉ trong vài ba ngày. Đây thể hiện rõ ràng quyết tâm đánh và thắng giặc của quân dân Đại Việt thời đó. Đồng thời nó cũng cho thấy bộ chỉ huy chiến tranh tối cao của Đại Việt đã bám sát tình hình chiến sự từ nhiều mặt trận khác nhau, để có những quyết sách đúng đắn vào những thời điểm cần thiết xung yếu.
 
Trận Đại Bàng

Thuyền lương của Trương Văn Hổ đã bị tướng Trần Khánh Dư tiêu diệt hoàn toàn như vậy và Thượng hoàng Trần Thánh Tông đã tung quân bắt được vào trại giặc để báo cho bọn chúng biết. Thế mà, Thoát Hoan vẫn ngoan cố không tin, hy vọng hão huyền vào đoàn thuyền lương ấy. Y sai ÔMã Nhi đi đón chúng qua cửa Đại Bàng. Đến cửa Đại Bàng, Ô Mã Nhi không thấy Trương Văn Hổ ở đâu, mà chỉ thấy quân ta chờ đợi ở đó. ĐVSKTT 5 tờ 51a1-3 chép: “Ngày mồng 8 (tháng giêng năm Mậu Tý, 1288) quan quân gặp giặc đánh ở ngoài biển Đại Bàng, bắt thuyền do thám của giặc 300 chiếc và 10 cái thủ cấp. Người Nguyên phần lớn chết đuối”. Cửa biển Đại Bàng theo Khâm định Việt sử thông giám cương mục 7 tờ 38a4-5 “là ở tại xã Đại Bàng huyện Nghi Dương tỉnh Hải Phòng ngày nay”. Vậy cửa Đại Bàng chính là cửa sông Văn Úc thuộc thành phố Hải Phòng hiện tại.
 
Sau trận Đại Bàng, Ô Mã Nhi đã dẫn quân đi ngược lên phía Bắc vùng Tháp Sơn, tức Đồ Sơn ngày nay. Một lần nữa, hắn lại gặp thủy quân ta với hơn một ngàn chiến thuyền đang chờ đợi hắn, như theo An Nam truyện của Nguyên sử 209 tờ 9b8-9 đã ghi: “Ô Mã Nhi do cửa Đại Bàng đến Tháp Sơn, gặp thuyền giặc hơn nghìn chiếc, đắnh phá được”. Theo văn bia của Lý Thiên Hựu do Tô Thiên Tước viết trong Từ khê văn cảo 18 thì trận Tháp Sơn này do vua Trần Nhân Tông chỉ huy: “Mùa xuân năm sau, quân đến biển Tháp Sơn, đánh bại Thế tử”. Có lẽ đây cũng là một trận đánh tiêu hao sinh lực địch.
 
Trận Tháp Sơn này, Tích Đô Nhi truyện của Nguyên sử 133 tờ 9b6-8 có nhắc đến chuyện Tích Đô Nhi có chiến đấu với quân của Hưng Đạo Vương: “Năm sau (1288) mùa xuân tháng giêng, đại quân đến bức chỗ ở của ngụy Hưng Đạo Vương, cùng đánh với người Giao ở Tháp Sơn, cướp mác quơ đánh. Cánh tay phải trúng tên độc, máu chảy cả bụm, lau máu đánh hăng, bắn chết hơn hai mươi người Giao, đồng thời thúc các quân thừa thắng tiến tiếp đại bại chúng”.
 
Như vậy, Tháp Sơn là một cứ điểm quân thủy quan trọng của Đại Việt, tập trung nhiều quân, thuyền và bộ chỉ huy tối cao, trong đó có mặt vua Trần Nhân Tông và Trần Hưng Đạo vào thời điểm đầu mùa xuân năm Mậu Tý (1288). Sau đó, Ô Mã Nhi và Tích Đô Nhi đều có dịp giao chiến và chắc chắn ít nhiều nếm mùi thất bại, nhất là Tích Đô Nhi trúng tên “máu chảy cả bụm”.
 
Thoát Hoan rút về Vạn Kiếp

Rồi từ Tháp Sơn, theo An Nam truyện của Nguyên sử 209 tờ 9b8-9, Ô Mã Nhi đến cửa An Bang, tức cửa Nam Triệu ngày nay, mà vẫn không gặp thuyền Trương Văn Hổ, thế là chúng kéo nhau trở về Vạn Kiếp. Trên đường về, chúng đi vào sông Bạch Đằng. Tại đây, nhiều căn cứ quân sự ta thiết lập, mà một trong đó là căn cứ Yên Hưng. ĐVSKTT 5 tờ 54a3 viết: “Ngày 19 tháng 2 năm (Mậu Tý, 1288) Ô Mã Nhi đánh vào trại Yên Hưng”. Đây chắc chắn là một trận tiêu hao sinh lực địch về phía ta. Còn phía Ô Mã Nhi thì đang trên đường rút về Vạn Kiếp, nên hắn không tha thiết truy đuổi, ngay khi có điều kiện. Và thực tế, đoàn quân thủy do hắn chỉ huy, dù muốn, cũng không thể có những trận đánh lớn được.
 
Riêng cánh quân của A Bát Xích và Ao Lỗ Xích khi được phân công “vào núi tìm lương thực”, thì nghe quân ta đóng ở Kẻ Trầm, Kẻ Lê, Ma Sơn và Ngụy Trại. Chúng đã ra quân tiến đánh mà theo An Nam truyện của Nguyên sử 209 tờ 9b5-6 thì chém được hơn cả vạn thủ cấp. Còn Tích Đô Nhi thì tiến ra Tháp Sơn rồi cùng theo A Bát Xích kéo về Thăng Long. Tại đây theo Bản kỷ của Nguyên sử 15 tờ 2a1-2 vào ngày Đinh Tỡ tháng 12 “Trấn Nam Vương dẫn quân trở về Vạn Kiếp”. Việc này An Nam truyện của Nguyên sử 209 tờ 9b6-8 chép vào tháng 3 và kể rõ thêm là “A Bát Xích đã đem quân tiên phong, cướp cửa ải, bắc cầu nổi, phá cửa Tam Giang, đánh hạ được 32 đồn, chém hơn mấy vạn thủ cấp, thu được thuyền 200 chiếc và gạo hơn 11 vạn 3 ngàn thạch”.
 
Thế là một cuộc rút quân về Vạn Kiếp đầy khó khăn gian khổ và nhiều mất mát thương vong của quân địch, một điều tương phản với cuộc tiến quân nhẹ nhàng ít trở ngại của mấy tháng trước đó về Thăng Long. Ô Mã Nhi từ cửa An Bang cũng kéo quân về Vạn Kiếp hội quân, như đã thấy. Tại đây, khi hàng rào gỗ đã được làm xong xung quanh núi Phả Lại và Chí Linh, Thoát Hoan ra lệnh cho các quân đồn trú cùng chứa hơn 4 vạn thạch lương, mà bọn Ô Mã Nhi và A Bát Xích đã đem về, như An Nam truyện của Nguyên sử 209 tờ 9b9-10 đã ghi. Trong khi đồn trú ở đây, An Nam chí lược 4 tờ 56 cho biết: “Tháng 2, Thế tử sai người anh họ là Hưng Ninh Vương Trần Tung nhiều lần đến ước hàng, để cố tình làm mệt quân ta, rồi ban đêm sai quân cảm tử đến cướp doanh trại. Trấn Nam Vương nổi giận, sai Vạn hộ Giải Chấn đốt thành, tả hữu can mãi mới ngưng”.
 
Lai A Bát Xích truyện của Nguyên sử 129 tờ 2a7-10 viết tương tự, nhưng không ghi rõ người đến ước hàng là ai: “Bấy giờ, Nhật Huyên nhiều lần sai sứ đến ước hàng, muốn lấy của cải, để hoãn quân ta. Các tướng đều tin lời nó, lại sửa thành để ở, mà đợi nó đến. Quá lâu, quân thiếu ăn, Nhật Huyên không hàng, giữ quân, đóng Trúc Động và cửa biển An Bang”.
 
Từ khi quân địch rút về Vạn Kiếp, bọn chúng đã ở trong một tâm trạng hoang mang khiếp sợ tột độ. Khoét sâu vào tâm lý hoang mang này của giặc, người anh hùng giải phóng Thăng Long lần trước là Tuệ Trung Trần Quốc Tung lãnh nhiệm vụ đi điều đình với giặc để làm cho chúng càng hoang mang thêm. Có lúc Thoát Hoan đã muốn đốt cả ngôi thành bảo vệ cho chính sự sống còn của chính y. Trong một tâm trạng hoang mang cùng cực như vậy mà một hội nghị quân sự chớp nhoáng của đám bại quân đã diễn ra.
 
Theo An Nam chí lược 4 tờ 56 thì thần nỏ tổng quản Giã Nhược Ngu dâng lời nói rằng: “Quân có thể về, không có thể giữ”. Lai A Bát Xích truyện của Nguyên sử ghi: “Gặp lúc tướng sĩ phần nhiều dịch bệnh, không thể tiến, mà các mọi lại phản, các cửa ải chiếm được đều thất thủ, bèn bàn rút quân”. Và chính bản thân Thoát Hoan cũng bảo: “Đất nóng, ẩm thấp, lương thiếu, quân mệt”. Cuối cùng, chúng đã đi đến quyết định rút quân, mà An Nam truyện của Nguyên sử 209 tờ 9b10-11 đã viết: “Các tướng nhân thế nói rằng Giao Chỉ không có thành trì có thể giữ được, kho lẫm có thể ăn được, thuyền lương của bọn Trương Văn Hổ không đến. Mà tiết trời đã nóng, sợ lương hết quân mệt, không lấy gì để kéo dài lâu, làm nhục triều đình. Nên bảo toàn quân để mà trở về. Trấn Nam Vương làm theo”.
 
 
Chiến thắng Bạch Đằng

Đã quyết định rút lui, nhưng rút lui bằng cách nào? Theo An Nam chí lược 4 tờ 56 thì cũng trong hội nghị ấy, bọn tướng tá quân thủy của giặc đều đồng thanh nói: “Thuyền lương hai lần vào đều bị hãm, không bằng bỏ thuyền theo đường bộ. Đó là kế sách hay nhất”. Thoát Hoan muốn nghe theo, nhưng đám tả hữu đều ngăn lại. Cho nên, cuối cùng, theo An Nam truyện của Nguyên sử 209 tờ 9b11-12 chúng chia quân làm hai cánh. Một cánh quân thủy do Ô Mã Nhi và Phàn Tiếp chỉ huy đi về trước cùng với Trình Bằng Phi và Tháp Xuất (Taču) đem quân bộ đi hộ tống. Bản kỷ của Nguyên sử 5 tờ 2b-4 ghi sự kiện ấửy vào ngày Nhâm Ngọ, tức 27 tháng 2 năm Mậu Tý.
 
Đám quân đi hộ tống này tự bản thân nó gặp quá nhiều khó khăn. An Nam chí lược 4 tờ 56 chép: “Ngày mồng 3 tháng 3, Đinh Hợi, hữu thừa Trình Bằng (Phi), thiêm tỉnh Đạt Mộc (đúng ra phải đọc là Truật, LMT) đem kỡ binh, đưa quân thủy, qua chợ Đông Hồ (Hồ đúng ra phải đọc là Triều, LMT) mắc sông bèn trở về, vì cầu cống đều bị quân kia cắt đứt, đợi ta mà đánh. Trình hữu thừa liền hỏi những hương lão đã bắt được, đang đêm dẫn chạy qua đường khác thì bắt kịp đại quân”. Thế rõ ràng nhiệm vụ hộ tống do Thoát Hoan giao cho Trình Bằng Phi và Tháp Xuất đã không được hoàn thành, vì cầu cống đã bị quân ta phá. Chúng cố gắng trở về gặp Thoát Hoan để rút lui bằng đường bộ với hy vọng số phận sẽ khá hơn.
 
Còn quân thủy do Ô Mã Nhi và Phàn Tiếp chỉ huy thì cứ chậm chạp tiến ra biển với những trận tập kích của quân ta, mà chúng phải đánh trả hằng ngày. Trương Ngọc truyện của Nguyên sử 166 tờ 9a3-4 đã mô tả:
 
“Năm 25 (1288) quân về. An Nam đem quân nghênh chiến, đánh lớn suốt ngày”. Đến ngày mồng 7 Tân Mão, An Nam chí lược 4 tờ 56 cho biết quân thủy của Ô Mã Nhi đã đến Trúc Động. Quân ta tiến đánh thì bị tướng địch Lưu Khuê đánh lui và bắt được của ta 20 chiến thuyền. Trúc Động là một căn cứ lớn của quân ta, nơi trước đó một tháng A Bát Xích và đặc biệt là Ô Mã Nhi đã từng chiến đấu, như Lai A Bát Xích truyện của Nguyên sử 129 tờ 2a9 và Cố thừa sự lang Tượng sơn huyện doãn Lý hầu mộ bi trong Từ khê văn cảo 18 đã ghi.
 
Có thể vì đã từng chiến đấu ở Trúc Động, nên dù Lưu Khuê đánh lui được quân ta lần này, Ô Mã Nhi vẫn không dám dẫn quân thủy của mình đi vào sông Bạch Đằng qua ngã sông Giá, nơi có căn cứ Trúc Động. Ô Mã Nhi đã chọn tiến xuống sông Bạch Đằng bằng con đường sông Đá Bạc. Sông Bạch Đằng là nơi ta có nhiều cứ điểm chiến đấu. Ngày 19 tháng 2 năm Mậu Tý (1288), ĐVSKTT 5 tờ 54a3 chép Ô Mã Nhi đã tấn công vào trại Yên Hưng trước khi trở về Vạn Kiếp. Trại Yên Hưng nằm ở tảử ngạn sông Bạch Đằng. Cho nên, đến ngày 8 tháng 3, cũng theo ĐVSKTT 5 tờ 54a4-b4, “quân Nguyên hội tại sông Bạch Đằng để đón thuyền lương của bọn Trương Văn Hổ nhưng mà không gặp. Hưng Đạo Vương đem quân đánh, giặc bị thua. Trước đó Vương đã trồng cọc ở sông Bạch Đằng phủ cỏ lên trên. Hôm ấy nhân lúc nước triều lên, Vương cho quân khiêu chiến, rối giả thua chạy về Bắc. Bọn giặc đuổi theo, quân ta cố sức đánh lại. Nước triều rút, thuyền giặc bị vướng cọc. Nguyễn Khoái đem quân Thánh dực dũng nghĩa cùng đánh với giặc, bắt được bình chương Áo Lỗ Xích. Hai vua đem quân tiếp đến, tung quân đánh lớn. Quân Nguyên chết đuối không thể kể xiết, nước sông vì thế đỏ ngầu. Rồi Văn Hổ đến phục binh hai bờ đổ ra đánh. Giặc lại thua. nước triều rút rất nhanh. Thuyền lương của Văn Hổ gác lên trên cọc, nghiêng đắm gần hết. Quân Nguyên chết đuôi rất đông, bắt được hơn 400 thuyền tuần tiễu. Nội minh tự Đỗ Hành bắt được Ô Mã Nhi và Tích Lệ Cơ Vương, dâng lên Thượng hoàng. Thượng hoàng sai dẫn lên thuyền ngự cùng ngồi và nói chuyện vui vẻ uống rượu”.
 
Đoạn mô tả về trận Bạch Đằng của ĐVSKTT cơ bản là chính xác, trừ một số tình tiết tỏ ra không đúng. Thí dụ Văn Hổ không có tham gia trận đánh này và việc Ao Lỗ Xích không bị bắt ở sông Bạch Đằng. Ngoài ra, có nhiều chi tiết khác, ĐVSKTT đã không ghi lại, mà sử liệu Trung Quốc đã chép. Chẳng hạn Trương Ngọc truyện của Nguyên sử 166 tờ 9a3-4 chép việc Trương Ngọc “năm Chí Nguyên 24 (1287) theo tham tri chính sự Ô Mã Nhi đánh Giao Chỉ, nhiều lần đánh có công. Năm 25 (1288) quân về, An Nam đem quân đón đánh. Đánh lớn suốt ngày. Nước cạn, thuyền không đi được, Ngọc chết”.
 
Còn về vai trò của Phàn Tiếp, An Nam chí lược 4 tờ 56, sau khi kể việc “Ô Mã Nhi không do đường biển trở về, mà do sông Bạch Đằng”, viết tiếp: “Khi gặp địch, Ô Mã Nhi tự mình dẫn quân lương đón đánh. Phàn tham chính chiếm lấy núi cao để tiếp ứng, nước triều rút nhanh, quân hãm”. Phàn Tiếp truyện của Nguyên sử 166 tờ 10b2-3 chép trận đánh càng rõ hơn nữa: “Tiếp cùng Ô Mã Nhi đem quân thủy trở về, bị giặc đón chận. Triều sông Bạch Đằng xuống. Thuyền Tiếp mắc cạn. Thuyền giặc dồn về nhiều, tên bắn như mưa. Tiếp hết sức đánh từ giờ mão đến giờ Dậu. Tiếp bị súng bắn, rớt xuống nước. Giặc móc lên bắt, dùng thuốc độc giết”.
 
Phàn Tiếp truyện, như vậy, ghi nhận trận đánh xảy ra từ giờ Mão đến giờ Dậu, tức từ sáng tới chiều thì chấm dứt. Thuyền của Đại Việt tập trung rất đông, “tên bắn như mưa”. Và việc Phàn Tiếp, khi bị thương nhảy xuống nước, quân ta đã dùng câu liêm móc lên, bắt được, rồi sau đó hơn 10 ngày mới giết đi, vì ngày 17 khi vua Trần Nhân Tông hiến tiệp ở Long Hưng, thì Phàn Tiếp còn có mặt cùng với đám Tích Lệ Cơ (Ơirôgi), Ô Mã Nhi, Đường Ngột Đãi, Sầm Đoạn, Mai Thế Anh, Điền nguyên soái.v.v..
 
Bãi cọc đã treo thuyền cả đám tướng tá giặc vào ngày mồng 8 tháng 3 năm Mậu Tý (1288) ấy, ngày nay chưa xác định được rõ ràng. Tuy nhiên, ta biết việc đóng cọc trên sông Bạch Đằng phải xảy ra trong thời gian chưa đầy 3 tuần kể từ khi Ô Mã Nhi tấn công trại Yên Hưng vào ngày 19 tháng 2 và đến ngày mồng 8 tháng 3 quân Ô Mã Nhi đã có mặt ở sông Bạch Đằng. Trong tình hình chiến tranh thời bấy giờ, việc đưa một đoàn thủy quân địch vào đúng ổ phục kích do ta thiết kế quả là một thành công rực rỡ của khoa học và nghệ thuật chỉ đạo quân sự của bộ chỉ huy tối cao của đất nước lúc ấy, mà đứng đầu là vua Trần Nhân Tông.
 
Sự có mặt của vua Trần Nhân Tông cùng Thượng hoàng cũng như Trần Hưng Đạo và Nguyễn Khoái chứng tỏ trận đánh này trên hết nếu không do chính vua Trần Nhân Tông chỉ đạo và vạch kế hoạch, thì cũng phải do chính nhà vua phê chuẩn và đồng ý thực hiện. Thực tế, chỉ việc vua Trần Nhân Tông hiện diện tại mặt trận này biểu thị một quyết tâm cao của người lãnh đạo đất nước phải thực hiện cho được chủ trương và kế hoạch đã đề ra, coi đây là một nhiệm vụ xung yếu phải hoàn thành để đạt mục đích của cuộc chiến tranh. Sự kiện tiêu diệt toàn bộ đội thủy quân do Ô Mã Nhi chỉ huy ngày nay thường được nhiều người nghiên cứu gắn vào cho tên tuổi Trần Hưng Đạo, mà quên đi sự hiện diện của vua Trần Nhân Tông tại trận đánh quyết chiến tiêu diệt này. Trong mọi cuộc chiến tranh, lãnh đạo chính trị bao giờ cũng là thống soái. Chỉ có sự lãnh đạo chính trị mới tập hợp hết được mọi lực lượng của dân tộc cho cuộc chiến tranh. Không có cuộc tập hợp này thì dù có tướng tài tới bao nhiêu, dù có kế hoạch tác chiến tốt tới đâu, và dù nhân dân yêu nước và quyết tâm chiến đấu cao tới mức nào đi nữa, thì cuộc chiến tranh vẫn thất bại.
 
 
Thoát Hoan tháo chạy

Trước một ngày khi đoàn thủy quân của Ô Mã Nhi bị tiêu diệt toàn bộ trên sông Bạch Đằng, tức ngày Tân Mão mồng 7 tháng 3, theo Bản kỷ của Nguyên sử 15 tờ 2b13, Thoát Hoan đã đem đại quân rút về nước. A Bát Xích lần này lại cũng được chọn làm tướng tiên phong đi mở đường, như truyện của y trong Nguyên sử 129 tờ 2a10-11 đã ghi: “(A Bát Xích) chọn các quân bộ kỡ, sai đi trước mở đường, vừa đánh vừa đi, ngày mấy chục hiệp. Giặc chiếm các điểm cao hiểm trở, bắn tên độc xuống. Tướng sĩ cột vết thương để đánh. Các quân hộ vệ Hoàng tử ra khỏi nước giặc”.
 
Thế A Bát Xích mở con đường nào? An Nam truyện của Nguyên sử 209 tờ 10a3-6 trả lời: “Trấn Nam Vương đóng ảI Nội Bàng. Quân giặc dồn về nhiều. Vương đánh phá được, sai vạn hộ Trương Quân đem quân tinh nhuệ ba ngàn người chặn hậu, hết sức đánh, mới ra khỏi ải. Điệp báo Nhật Huyên và bọn Thế tử cùng Hưng Đạo Vương chia quân hơn ba nươi vạn giữ ải Nữ Nhi và núi Khâu Cấp, liền hơn trăm dặm, để chặn quân rút về. Trấn Nam Vương bèn do huyện Đơn Kỷ đến Lộc Châu, đi tắt để về đóng châu Tư Minh”.
 
Đây là con đường phía Đông từ Sơn Động đi lên Lộc Bình của Lạng Sơn ngày nay. Còn Tích Đô Nhi thì được cử đi theo con đường phía Tây, tức quốc lộ một hiện tại từ Chi Lăng lên Vĩnh Bình. Tích Đô Nhi truyện trong Nguyên sử 133 tờ 9b10-13 chép: “Trấn Nam Vương dẫn quân về, Tích Đô Nhi làm tiền quaân, đi đến cửa quan Hãm Nê, đánh vài chục hiệp, người Giao rút lui, bèn trở về đón Trấn Nam Vương ở cửa Nữ Nhi. Người Giao hơn bốn vạn chặn đường chính. Bấy giờ, quân ta thiếu ăn, vừa mệt đánh trận. Tướng tá nhìn nhau thất sắc. Tích Đô Nhi đem dũng sĩ hăng hái cầm giáo mác xông đánh. Người Giao rút lui hơn hai mươi dặm, bèn được toàn quân, mà trở về”.
 
Vậy chỉ 2 ngày sau khi xuất phát, tức ngày Giáp Ngọ mồng 10 tháng 3 khi Thoát Hoan đến cửa Nội Bàng thì bị quân ta tập trung đánh lớn, mà như Bản kỷ của Nguyên sử 15 tờ 3a-4 cho là để chặn đường về của quân Thoát Hoan. Thoát Hoan bèn đi đường huyện Đơn Kỷ, tắt qua Lộc Châu, để ra khỏi nước ta, như An Nam truyện của Nguyên sử 209 tờ 10a3-6 đãviết. An Nam chí lược 4 tờ 56 còn cung cấp cho ta thêm một số chi tiết. Theo đó, khi Thoát Hoan rút khỏi Vạn Kiếp để về cửa Nội Bàng, thì lọt ngay vào một ổ phục kích của ta. Vạn hộ Đáp Lạt Xích (Darači) và Lưu Thế Anh cố sức đánh, bắt được 2 tướng ta là Phạm Trù và Nguyễn Kỡ. Chúng liền chém cho hả giận.
 
Trận đánh này chắc là trận xóm Hàn, mà Tích Đô Nhi truyện của Nguyên sử 133b8-10 nói tới: “Tháng tư đánh ở đồn xóm Hàn, bắt được tướng nó là Hoàng Trạch. Trống canh hai đêm đó, người Giao đột xuất đến, có ý cướp doanh trại. Quan quân giữ vững lũy để đợi địch mất kế. Đến sáng đánh trống ra khỏi doanh. Người Giao rút lui. Ta đuổi theo, giết rất nhiều, rồi trở về doanh trại, dựng rào gỗ, tăng cường lính tuần. Người Giao không dám đánh nữa”.
 
Khi đến Nội Bàng, nghe tin quân ta đào hầm để bẫy ngựa nhằm giữ ải Nữ Nhi, Thoát Hoan đã sai châu mục Tư Minh là Hoàng Kiên đem y bằng đường khác đi tắt đến Lộc Châu, để bảo toàn quân mà trở về.
 
Qua những ghi chép này của tư liệu Trung Quốc, ta thấy cuộc rút quân của Thoát Hoan quả thật là một cuộc tháo chạy hết sức gian khổ, tìm mọi cách để tránh các cuộc đụng độ với quân ta. Ấn tượng này càng trở nên mạnh mẽ hơn nữa, khi ta đọc chính ngay truyện của những tên tướng đã tham gia cuộc chiến này trong Nguyên sử. Thí dụ nếu ta đọc truyện Lai A Bát Xích của Nguyên sử 129 tờ 2a10-12 dẫn trên, ta thấy quân ta liên tục tấn công quân địch, từ trên núi cao bắn tên độc xuống, bọn địch trúng thương, chúng đã phải “buộc vết thương lại mà đánh”. Tấm gương điển hình là chính A Bát Xích. Hắn bị 3 mũi tên độc bắn vào đầu, cổ và đùi, mà vẫn cố gắng chỉ huy. Khi vết thương sưng lên, A Bát Xích đã đền mạng.
 
Còn ta đọc truyện của Tích Đô Nhi ở Nguyên sử 133 tờ 9b10-13 thì thấy lúc đó quân Nguyên “đã thiếu ăn, lại mệt vì chiến đấu. tướng tá nhìn nhau thất sắc”. Nhưng vì bị quân ta đuổi quá rát, bọn chúng phải “cố xông lên mà đánh” nhằm thoát khỏi sự vây bọc và tiêu diệt của quân ta. Hình ảnh những tên tướng tá và binh sĩ mỏi mệt thiếu ăn, cố gắng bằng mọi cách chạy về bên kia biên giới, thật là tương phản với sự hung hăng, tàn ác, khi chúng mới chiếm được nước ta.
 
Trong trận tháo chạy này, đám quân Vân Nam do Ái Lỗ chỉ huy dường như cũng sát nhập vớửi đạo quân của Thoát Hoan chạy về Tư Minh. Lý do nằm ở chỗ khi về tới Tư Minh vào ngày Kỷ Hợi 15 tháng 3 năm Mậu Tý (1288), Thoát Hoan đã sai Ái Lỗ dẫn quân mình trở về Vân Nam, còn Ao Lỗ Xích thì đem đại quân về Bắc, như Bản kỷAn Nam truyện của Nguyên sử 15 tờ 3a8 và 209 tờ 10a6 đã ghi.
 
Về phía sử ta, ĐVSKTT 5 tờ 54b4-5 chép: “Thoát Hoan và A Thai đem quân trốn về Tư Minh, thổ quan Hoàng Nghệ bắt được đem dâng”. Rõ ràng Thoát Hoan không thể bị quân ta bắt trong lần tháo chạy này, vì sau đó tại Trung Quốc, tên tuổi Thoát Hoan vẫn còn được ghi chép trong các sử liệu Trung Quốc, như vừa thấy. Còn A Thai, có khả năng đã bị quân ta bắt vì sau đó không thấy tên tuổi của viên thân vương này xuất hiện ở đâu nữa.
 
Khải hoàn về Thăng Long

Quân địch một lần nữa bị quét sạch ra khỏi bờ cõi. Nỗi kinh hoàng của chúng mấy năm sau tên phó sứ Trần Phu vẫn còn cảm thấy trong bài thơ Sứ hoàn cảm sử của Trần Cương Trung thi tập, đặc biệt là hai câu:
 
Kim khoa ảnh lý đan tâm khổ
Đồng cổ thanh trung bạch phát sinh
 
(Giáo sắt sáng ngời lòng thắm khổ
Trống đồng vang dội bạc đầu phơ)
 
Ngày 17 tháng 3 năm Mậu Tý (1288), vua Trần Nhân Tông và Thượng hoàng đã về phủ Long Hưng, đem theo bọn tướng tá giặc đã bắt được như Tích Lệ Cơ, Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp, Đường Ngột Đãi, Mai Thế Anh, Sầm Đoạn, A Thai, Điền nguyên soái v.v.. để hiến tiệp trước bàn thờ của vua Trần Thái Tông, người anh hùng của cuộc chiến tranh vệ quốc năm 1258. Đứng trước tòa lăng của người ông anh hùng, mà quân giặc đã đào bới, đến nỗi mấy con ngựa đá phải lấm bùn, vị Hoàng đế anh hùng, nhà quân sự thiên tài Trần Nhân Tông không ngăn nổi xúc cảm đã thốt lên hai câu thơ, mãi mãi thể hiện tấm lòng nhân hậu ngay cả với vật vô tri như ngựa đá của một con người vừa ra khỏi khói lửa của chiến tranh, cũng niềm tin mãnh liệt vào sự trường tồn vĩnh viễn của dân tộc:
 
Xã tắc đôi phen chồn ngựa đá
Non sông nghìn thuở vững âu vàng
 
Ngày 27 tháng 3 năm Mậu Tý (1288), vua Trần Nhân Tông cùng Thượng hoàng đã trở về kinh đô Thăng Long trong tiếng hoan hô reo mừng vang dậy của một thủ đô vừa chiến thắng kẻ thù. Sự nghiệp xây dựng hòa bình đang chờ đợi sự chỉ đạo của vị vua anh hùng này.
 
 
Khi quân và dân ta đang tưng bừng ăn mừng chiến thắng ở thủ đô Thăng Long, thì tại Đại Đô, Hốt Tất Liệt đang thi hành những biện pháp trừng phạt đối với đám bại tướng của đạo quân xâm lược đã tháo chạy và sống sót trở về. Hắn đày Thoát Hoan ra Dương Châu và cấm suốt đời không được gặp mặt hắn, còn Áo Lỗ Xích bị đuổi ra Giang Tây, như Nguyên sử 117 tờ 5a1-2 và 131 tờ 7a9 đã ghi nhận. Về phía ta, vua Trần Nhân Tông đang chuẩn bị một mặt trận ngoại giao để đối phó với ý đồ xâm lược của triều đìnhử Nguyên, đồng thời tiến hành thực hiện một số biện pháp để xây dựng lại đất nước, sau khi đã bị chiến tranh tàn phá nhằm củng cố tiềm lực quốc gia cho mọi biến động có thể xảy ra.
 
Biện pháp thứ nhất là công bố đại xá cho cả nước và tha tô thuế tạp dịch cho những vùng đã trải qua chiến tranh, còn miễn và giảm cho các vùng khác như ĐVSKTT 5 tờ 55a1-3 viết: “Tháng tư mùa hạ (năm Mậu Tý, 1288) Thượng hoàng ngự ở hành lang thị vệ (vì cung điện thời bấy giờ bị giặc đốt hết) đại xá thiên hạ. Phàm những nơi nào từng bị binh lửa cướp phá thì miễn tô thuế và tạp dịch toàn phần, còn chỗ khác thì tha hoặc miễn theo thứ bậc khác nhau”. Rõ ràng đất nước đã kinh qua chiến tranh và bây giờ phải tập trung mọi nỗ lực để xây dựng lại những gì đã bị quân thù đốt phá. Miễn giảm tô thuế và tạp dịch là nhằm mục đích đó. Và biện pháp này thực hiện mấy ngày sau khi vua Trần Nhân Tông và Thượng hoàng trở về kinh đô Thăng Long hôm 27 tháng 3 năm Mậu Tý (1288).
 
Cũng vào đợt tuyên đọc lệnh đại xá của vua Trần Nhân Tông này, ĐVSKTT 5 tờ 55a3 -b5 đã dành một đoạn văn dài để ghi lại một sự cố trong việc đọc chiếu chỉ ấy. Qua sự cố đo,ữ ta được biết thêm nhiều chuyện liên quan đến lịch sử, văn hóa và xã hội của đất nước. Sự cố đó như sau: “Vua bảo ty hành khiển giao hảo với viện hàn lâm. Theo lệ cũ, hễ đọc lời vua nói thì viện hàn lâm đưa trước bản thảo tờ chiếu cho ty hành khiển bảo tập đọc trước. Đến khi tuyên đọc thì gồm giảng cả âm lẫn nghĩa khiến cho dân thường dễ hiểu, vì chức hành khiển chỉ dùng hoạn quan thôi. Bấy giờ Lê Tòng Giáo làm tả phụ, cùng hàn lâm phụng chỉ Đinh Cũng Viên vốn không thích nhau. Ngày đọc lời vua đã tới gần, mà Cũng Viên cố ý không đưa bản thảo. Tòng Giáo nhiều lần đến đòi rốt cuộc cũng không được. Hôm ấy xe vua sắp ra ngoài cung, Cũng Viên mới đưa bản thảo. Tòng Giáo tuyên đọc lệnh đại xá, không hiểu âm nghĩa, bèn đứng im, vua gọi Cũng Viên đứng đằng sau nhắc bảo âm nghĩa. Tòng Giáo có ý thẹn. Cũng Viên nhắc bảo tiếng càng to, mà tiếng Tòng Giáo thì lại nhỏ dần. Trong triều chỉ nghe tiếng Cũng Viên. Khi vua trở về nội điện, cho gọi Tòng Giáo vào: ‘Cũng Viên là người văn học, còn ngươi là một trung quan, sao không thích nhau đến nỗi như thế. Ngươi làm lưu thủ Thiên Trường, tôm đất quýt vàng đem tặng qua lại cho nhau, thì có hại gì đâu’. Từ đó Tòng Giáo và Cũng Viên giao hảo với nhau càng thêm thân mật”.
 
Qua sự cố nhắc bài giữa triều đình này, ta biết vào thời Trần và chắc chắn là trước năm 1288 đã có lệnh là phải đọc chiếu chỉ của vua bằng cả hai thứ tiếng, tiếng Hán và tiếng Việt. ĐVSKTT chỉ ghi sự kiện đọc chiếu chỉ của vua bằng hai thứ tiếng đây là một việc cũ (cố sự). Điều này có nghĩa việc đọc bằng hai thứ tiếng này có từ lâu, nhưng lâu từ lúc nào, ĐVSKTT không cho ta biết. Có thể có từ thời Lý chăng? Thậm chí có thể có từ thời Đinh, Lê chăng? Đây là một có thể. Bởi vì các vua Đinh Lê như chính ĐVSKTT ghi lại, không phải là những người có học nhiều. Các vua thời Lý khá hơn, học hành đầy đủ hơn. Song đọc chiếu chỉ của vua thì đâu phải chỉ để cho vua nghe, mà chủ yếu là cho quần thần và dân dã. Và số quần thần và dân chúng Đại Việt vào các triều đại ấy và ngay cả các triều đại về sau này phần lớn đều không biết chữ Hán, hoặc có biết chăng, thì họ cũng chỉ biết lõm bõm đủ cho việc ký giấy tờ.
 
Do thế, ta có thể mạnh dạn đề xuất ý kiến cho rằng trong lịch sử dân tộc, tiếng Việt từ lâu vẫn là một ngôn ngữ hành chính ở một mức độ nào đó, dẫu rằng số tài liệu của các mệnh lệnh hành chánh này đã bị thất lạc hầu như gần hết, chỉ trừ một số rất ít các văn kiện như văn tế Nguyễn Biểu của Trần Trùng Quang, hay lời hội thề Lam Sơn của Lê Lợi, hay hịch đánh quân Thanh của vua Quang Trung và một số văn kiện lẻ tẻ khác. Nói cách khác, tiếng Việt có một vị trí nào đó trong đời sống chính trị Việt Nam như một ngôn ngữ chính thức của triều đình, chứ không phải chúng không bao giờ được dùng tới. Chỉ có vấn đề là khó và dễ học, mà sau này thiền sư Pháp Tính (1470-1550?) đã đặt ra trong Chỉ nam ngọc âm giải nghĩa. Thiền sư Pháp Tính đã nói tới tình trạng chữ viết tiếng Việt ta thời ông và trước đó, tức từ nửa đầu thế kỷ thứ 15 trở về trước, phần lớn gồm những chữ “nôm xe chữ kép”:
 
Xưa đặt nôm xe chữ kép
Người thiểu học khôn biết khôn xem
 
Cho nên Pháp Tính mới chủ trương, phải thiết định lại một thứ chữ viết quốc âm dễ viết dễ đọc, để cho ai học cũng có thể dễ dàng tiếp thu:
 
Bây giờ nôm dạy chữ đơn
Cho người ít học nghĩ xem nghĩ nhuần
 
Tiếng Việt vào thời Trần Nhân Tông như thế đã có một vị trí nhà nước của nó. Ngay lệnh đại xá của vua Trần Nhân Tông cũng phải được đọc thêm bằng tiếng Việt đã chứng thực sự kiện ấy. Bản thân vua Trần Nhân Tông cũng đã viết văn bằng tiếng Việt, mà ngày nay ta hiện còn có được nguyên vẹn văn bản. Đó là Cư trần lạc đạo phú Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca. Đây là hai tác phẩm tiếng Việt xưa nhất hiện còn của lịch sử văn học nước ta, nếu không kể bài Giáo trò của Từ Đạo Hạnh và xưa hơn là bài Việt ca chép trong Thuyết uyển.
 
Ý nghĩa xã hội của việc dùng tiếng Việt để đọc các chiếu chỉ của vua này là rất lớn. Nó xác nhận cho ta một sự thật lịch sử là vua với dân muốn nói chuyện với nhau một cách bình đẳng thân tình như những người cùng một dòng giống, cùng một gia đình. ĐVSKTT 5 tờ 61a4 -8 ghi một sự kiện dưới mục tháng 3 năm Nhâm Thìn (1292) về việc “vua thường đi chơi ở bên ngoài, giữa đường gặp gia đồng của các vương hầu, tất gọi rõ tên mà hỏi: ‘chủ mày ở đâu’, đồng thời răn các vệ sĩ không được phép đuổi. Đến khi về cung, vua gọi tả hữu nói: ‘ngày thường thì có thị vệ ở hai bên, đến khi quốc gia nhiều nạn thì chỉ bọn ấy có mặt thôi’. Ấy bởi vua cảm kích trước sự hộ tùng lúc vua ở trong gió bụi mà nói thế”. Sự thân thiết này chính là sức mạnh đoàn kết toàn dân, làm tiền đề cho những chiến công oanh liệt trong hai cuộc chiến tranh vệ quốc, mà chính vua Trần Nhân Tông đã lãnh đạo.
 
 
Tiến hành thưởng phạt

Một năm sau khi lệnh đại xá được ban hành để ổn định tình hình chính trị của cả nước, và việc tha miễn tô thuế ở các vùng bị chiến tranh tàn phá đã thực hiện nhằm phục hồi lại nền kinh tế, thì tháng 4 năm Kỷ Sửu, vua Trần Nhân Tông mới cho bàn xét công trạng của những người đã tham gia chiến tranh. ĐVSKTT 5 tờ 56b7 -57a8 đã chép lại đợt thưởng công này như sau: “Tháng 4 mùa hạ bàn định công dẹp giặc Nguyên, tiến phong Hưng Đạo Vương làm đại vương, Hưng Vũ Vương làm khai quốc công, Hưng Nhượng Vương làm tiết đồ sứ. Ai có công to được ban quốc tính. Khắc Chung được dự vào đồng thời cho làm đại hành khiển. Đỗ Hành chỉ được phong quan nội hầu, vì khi bắt được Ô Mã Nhi mà không dâng cho nhà vua, lại dâng cho Thượng hoàng. Hưng Trí Vương không được thăng trật, vì đã có chiếu cho người Nguyên về nước, các tướng không được cản trở, mà Vương còn đón đánh. Cho Man trưởng Lạng Giang là Lương Uất làm trại chủ Qui Hóa, Hà Tất Năng làm quan phục hầu vì có đem quân người Man ra đánh bại giặc, việc thưởng tước xong, còn có người chưa bằng lòng. Thượng hoàng bèn bảo: ‘Các khanh quả biết giặc Hồ không lại vào cướp nữa, thì hãy nói rõ cho trẫm biết. Dù có thăng đến cực phẩm, trẫm cũng không tiếc gì. Nếu không vậy mà đã vội thưởng hậu hết thì vạn nhất giặc Hồ lại đến và các khanh lại có công thì trẫm sẽ lấy gì mà thưởng, để khuyến khích thiên hạ’. Mọi người đều vui phục”.
 
Việc thưởng công cho những người có thành tích trong cuộc chiến tranh vệ quốc năm 1288 đã diễn ra như thế khá sôi nổi. Có những người nghĩ mình có khả năng được thưởng công cao, nhưng sau đó thất vọng, vì như Thượng hoàng Trần Thánh Tông đã nói: nếu thưởng hết, vạn nhất có giặc Nguyên đến lại thì lấy gì để mà thưởng. Điểm đáng chú ý là trong đợt phong thưởng này, Đỗ Hành, người đã bắt được Ô Mã Nhi tại trận thủy chiến Bạch Đằng, đã không được tước cao, vì đã không đem Ô Mã Nhi dâng lên cho vua Trần Nhân Tông, mà lại đem dâng cho Thượng hoàng Trần Thánh Tông. Đây là điểm đáng chú ý, vì sự kiện ấy muốn xác định cho ta biết ai là người lãnh đạo tối cao của đất nuớc Đại Việt lúc bấy giờ và ai là người ra quyết định tối hậu trong công tác điều hành chiến tranh. Người ấy không phải ai khác hơn chính là vua Trần Nhân Tông. Cũng qua đợt phong thưởng này ta biết thêm một chi tiết nữa. Đó là việc vua Trần Nhân Tông đã bám sát chiến trường tại các mặt trận khác nhau. Sự kiện Hưng Trí Vương Nghiễn không được thăng trật do hăng say đón đánh bọn giặc Nguyên trên đường tháo chạy về nước sau khi đã có lệnh của vua Trần Nhân Tông không được cản trở chúng, là một thí dụ điển hình. Công tác chỉ đạo chiến tranh như thế chủ yếu là do vua Trần Nhân Tông thực hiện, có sự tham gia cố vấn của Thượng hoàng Trần Thánh Tông và do Quốc công tiết chế Trần Hưng Đạo trực tiếp thực hiện. Cần làm rõ điều này để mọi người cùng thấy và nhận thức đúng đắn vai trò của vua Trần Nhân Tông trong hai cuộc chiến tranh vệ quốc oanh liệt năm 1285 và 1288, mà cho đến ngày nay nhiều người còn mơ hồ, thậm chí có những đánh giá lệch lạc, chớ khoan nói chi tới những thời gian trước đây, khi
 
Văn minh Đông Á trời thu sạch
Này lúc cương thường đảo ngược ru.
 
Sự đánh giá lệch lạc này có thể thấy rõ ràng qua các đường phố mang tên Trần Nhân Tông tại các thành thị khác nhau ở nước ta hiện nay. Cũng sau đợt thưởng công ấy, đến tháng 5, vua Trần Nhân Tông còn thực hiện một cuộc thưởng công bổ sung với việc “gia phong Nguyễn Khoái làm liệt hầu, cho một quận làm ấp thang mộc gọi là Khoái Lộ” và cho chép tên tuổi tiểu sử “những người có công lớn lên trước phá giặc” vào sách Trung hưng thực lục cùng vẽ chân dung họ trong tập sách ấy.
 
Song song với việc thưởng công là việc “trị tội những người đầu hàng giặc, chỉ quân dân được miễn tội chết, vận chuyển gỗ đá xây dựng cung điện để chuộc tội, quan viên phạm tội thì tùy nặng nhẹ mà xử trị”, như ĐVSKTT 5 tờ 57a8-b1 đã ghi. Đặc biệt trong đợt trị tội những kẻ đầu hàng này, vua Trần Nhân Tông đã quan tâm đến hai hương Ba Điểm và Bàng Hà, vì “ngày 30 (tháng 12 năm Đinh Hợi, 2-2-1288) Thái tử nhà Nguyên A Thai cùng Ô Mã Nhi hội 30 vạn quân đánh vào Vạn Kiếp, rồi thuận dòng xuôi xuống phía đông, người Ba Điểm và Bàng Hà đều đầu hàng”, như ĐVSKTT 5 tờ 52b5-6 đã ghi. Và cách xử trí theo ĐVSKTT 5tờ 57b7-9 là “xử tội đồ quân dân hai hương Ba Điểm và Bàng Hà làm binh thang mộc, không được làm quan, ban cho các tể thần làm hoành nô sai sử”.
 
Điểm đặc biệt trong đợt xử trị này là việc Thượng hoàng Trần Thánh Tông ra lệnh đốt tất cả giấy tờ của những người xin đầu hàng giặc, mà quân ta đã bắt được. ĐVSKTT 5 tờ 57b9-58a6 đã mô tả lại sự kiện này như sau: “Trước kia khi người Nguyên vào cướp, vương hầu quan liêu phần nhiều đến dinh xin qui phục. Đến khi giặc thua, bắt được một hòm các tờ biểu xin đầu hàng, Thượng hoàng sai đốt đi để yên lòng kẻ phản trắc. Chỉ những kẻ đầu hàng trước đây thì dù bản thân đang ở triều đình giặc, cũng bị kết án vắng mặt, xử tội lưu đày hay tử hình, điền sản bị tịch thu làm của nhà nước, xóa quốc tính của chúng. Như Trần Kiện và con của Tỉnh Quốc thì đổi làm họ Mai, còn người khác cứ theo lệ ấy mà đổi, như bọn Mai Lộng. Ích Tắc vì là chỗ bà con cốt nhục, trị tội tuy cũng thế, nhưng không nỡ đổi họ xóa tên, chỉ gọi là Ả Trần, cho là hèn nhát như đàn bà. Đương thời ghi chép đều gọi Ả Trần, Mai Kiện. Có Đặng Long là cận thần của vua, giỏi văn học, nhưng tước ở bậc dưới, từng được dự vào ghi chú để mà thăng cấp. Vua muốn cho làm hàn lâm học sĩ. Thượng hoàng ngăn lại. Bèn trong lòng có sự bất bình, đến đây cũng hàng giặc, đến khi thua bị bắt, đem chém để răn mọi người”.
 
Sự kiện đây chứng tỏ một đường lối chính trị nhân đạo để ổn định đất nước sau chiến tranh, làm cho mọi người cảm thấy yên tâm lao động xây dựng đất nước. Không chỉ có thế. Nó còn thể hiện tấm lòng độ lượng của bản thân những người lãnh đạo quốc gia đối với một bộ phận dân tộc có lỡ lầm.
 
Tổ chức lại bộ máy hành chánh

Thêm vào đó, phải tổ chức lại bộ máy hành chính nhà nước, mà đã bị quân sự hóa để phục vụ chiến tranh. Mùa xuân tháng 2 năm Canh Dần (1290), vua Trần Nhân Tông theo ĐVSKTT 5 tờ 58a5 đã “chọn quan văn chia đi cai trị các lộ”, để thực hiện việc cai trị theo pháp luật, từ đó tạo điều kiện sản xuất tốt cho người dân.
 
Đồng thời nhà vua tiến hành thanh tra công tác của các vị quan văn này. ĐVSKTT 5 tờ 60b1-4 chép về vụ an phủ sứ Phí Mạnh do tham ô mà bị đánh trượng và sau đó trở thành thanh liêm vào năm 1292: “Cho Phí Mạnh làm An phủ sứ Diễn Châu. Tại chức chưa bao lâu mà nổi chứng tham ô. Vua gọi về đánh trượng rồi lại cho về trị sở lại được tiếng công bình thanh liêm. Người châu Diễn có lời nói: ‘An phủ Diễn Châu trong như nước’”. Vua Trần Nhân Tông cũng bổ nhiệm một số người có thành tích tốt như Phùng Sỹ Chu làm hành khiển, Trần Thì Kiến làm an phủ lộ Yên Khang. Bộ máy nhà nước sau chiến tranh dần dần trở lại hoạt động bình thường của nó với những viên chức hiểu biết luật pháp và có khả năng tổ chức đời sống của dân.
 
Việc tổ chức lại bộ máy hành chinh dân sự là cần thiết. Tuy nhiên, không phải vì thế mà sẽ có sự bổ nhiệm nhiều viên chức nhà nước và địa phương. Ta đã thấy ngay việc phong thưởng những người có thành tích chiến đấu trong hai cuộc chiến tranh giữ nước năm 1285 và 1288, vua Trần Nhân Tông còn giới hạn, đến nỗi có những đòi hỏi phong thưởng thêm, mà Thượng hoàng Trần Thánh Tông đã phải giải thích. Huống nữa là việc bổ quan phong tước. Sau này ta đã thấy vua Trần Nhân Tông, khi nhìn thấy quyển sổ bổ quan phong tước của vua Trần Anh Tông có quá nhiều người, vua Trần Nhân Tông đã phải thốt lên: “Sao lại có một nước bé như bàn tay, mà phong quan tước nhiều đến thế”, như ĐVSKTT 6 tờ 36a9 đã ghi. Tư tưởng chủ trương “quan nhiều dân chết”, mà Ngô Thời Nhiệm sau này đã nêu lên, phải nói là có nguồn gốc từ tư tưởng này của vua Trần Nhân Tông. Có thể nói quan điểm nhà nước như một dịch vụ, chứ không phải một nơi để khai thác làm giàu cho những người có chức có quyền đã xuất hiện từ lâu tại nước ta, chắc chắn là từ thời vua Trần Nhân Tông. Như thế, dù việc dân sự hóa bộ máy hành chánh là cần thiết, nhưng dứt khoát vua Trần Nhân Tông đã không để cho bộ máy này trở thành một bộ máy cồng kềnh bòn rút máu mỡ của dân.
 
Cho nên, sau đó thời tiết bất thuận lợi liên tiếp như “nắng mãi từ mùa hạ tháng 6 đến mùa đông tháng 10” của năm 1289, rồi “tháng 4 mùa hạ sông Tô Lịch chảy ngược (sông này có mưa lớn thì nước to lên mà chảy ngược)” của năm 1290, qua năm 1291 thì đói to “ngoài đường nhiều người chết đói”, vua ra lệnh “phát thóc không để chẩn cấp cho dân nghèo và miễn thuế nhân đinh” như ĐVSKTT 5 tờ 58b4, 59a5-60a7 và 59b9 -60a1 đã chép. Thế mà khi Lương Tăng và Trần Phu đến nước ta vào năm 1293, chúng đã thấy một đất nước Đại Việt giàu đẹp với một nền nông nghiệp phát triển, thương mại phồn vinh và công nghiệp sắc sảo.
 
Những thành tựu kinh tế xã hội
 
Về nông nghiệp, “lúa mỗi năm gặt bốn lần, tuy vào mùa đông rét, mạ vẫn phơi phới” và những vườn dâu, chuối, nhãn, vải, mít, dừa. v.v.. xanh tốt. Còn về thương mại, thì không những nền nội thương phát triển, “thôn xóm đều có chợ, mỗi hai ngày họp một lần, trăm món tạp hóa đều dồi dào. Cứ 5 dặm thì dựng một ngôi nhà 3 gian, bốn mặt đều đặt sạp để làm chỗ họp chợ”, “nước không có dự trữ, chỉ trông cậy vào việc thuyền bè đến buôn bán” và sự buôn bán này không chỉ ở trong nước mà còn với các nước khác nữa. “phủ Tinh Hoa tức Hoan Châu đời Đường, cách thành Giao Châu hơn 200 dặm. Thuyền bè các nước mọi ngoài biển đeàu đến rất đông, buôn bán trên thuyền rất rộn rịp”. Để có thể có một nền ngoại thương rộn rịp như thế, Đại Việt không những phải có một nền nông nghiệp phát triển, mà còn phải có một nền công nghiệp và thủ công nghiệp sắc sảo.
 
Để có một nền nông nghiệp và thương nghiệp phát triển phồn vinh như thế chỉ sau bốn năm chiến tranh chấm dứt, nền công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp Đại Việt cũng phải phát triển song song. Nền công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp này trước mắt có nhiệm vụ xây dựng lại đất nước sau chiến tranh. Bao nhiêu dinh thự, thành quách, đình chùa và nhà dân bị quân thù đốt phá. Bao nhiêu cầu cống, đường sá bị giật sập cuốc bỏ vì yêu cầu chiến tranh. Thế mà khi Trần Phu đến kinh đô Thăng Long, thấy chung quanh kinh thành đã có bốn chiếc cầu bắc ngang. Trần Phu viết trong An Nam tức sự: “Giao Châu không có thành quách, tường đất thấp tè mà thôi. Phía tây có châu Hoa Phúc có sông vây quanh, phía trước có bốn cầu là Mạc Kiều, Tây Dương, Ma Tha, Lão Biên để thông việc ra vào”. Xa hơn kinh thành một chút, Trần Phu lại viết: “Từ sứ quán đi sáu mươi dặm thì qua cầu An Hóa, lại một dặm nữa thì đến phía bắc cầu Thanh Hóa. Trên cầu này có nhà mười chín gian”.
 
Còn kinh thành Thăng Long trong cuộc chiến tranh năm 1285, khi Thoát Hoan kéo đến chiếm kinh thành, Nguyên sử 209 tờ 7a 12-13 đã tả sơ lại cung điện như thế này: “Cung thất có năm cửa, trên đề là cửa Đại Hưng hai bên có cửa nách, chính điện có chín gian đề tên là Thiên An ngự điện, cửa chính nam đề là Triều Thiên các”. Cung thất này, theo ĐVSKTT 5 tờ 55a2, đã bị đốt cháy. Tuy nhiên, trong Trương thượng thư hành lục, mà Lê Thực chép lại ở An Nam chí lược 3 tờ 46, Trương Lập Đạo đến sứ nước ta vào năm 1291 đã đặt vấn đề là nếu Thoát Hoan đã đốt phá dinh thự cung thất thì làm gì còn cung thất ở đây. Thực tế có khả năng bọn Thoát Hoan đã đốt một số và sau đó chính quyền ta đã xây dựng lại. Cho nên, khi đến nước ta vào năm 1293, tất nhiên Trần Phu đã thấy đất nước Đại Việt, đặc biệc là kinh đô Thăng Long đã có một bộ mặt mới xinh đẹp hơn.
 
Cũng trong An Nam tức sự, Trần Phu đã tả lại nơi ở của vua ta như thế này: “Cửa nó gọi là cửa Dương Minh, trên có gác gọi là gác Triều Thiên, cửa nhỏ bên trái gọi là cửa Nhật Tân, cửa nhỏ bên phải gọi là cửa Vân Hội. Bên trong cửa có giếng trời rộng sâu mấy chục trượng, đi lên từ các từng cấp thì dưới gác có biển đề điện Tập Hiền, trên có gác lớn gọi là gác Minh Linh, con đường hành lang bên phải để đến điện lớn gọi là điện Đức Huy, cửa bên trái gọi là cửa Đồng Lạp, cửa bên phải gọi là cửa Kiều Ứng. Các tấm biển đều viết bằng chữ vàng”.
 
Để xây dựng các cầu và cung điện như thế, thì nền công nghiệp sản xuất ngói gạch tất phải phát triển. Trần Phu đã tả lại loại ngói đặc biệt của Đại Việt lúc bấy giờ: “Ngói hình như miếng ván, trên thì rất vuông nhưng nhọn ở nửa dưới, giống như cái cân thóc xưa gác ngang một nửa cây tre làm rui, dùng đinh tre đóng ngói vào trên rui, từ cái diềm theo thứ lớp đè lên nhau cho đến nóc nhà, đẹp mềm mại như vảy cá”. Không những sản xuất ngói gạch đá cho xây dựng, từ xa xưa tổ tiên người Việt dùng thuyền như người Hồ cưỡi ngựa. Đặc biệt là vào thời kỳ Trần Nhân Tông với các trận thủy chiến Vân Đồn,Vạn Kiếp, Bạch Đằng lẫy lừng cũng như việc buôn bán với nước ngoài ở các cửa biển thì việc đóng thuyền trở thành một ngành sản xuất được quan tâm hàng đầu. Trần Phu không quên chú ý đến các chiến thuyền Đại Việt: “Thuyền nhẹ và dài, ván rất mỏng, đuôi thuyền như cánh chim uyên ương, hai bên nổi cao, dùng đến ba mươi tên lính để chèo, phần lớn là có đến trăm tên, chạy nhanh như bay”.
 
Không những về công nghiệp dân sự, công nghiệp quân sự cũng có những phát triển mới. Trong trận đánh phòng ngự kinh thành Thăng Long ta đã thấy quân Đại Việt vào năm 1285 đã dùng tới pháo. Pháo đây là những máy bắn đá hay hỏa pháo sau này, ta không thể xác định chắc chắn được. Điều rõ ràng là quân Đại Việt đã sử dụng pháo trong những trận địa chiến, như Nguyên sử đã ghi lại. Cũng thông qua hai cuộc chiến tranh 1285 và 1288, nhiều tên tướng địch đã chắc chắn là nhiều tên lính địch. đã bị trúng tên độc của quân ta mà chết như A Bát Xích. Trong việc chế tạo cung tên, giáo mác, gươm đao... như vậy đã được quan tâm. Nhưng cũng trong An Nam tức sự, Trần Phu đã cho ta biết thêm một loại vũ khí khác, mà sử sách ta cũng như Trung Quốc không thấy nói tới, đó là nỏ nước hay thủy nỏ: “Nỏ nước, một tên khác là xá sa, người bắn dùng hơi để bắn xa được ba mươi bộ. Bắn trúng thì thấy có cái bóng màu hồng và ngứa thì liền lấy dao khoét bỏ mảnh thịt đó đi. Không thế thì ngứa cho đến chết”.
 
Tất nhiên nền kinh tế Đại Việt vào thời Trần Nhân Tông không chỉ sản xuất các vật liệu xây dựng các khí tài chiến tranh mà còn sản xuất các loại hàng tiêu dùng như vải vóc, hương liệu, các đồ trang sức... Chẳng hạn như loại hương long nhụy, mà theo Trần Phu là “dùng nhụy hoa rồng hòa với dầu an tức hương, rồi xe làm những thỏi nhỏ như chiếc đũa, dài chừng một thước, rồi treo lên vách mà đốt cháy suốt ngày không tắt. Hương rất trong thơm”. Các thứ vải vóc thì đủ các loại lụa, là, quyến, thô, sồi, giấy, có nhiều màu như xanh, vàng, tía, đỏ..., nhưng theo Trần Phu, người dân đa số mặc vải đen.
 
Nói tóm lại, nền kinh tế Đại Việt, sau hai cuộc chiến tranh, dù gặp nhiều thiên tai như hạn hán kéo dài và mưa dầm nhiều tháng nên có xảy ra mấy trận đói, nhưng qua đến đầu năm 1293 đã có những khởi sắc. Với những chính sách khôn khéo, vua Trần Nhân Tông đã vực dậy nền kinh tế bị thiên tai và địch họa tàn phá, làm cho đất nước có một bộ mặt tươi đẹp, như Trần Phu đã mô tả trong bài An Nam tức sự của y.
 
 
Xây dựng đời sống tinh thần

Bên cạnh công cuộc tái thiết đời sống vật chất, tạo bộ mặt tươi đẹp cho đất nước và con người, thì việc xây dựng một đời sống tinh thần lành mạnh cho người dân cũng được vua Trần Nhân Tông quan tâm một cách sâu sắc. Đó là gây dựng một quá khứ thần thánh cho dân tộc bằng việc phong thần cho những người có công với dân với nước như Phù Đổng Thiên Vương, Sĩ Nhiếp, Triệu Quang Phục, Lý Phật Tử, Phùng Hưng, Lý Thường Kiệt v.v.. Trong hai đợt phong thưởng cho những người có chiến công trong các cuộc chiến tranh vệ quốc năm 1285 và 1288, vua Trần Nhân Tông đã không quên tỏ lòng biết ơn những vị anh hùng đã khuất bằng cách phong thưởng cho họ danh hiệu cao quý.
 
Sự kiện này ta không thấy ĐVSKTT ghi lại. Nhưng may mắn thay Việt điện u linh tập đã có chép. Tất nhiên, việc phong thần cho những anh hùng và những ai có công với dân với nước trong quá khứ không phải tới thời vua Trần Nhân Tông mới được thực hiện. Lý Thái Tổ đã làm việc ấy đối với Phù Đổng Thiên Vương là một thí dụ. Tuy nhiên đó là những việc làm lẻ tẻ, chưa có tính cách hệ thống. Phải đợi đến vua Trần Nhân Tông, công tác này mới được tiến hành một cách đầy đủ. Lần đầu tiên, một thần điện Việt Nam đã hình thành với những con người sống bằng xương bằng thịt trong quá khứ, có sự tích, có hành trạng, chứ không chỉ gồm những vị thần, vị thánh từ nước ngoài đưa vào, hay được tưởng tượng ra ở trong nước.
 
Căn cứ vào những ghi chép của Lý Tế Xuyên trong Việt điện u linh tập, 27 vị được phong thưởng trong những năm Trùng Hưng thứ nhất (1285) và Trùng Hưng thứ 4 (1288), rõ ràng các vị thần Việt Nam đến thời vua Trần Nhân Tông đã lên tới con số không phải ít. Qua những ghi chép về việc phong thưởng này, ta có thể giả thiết khi viết Việt điện u linh tập, Lý Tế xuyên đã dựa vào những hồ sơ của các vị thần mà triều đình đã hoàn tất để trình cho vua Trần Nhân Tông phong thưởng. Cần nhớ là căn cứ vào lời tựa của chính Lý Tế Xuyên, thì ông đã từng giữ chức Thủ Đại Tạng thư văn chính chưởng trung phẩm phụng ngự An Tiêm lộ chuyển vận sứ, tức một chức vụ có liên hệ ít nhiều với Phật giáo. Việc phong thần cho 27 anh hùng liệt nữ và những thần núi, thần sông, thần đất cho ta thấy ý đồ của vua Trần Nhân Tông gầy dựng một quá khứ anh hùng và thần thánh cho dân tộc ta, dùng những tấm gương anh hùng liệt nữ và thần thánh đó để giáo dục cho nhân dân ta sống xứng đáng với tổ tiên, đất nước mình. Có thể nói chủ nghĩa yêu nước và anh hùng Việt Nam đã được phát huy cao độ vào thời đại Trần Nhân Tông với sự góp sức cho quá khứ thần thánh vừa nói. Không có quá khứ đó, việc phát huy không thể dễ dàng. Đây có thể là một đóng góp to lớn về đời sống tư tưởng của vua Trần Nhân Tông với dân tộc ta.
 
Đấu tranh ngoại giao

Cùng lúc với việc tiến hành các biện pháp nhằm gầy dựng lại đời sống vật chất và tinh thần ấm no cho người dân sau chiến tranh, ngay khi đám bại tướng Thoát Hoan và Áo Lỗ Xích đã tháo chạy về được bên kia biên giới và đóng quân tại Tư Minh của Quảng Tây vào ngày Nhâm Dần 18 tháng 3 năm Mậu Tý, vua Trần Nhân Tông lại bắt đầu thực hiện chính sách ngoại giao mềm dẻo và khôn khéo nhằm vừa đè bẹp ý chí xâm lược của kẻ thù, vừa duy trì hoà bình cho đất nước. Vào ngày Nhâm Dần đó, Bản kỷ của Nguyên sử 15 tờ 3a9 cho biết vua Trần Nhân Tông “đã sai sứ đến tạ tội và dâng người vàng để thay thế bản thân mình”. Sự kiện này không thấy sử ta ghi, nhưng An Nam chí lược 14 tờ 140 của tên Việt gian Lê Thực có đề cập tới và ghi rõ tên họ của những người đi trong phái bộ này.
 
Nó viết: “Mùa xuân năm Chí Nguyên Mậu Tý (1288), Trấn Nam Vương rút quân về, Thế tử sai cận thị quan Lý Tu và Đoàn Khả Dung cống phương vật tạ tội”. Khi viết vào mùa xuân Thoát Hoan rút quân về, và vua Trần Nhân Tông đã gửi Lý Tu và Đoàn Khả Dung đi sứ qua Nguyên, An Nam chí lược chắc chắn nói tới thời điểm tháng 3, cụ thể là ngày Nhâm Dần 18, bởi vì trong mùa xuân ấy, ngoài phái bộ vừa nêu, vua Trần Nhân Tông và triều đình Đại Việt không thấy cử bất cứ phái bộ nào khác. Đây chắc hẳn là một phái bộ đi thăm dò, tìm hiểu thái độ và tình hình của địch sau khi ta đã quét sạch quân chúng ra khỏi bờ cõi.
 
Quả vậy, đúng một tháng sau khi khải hoàn về kinh đô Thăng Long, ngày Canh Thìn, 27 tháng 4 năm Mậu Tý, vua Trần Nhân Tông đã sai trung đại phu Trần Khắc Dụng đi cống phương vật, như Bản kỷ của Nguyên sử 15 tờ 3b13-4a1 đã ghi. An Nam chí lược không nói tới phái bộ này. Tuy nhiên Thiên Nam hành ký của Từ Minh Thiện trong Thuyết phu 51 tờ 18b4-19b6 chép lại lá thư vua Trần Nhân Tông gửi cho Hốt Tất Liệt. Qua lá thư này, ta thấy phái bộ Trần Khắc Dụng không chỉ đơn giản đi cống phương vật, mà thực sự mang nhiệm vụ đi đấu tranh ngoại giao, để đè bẹp ý chí xâm lược của kẻ thù.
 
Trong lá thư này vua Trần Nhân Tông đã chỉ rõ nguyên nhân vì sao chiến tranh xảy ra và kể tội kẻ đã gây ra cuộc chiến tranh đó. Vua Trần Nhân Tông viết: “Năm Chí Nguyên thứ 23 (1286), bình chương A Lý Hải Nha tham công ngoài biên giới, làm trái Thánh chỉ. Do thế, tiểu quốc sinh linh một phương phải chịu lầm than. (....). Mùa đông năm Chí Nguyên thứ 24 (1287) lại thấy đại quân thủy bộ đều tiến sang, thiêu đốt chùa chiền khắp nước, đào bới mồ mả tổ tiên, bắt giết người dân già trẻ, đập phá sản nghiệp trăm họ, các hành động tàn nhẫn phá phách không gì là không làm (...). Tham chính Ô Mã Nhi lâu nắm binh thuyền riêng ra ngoài biển, bắt hết biên dân vùng biển, lớn thì giết chết, nhỏ thì bắt đi, cho đến cả treo trói xẻ mổ, mình đầu khắp chốn. Trăm họ bị bức tới chỗ chết, bèn dấy lên cái họa con thú chân tường”.
 
Nguyên nhân của 2 cuộc chiến tranh vừa qua như vậy theo Trần Nhân Tông là do đám tướng chỉ huy ở biên giới muốn lập công gây nên, chứ không phải do chính bản thân Hốt Tất Liệt chỉ xúy. Rõ ràng, đây là một chiến thuật ngoại giao khôn khéo nhằm giữ thể diện cho Hốt Tất Liệt, không làm nó mất mặt vì đã chủ trương xâm lược nước ta và đã hoàn toàn thất bại. Không những thế, đoạn văn vừa nêu ta thấy hừng hực một khí thế tố cáo và lên án tội ác kẻ thù. Nó đúng là bản luận tội chính Hốt Tất Liệt vì chính sách gây chiến tàn ác của y, chứ không phải chỉ tố cáo tội ác diệt chủng dã man của đám tướng tá, mà y sai đi xâm lược Đại Việt. Có thể nói đây là một trong những văn bản lên án tội ác của chiến tranh xưa nhất không chỉ của dân tộc ta, mà còn của thế giới.
 
Càng lên án chiến tranh và tội ác của chiến tranh, thì người lên án phải tỏ ra mình là một người có lòng nhân hậu rộng lượng bao la. Họ biết rằng không thể dùng chiến tranh để vĩnh viễn dập tắt chiến tranh, mà phải có phương sách khác. Đó là lòng nhân ái, nhân hậu. Phải nói đây là một trong những tác động sâu xa của giáo lý Phật giáo trong cung cách hành sử việc đời không chỉ đối với Trần Nhân Tông, mà còn đối với toàn bộ dân tộc ta lúc ấy, từ những tướng lĩnh cao cấp nhất như Trần Hưng Đạo, Trần Quang Khải cho đến những người lính người dân bình thường. Và thực tế trong lá thư ấy, sau khi lên án tội ác trời không dung đất không tha của đám tướng tá nhà Nguyên trong hai cuộc chiến tranh vừa qua, vua Trần Nhân Tông chủ động biểu thị lòng nhân ái của mình bằng cách tha các tù binh, mà ta bắt được trong hai cuộc chiến vừa qua.
 
Lá thư năm 1288 vua Trần Nhân Tông viết: “Thấy trăm họ đưa đến một người là đại vương Tích Lệ Cơ, nói là bậc quý thích của đại quốc, Thần từ hôm đó đã lấy lễ đối đãi rất mực tôn trọng. Kính hay không kính thì đại vương tất rõ. Còn những hành vi tàn bạo của Ô Mã Nhi, đại vương trông thấy tận mắt, vi thần không dám nói dối. Tiểu quốc, thủy thổ độc, viêm chướng nhiều, thần lo ở lại lâu ngày sinh ra bệnh tật. Tuy vi thần có hết sức phụng dưỡng, cũng không khỏi bị những bọn tham công ngoài biên giới vu tấu đặt điều cho nên tội. Vi thần kính xin sắm đủ lễ vật đi đường, sai người đến biên giới đưa đại vương về nước (.....). Ngoài ra, đại quân rơi rớt lại còn hơn nghìn người, thần đã ra lệnh cho trở về hết. Sau này, nếu còn tìm được người nào, thần cũng sẽ cho về”.
 
Rõ ràng dù bọn tướng tá ở biên giới do tham công mà gây chiến, thì tội ác chúng cũng đáng để bị trừng trị vì không chỉ chúng đã manh động gây chiến, mà còn phá hoại sự sống hòa bình của những cộng đồng dân tộc khác. Và đấy là chưa kể những hành động tàn ác dã man vừa giết người đốt nhà cướp của, thậm chí “treo trói, xẻ, mổ cắt, đầu mình khắp chốn” đối với dân lành của chúng. Đứng trước những tội ác và hành động dã man như vậy, thế mà khi bắt sống được chúng, dân tộc ta vẫn tỏ lượng bao dung nhân ái, tha chết cho chúng để chúng có thể về đoàn tụ với gia đình cha mẹ vợ con. Người Việt thời bấy giờ hình như có một cảm nhận tinh tế sâu sắc biết rung động trước những nổi khổ của kẻ khác. Thực tế, ít có dân tộc nào có được một bài thơ thương tới cả kẻ thù của chính mình. Thế mà dân tộc ta vào thời đó đã có bài thơ Thương kẻ thù bị bắt của trạng nguyên Lý Tải Đạo mà sau này đã trở thành thiền sư Huyền Quang (1254-1334):
 
Chích máu thành thư muốn gửi lời
Lẻ bay nhạn buốt ải mây khơi
Đêm nay mấy kẻ nhìn trăng nhỉ
Đôi ngã lòng chung một vợi vời
 
(Khóa huyết thư thành dục ký âm
Cô phi hàn nhạn tái vân thâm
Kỷ gia sầu đối kim tiêu nguyệt
Lưỡng xứ mang nhiên nhất chủng tâm)
 
Cho nên, tấm lòng nhân ái không chỉ bộc lộ trong những người lãnh đạo quốc gia, mà đôi khi vì quyền lợi của đất nước họ phải biểu thị rõ ràng thông qua chính sách hoặc thơ văn. Tấm lòng nhân ái đó còn bàng bạc trong tâm hồn những người dân bình thường, mà Lý Tải Đạo là một thí dụ. Chậm lắm thì năm 1288, khi cuộc chiến tranh chấm dứt và trong tay quân đội ta có những đám tù binh của giặc, Lý Tải Đạo lúc ấy mới 34 tuổi, có thể vừa đậu trạng nguyên và chắn chắn đã tham gia cuộc chiến tranh vệ quốc những năm 1285 và 1288. Thế mà đứng trước những con người mới vừa phút trước có thể giết mình, bây giờ đang nằm trong tay mình, Lý Tải Đạo không ngăn nổi lòng thương cảm đối với những con người ấy, xúc động trước nỗi khổ, nỗi buồn xa cách của họ. Chưa bao giờ trong lịch sử dân tộc ta mà lòng căm thù giặc sôi sục như thời đánh Nguyên với hai chữ Sát Thát thích vào cánh tay của từng người lính. Nhưng cũng chưa bao giờ lòng thương người lại phát huy cao độ, lại xúc cảm đến nỗi viết thành thơ như thời quân dân ta đánh giặc Nguyên này.
 
Vì vậy, việc vua Trần Nhân Tông đề nghị và thả các tù binh ta đã bắt được, không chỉ thể hiện một sách lược ngoại giao mềm dẻo, nhân hậu, mà còn bộc lộ tình thương đối với từng con người một trong từng cảnh khổ của họ của dân tộc ta, trong đó có bản thân vua. Truyền thống thương người này, hơn một trăm năm sau, vị anh hùng dân tộc Lê Lợi lại có dịp kế thừa và phát huy bằng việc thả tự do cho hơn mấy vạn quân Minh về nước. Không những thế vua Lê Lợi còn sửa đường, làm cầu, cung cấp thuyền bè, xe ngựa, lương thực đeå cho đám tù binh ấy được về nhà an toàn khỏe mạnh. Cho nên, dù trong văn bia của Lý Thiên Hựu có nói đến cảnh Hựu “bị bắt liền cắt ngắn tóc, hoặc không cho ăn, lăng nhục khốn khổ muôn bề”, thì trường hợp này nếu có, cũng chỉ là một trường hợp cá biệt, đặc biệt trong bối cảnh Ô Mã Nhi cho quật mộ của chính vua Thái Tông.
 
Sáu tháng sau phái bộ của Trần Khắc Dụng, vua Trần Nhân Tông gửi tiếp phái bộ Đỗ Thiên Hứ, như ĐVSKTT 5 tờ 56a4 đã ghi: “Mùa đông tháng 10, sai Đỗ Thiên Hứ đi sang Nguyên (Thiên Hứ là em của Khắc Chung). Đỗ Khắc Chung đi sứ quân Nguyên có công đến đó bèn tiến cử em là Thiên Hứ. Vua y theo”. Sứ bộ này không thấy Nguyên sửAn Nam chí lược ghi lại. Phải nói đây là những động thái ngoại giao làm dịu bớt tình hình, nhất là sau khi ta đã thắng lớn qua hai cuộc chiến tranh, tiêu diệt hay bắt sống gần hết những tên tướng chỉ huy dày dạn kinh nghiệm của hai cuộc chiến tranh ấy như Toa Đô, Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp, Đường Ngột Đãi, A Bát Xích v..v..
 
 
Phái bộ Lưu Đình Trực Lý Tư Diễn

Sau ba phái bộ của ta, ngày Kỷ Hợi 18 tháng 11 năm Mậu Tý, Hốt Tất Liệt mới cử một phái bộ của mình do Lý Tư Diễn cầm đầu với mục đích đòi vua ta vào chầu và đe dọa nếu không vào chầu thì sẽ đem quân tiến đánh, như Bản kỷ của Nguyên sử 15 tờ 7a5-6 đã ghi: “Ngày Kỷ Hợi (tháng 11) sai Lý Tư Diễn làm lễ bộ thị lang sung Quốc tín sứ, lấy Vạn Nô làm binh bộ lang trung làm phó, cùng đi sứ An Nam, đem chiếu bảo Trần Nhật Huyên từ thân vào chầu. Nếu không thì chắc chắn sẽ bị đem quân đánh lần nữa”. Phái bộ đầu tiên này như vậy chỉ có Lý Tư Diễn và Vạn Nô, chứ không có tên của Lưu Đình Trực, mà các tư liệu khác đều có ghi với tư cách trưởng đoàn.
 
Thứ nhất, An Nam chí lược 3 tờ 45 chép thêm tên Lưu Đình Trực vào: “Chí Nguyên năm thứ 26 (1288) sai Đề hình án sát sứ đạo Sơn Bắc Lưu Đông Lưu Đình Trực, lễ bộ thị lang Lý Tư Diễn, binh bộ thị lang Vạn Nô, sứ ta là bọn Nguyễn Nghĩa Toàn trở về nước tuyên đọc chiếu vua”. Tiếp đến, An Nam truyện của Nguyên sử 209 tờ 10a7-8 ghi: “Tháng 11 (năm Chí Nguyên 25, 1288) lấy bọn Lưu Đình Trực, Lý Tư Diễn, Vạn Nô đi sứ An Nam, đem chiếu bảo Nhật Huyên vào chầu”. Và cuối cùng Thiên nam hành ký của Từ Minh Thiện trong Thuyết phu 51 tờ 21a2 không những ghi tên Lưu Đình Trực, mà còn ghi cả tên Đường Ngột Đãi (Tangutai), Cáp Tán Lạt (Qasar) và Ung Cáp Lạt Đãi (Onggiradai) và bản thân Từ Minh Thiện với tư cách tham nghị trung thư.
 
Đây là một phái bộ lớn có nhiệm vụ thực hiện hai yêu sách của Hốt Tất Liệt là đòi vua Trần Nhân Tông vào chầu và đòi vua thả hết các tù binh nhà Nguyên, đặc biệt là Ô Mã Nhi, đồng thời đem lời giải thích của Hốt Tất Liệt về nguyên do cuộc chiến tranh. Đây là nhằm đáp lại ba vấn đề, mà vua Trần Nhân Tông đã nêu ra trong lá thư của mình do phái bộ Trần Khắc Dụng của ta đem qua cho Hốt Tất Liệt. Đọc những lời đáp lại dưới đây trong lá thư của hắn gửi cho vua ta, mới thấy các phái bộ ngoại giao của ta đã thực hiện nhiệm vụ đấu tranh ngoại giao kiên trì và đầy khó khăn như thế nào.
 
Về nguyên do cuộc chiến tranh, Hốt Tất Liệt đổ hết mọi trách nhiệm lên vua Trần Nhân Tông. Lời chiếu của hắn đã được tên Việt gian Lê Thực chép nguyên văn trong An Nam chí lược 2 tờ 36 và Từ Minh Thiện sao lại trong Thiên nam hành ký, nói rõ: “Ta coi muôn nước, cả đức lẫn uy đều dùng. Ngươi tiếng là hướng theo, nhưng thực chưa đến chầu. Nhiều lần có thư mời lại lấy cớ đau mà từ chối. Đến khi sai chú ngươi tạm giữ nước thì ngươi công nhiên chống trái, dám làm chuyện chuyên giết. Còn đến việc A Lý Thái Nha đi đánh Chiêm Thành, tới nước ngươi mượn đường truyền sửa đến cầu, chuyển vận cỏ thóc, ngươi không những thất tín mà còn cự lại quân ta. Việc như thế, nếu không đánh, phép vua còn đâu? Dân nát nước tan, thực sự ngươi gây lấy”.
 
Còn về việc vào chầu, Hốt Tất Liệt vừa dở giọng thuyết phục vừa đưa lời đe dọa: “Nếu quả có lòng thành, sao không đến đây gặp mặt bày tỏ? Sao có chuyện nghe sai tướng đến thì lại lo trốn chạy. Hễ thấy rút quân thì lại lên tiếng vào cống. Lấy chuyện ấy mà thờ kẻ trên, lòng giả dối có thể biếữt được. Ngươi thử nghĩ nếu cứ sống lẻn lút trên non, dưới biển lúc nào cũng lo tai họa bị quân tiến đánh, thì sao bằng vào sân vua chịu mệnh để hưởng ân sủng quang vinh mà trở về. Trong hai chước đó, chước nào hay chước nào dở? (...) nếu ngươi sửa soạn sang ngay, tỏ đủ nghĩa bề tôi, thì ta sẽ tha hết lỗi trước, phục hồi cho ngươi các tước phong cũ. Nếu còn chần chừ nghi ngại thì dứt khoát khó mà tha thứ. Hãy sửa sang thành quách ngươi, mài giũa binh giáp ngươi, cho các ngươi tự ý làm, chờ ta đưa quân tới”.
 
Còn việc đòi thả tù binh, thì vì vua Trần Nhân Tông đối đãi tử tế đối với Tích Lệ Cơ, Hốt Tất Liệt chỉ ra rằng “Ngươi biết Tích Lệ Cơ vốn là thuộc loại bà con ta mà dùng lễ đưa về. Nhưng y là người có lỗi phải bị đi đày. Nếu lấy chuyện ấy mà tô vẽ thì hãy đem bọn quan quân Ô Mã Nhi, Toa Đô trả về như thế mới tỏ được lòng trung thuận. Ngày tiếp được chiếu thư này, bọn quan quân Ô Mã Nhi phải cùng đến một lúc. Bọn ấy nếu có việc gì cần xử lý, ta sẽ xử lý hoàn bị. Ngươi hãy đưa trả bọn họ về đầy đủ”. Việc Hốt Tất Liệt nêu cụ thể tên Ô Mã Nhi, rõ ràng là nhằm trả lời những tố cáo về tội ác của Ô Mã Nhi, mà vua Trần Nhân Tông đã nêu ra trong lá thư của mình. Thực tế, hắn là tên tướng khét tiếng tàn ác, đã giết người, đốt nhà, cướp của, đào mồ tại vùng Thiên Trường, như đã thấy trên.
 
Dù có những lời kết tội, yêu sách và đe dọa vừa nêu, vua Trần Nhân Tông vẫn tỏ ra bình tĩnh, vui vẻ tiếp đãi đám sứ thần nhà Nguyên, như Từ Minh Thiện đã ghi lại trong Thiên nam hành ký của Thuyết phu 41 tờ 4b-5a: “Ngày 28 tháng 2 năm Kỷ Sửu (Chí Nguyên) 26 (1289) đến cửa thành nước ấy, em thế tử là thái sư ra đón..., rồi lên ngựa về quán dịch. Ngày 29, thế tử và sứ giả gặp nhau. Sau quán dịch có nhà lầu, Thế tử đi cửa sau vào trước trong nhà, mở cửa giữa mời sứ vào, chào hỏi chúc mừng nhà vua muôn tuổi, sứ giả đi đường bình yên. Ngày mồng 1 tháng 3, đem đủ cờ xí, tán vàng, kèn trống, đón chiếu thư vào vương thành. Đến cửa điện thì xuống ngựa rồi vào. Đó là điện Tập Hiền, làm lễ xong đãi yến sứ giả hai ngày”. Đào Tông Nghi trong Chuyết canh lục 4 mục Sứ Giao Chỉ còn chép việc vua Trần Nhân Tông đã cho vàng đám sứ giả này. An Nam chí lược 17 tờ 159 cũng ghi việc vua Trần Nhân Tông đem vàng bạc biếu cho Lý Tư Diễn.
 
Nói chung, đám sứ giả được tiếp đãi tử tế, thậm chí hậu hĩnh. Nhưng mọi yêu sách của Hốt Tất Liệt đều bị từ chối. Đám sứ giả đã ra về tay không. Vua Trần Nhân Tông đã không qua chầu, còn Ô Mã Nhi thì chỉ đi theo vợ con hắn về trong một chiếc lọ gốm. Việc Ô Mã Nhi chết ĐVSKTT 5 tờ 56a6-8 viết như sau: “Mùa xuân tháng 2 năm Kỷ Sửu (1289), sai nội thư gai Hoàng Tá Thốn đưa bọn Ô Mã Nhi về nước, dùng kế của Hưng Đạo Vương, cho người giỏi bơi lội làm phu chèo, ban đêm dùi thuyền cho chìm, bọn Ô Mã Nhi đều chết đuối cả”. Vậy mà trong thư mình viết cho Hốt Tất Liệt và giao cho phái bộ Đặng Minh và Chu Anh Chủng mang qua Đại Đô, vua Trần Nhân Tông đã kể lại cái chết của Ô Mã Nhi thế này:
 
 “Tham chính Ô Mã Nhi định ngày sẽ về tiếp sau. Vì đường về ngang qua Vạn Kiếp, nên ông ta xin tới gặp Hưng Đạo để sắm sửa hành lý. Dọc đường ban đêm thuyền bị vấp, nước tràn vào. Tham chính mình to vóc lớn, khó bề cứu vớt, thành ra bị chết đuối. Phu thuyền của tiểu quốc cũng bị chết hết. Thê thiếp tiểu đồng của ông ta cũng suýt chết, nhưng nhờ người thon nhẹ nên cứu thoát được. Vi Thần đã chôn cất ma chay ở bờ biển. Thiên sứ lang trung đã tận mắt thấy. Nếu có sự gì bất kính, thì thê thiếp của tham chính ở đó khó mà che giấu được. Vi Thần đã sắm đủ lễ vật để đưa thê thiếp cùng với xá nhân lang trung về nước”.
 
Việc về nước của Ô Mã Nhi là như thế. Và cái chết của Ô Mã Nhi cũng như thế. Tất nhiên dù Ô Mã Nhi có bị chết thế nào đi nữa thì cũng trong lá thư đó Trần Nhân Tông hứa thả về hơn 8 nghìn người. Vậy chỉ hơn nửa năm sau khi quét sạch quân Nguyên ra khỏi bờ cõi, gần một vạn quân địch đã được chính quyền ta thả tự do cho về nước. Phải nói đây là lần đầu tiên trong lịch sử dân tộc cả một số lượng lớn quân thù có nợ máu với dân tộc, đã được phóng thích. Sự kiện này tạo nên tiền lệ, mà sau này người anh hùng dân tộc Lê Lợi đã áp dụng cho việc xử lý đoàn quân của Vương Thông ở Đông Quan. Chính sách nhân đạo của vua Trần Nhân Tông kết hợp với các chiến thắng Tây Kết, Bạch Đằng vang dội, tiêu diệt phần lớn các tên tướng dày dạn kinh nghiệm của quân đội nhà Nguyên, đã một phần nào làm nhụt ý chí xâm lược của Hốt Tất Liệt.
 
Phái bộ Trương Lập Đạo
 
Vấn đề có tiến công Đại Việt để trả thù nữa hay không, Hốt Tất Liệt chắc chắn đã bàn cãi với các cận thần của mình như thừa tướng Hoàn Trạch (Oljäi) và bình chương Bất Hốt Mộc (Bigmiš). Họ đều đồng thanh khuyên nên dùng biện pháp ngoại giao bằng cách đề nghị đưa Trương Lập Đạo đi sứ Đại Việt, như Trương Lập Đạo truyện của Nguyên sử 167 tờ 2a13-b2 đã ghi. Thế là nhân cái chết của vua Trần Thánh Tông vào ngày 25 tháng 5 năm Canh Dần (1290), tháng 8 vua Trần Nhân Tông cử Ngô Đình Giới sang báo tang. Tháng 9 năm sau vua lại cử phái bộ Nghiêm Trọng Duy và Trần Tử Trường qua Nguyên “cống phương vật và tạ tội không vào chầu”, như Bản kỷ của Nguyên sử 16 tờ 11b8-9 và An Nam chí lược 14 tờ 140 đã ghi. Tháng 10 năm đó Hốt Tất Liệt sai Trương Lập Đạo đến nước ta.
 
Nhiệm vụ của phái bộ Trương Lập Đạo cũng không có gì khác trước. Đó là làm thế nào thuyết phục vua Trần Nhân Tông vào chầu. Trương Lập Đạo được tiếõp đãi ân cần “có đại nhạc tấu ở điện hạ, tiểu nhạc tấu ở điện thượng, la liệtý các thứ rượu, các loại trái cây quý lạ và các món ăn cá thịt, hải vị đãi đủ tám bàn, thỉnh thoảng mời ăn cau trầu têm với vôi hàu. Vua luôn luôn tiếp lời, làm thơ để tặng. Lập Đạo ngay tại bàn tiệc làm thơ đáp lại”. Lập Đạo tuy có kinh nghiệm ở Đại Việt nhiều lần, nhưng vẫn thất bại trong nhiệm vụ này. Vua Trần Nhân Tông vẫn từ chối vào chầu, đặc biệtử sau hai lần đánh tan quân xâm lược những năm 1285 và 1288.
 
Tháng 6 năm Nhâm Thìn (1292), Trương Lập Đạo trở về nước, vua Trần Nhân Tông đã sai Nguyễn Đại Phạp và Hà Duy Nhan đi sứ sang Nguyên, mà theo ĐVSKTT 5 tờ 60a8-9 là nhằm để từ chối vào chầu vì vua Trần Nhân Tông đang có tang. ĐVSKTT 5 tờ 61a8-b4 kể chuyện khi Nguyễn Đại Phạp đến sảnh đường của Ngạc Châu, gặp Trần Ích Tắc ở đấy mà không thèm chào hỏi. Ích Tắc nói: “Ngươi có phải là kẻ chép sách ở nhà Chiêu Đại Vương không”. Đại Phạp trả lời: “Việc đời thay đổi. Tôi trước là kẻ chép sách cho Chiêu Đại Vương, nhưng nay là sứ giả, cũng như Bình Chương xưa là con vua, nhưng nay là kẻ đầu hàng giặc”. Rồi ĐVSKTT kết luận: “Ích Tắc có vẻ thẹn. Từ đó sứ ta đến không còn thấy Ích Tắc ngồi ở sảnh đường nữa”.
 
Sau khi Trương Lập Đạo thất bại trong nhiệm vụ thuyết phục vua Trần Nhân Tông vào chầu thì 3 tháng sau, tức tháng 9 năm Nhâm Thìn (1292) Lương Tăng và Trần Phu được cử đem thư của Hốt Tất Liệt đến đòi tiếp. ĐVSKTT 5 tờ 63a2-3 cho biết lý do vua không chầu được vì đang có bệnh và cử Đào Tử Kỳ đem sản vật địa phương sang biếu. Khi bọn Lương Tăng chưa về, thì ngày Kỷ Tỡ tháng 7 năm Chí Nguyên 30 (1293) Hốt Tất Liệt đã “sai Lưu Quốc Kiệt theo chư vương Diệc Cát Lý (Đãi, Ikirôdai) cầm các quân đi đánh Giao Chỉ”, như Bản kỷ của Nguyên sử 17 tờ 11a5 đã ghi. Nhà Nguyên giữ Tử Kỳ ở Giang Lăng, lập Hồ Quảng An Nam hành tỉnh, lấy bọn bình chương Lưu Nhị Bạt Đô dẫn quân đóng ở Tỉnh Giang đợi tiến đánh, như An Nam truyện của Nguyên sử 209 tờ 10b3-10 đã viết:
 
 “Năm (Chí Nguyên) 30 (1292) bọn Lương Tăng đi sứ về, Nhật Tôn sai bọn bồi thần Đào Tử Kỳ đến cống. Đình thần cho Nhật Tôn rốt cuộc không vào chầu, lại bàn đánh Giao Chỉ, bèn bắt giữ Tử Kỳ ở lại Giang Lăng. Vua sai Lưu Quốc Kiệt cùng bọn chư hầu vương Diệc Lý Cát Đãi (đúng ra phải viết Diệc Cát Lý Đãi, Ikirôdai, LMT) cùng đánh An Nam, ra lệnh đến Ngạc Châu cùng bàn với Trần Ích Tắc. Tháng 8, bọn bình chương Bất Hốt Mộc (Biğmiš) tâu đặt Hồ Quảng An Nam hành tỉnh, cấp hai ấn, cho đóng một ngàn chiếc thuyền trăm hộc, dùng quân 56.570 người, lương 35.000 thạch, thức ăn cho ngựa 20.000 thạch, muối 210.000 cân, dự cấp bổng phụ cho quan quân và cấp cho quân nhân và thủy thủ mỗi người hai đỉnh tiền, khí giới gồm hơn 700.000. Quốc Kiệt lập bộ chỉ huy gồm 11 người, thủy bộ chia đường cùng tiến. Lại lấy phó sứ của Giang Tây hành khu mật viện là Triệt Lý Man (Côriman) làm hữu thừa theo đi đánh An Nam. Bọn Trần Nham, Triệu Tu Kỷ, Vân Tùng Long, Trương Văn Hổ, Sầm Hùng, cũng được lệnh cùng giúp Ích Tắc theo quân đến Trường Sa”.
 
An Nam chí lược 4 tờ 56 cũng viết tương tự: “Chí Nguyên Quí Tỵ (1293) sai tướng Đào Tử Kỳ sang cống. Vua cho nhiều lần gọi không vào chầu, giữ Tử Kỳ ở Giang Lăng, lập An Nam hành tỉnh, sai Lưu Quốc Kiệt cùng chư hầu vương Y Dĩ Cát Đạt đem quân đi đánh. Đại vương Ích Cát Lý Đãi (Ikirôdai) tổng chỉ huy. Mùa đông ấy đóng quân ở tỉnh Giang, đợi mùa thu sang năm thì sẽ tiến đánh”. Và trong khi ở Tỉnh Giang, Lưu Quốc Kiệt bắt đầu gây sự với nước ta bằng cách gửi thư cho vua Trần Nhân Tông về việc Đại Việt chi viện cho nghĩa quân Hoàng Thánh Hứa ở Quảng Tây, và nguyên văn còn chép trong An Nam chí lược 5 tờ 64-66.
 
Tuy nhiên, ngày Quí Dậu tháng giêng năm sau, Hốt Tất Liệt chết. Nguyên Thành Tổ lên ngôi. Kế hoạch xâm lược nước ta bị bãi bỏ. Đào Tử Kỳ được trở về nước.Thế là chấm dứt mọi kế hoạch gây chiến với nước ta. Cuộc đấu tranh để bảo vệ hòa bình đã đi đến hồi thắng lợi. Nhân dân Đại Việt có thể yên ổn làm ăn. Mùa xuân ngày 9 tháng 3 năm Qúy Tỡ (1293) vua Trần Nhân Tông nhường ngôi lại cho con mình là hoàng thái tử Thuyên và lên làm Thái Thượng hoàng.
 
 
Vua Trần Nhân Tông đã sống cuộc đời oanh liệt và hoành tráng, có những đóng góp to lớn và thiết thực cho dân tộc và Phật giáo. Thế thì, vua đã sống và hành động theo hướng nào, dưới sự tác động của những suy nghĩ tư tưởng gì? Ngày nay, toàn bộ những tác phẩm của vua Trần Nhân Tông do Thánh đăng ngữ lục ghi lại như Thiền lâm thiết chủy ngữ lục, Thiền lâm thiết chủy hậu lục, Đại hương hải ấn thi tập, Tăng già toái sự Thạch thất mị ngữ hoàn toàn đã tán thất. Những gì còn lại chỉ gồm một số bài thơ, văn và ngữ lục được chép rải rác đó đây trong các tác phẩm Việt Nam về sau như Thánh đăng ngữ lục, Việt âm thi tập, Thiền tông bản hạnh, Tam tổ thực lục v.v… và một số các tác phẩm Trung Quốc như Thiên nam hành ký, Trần Cương Trung thi tập v.v… Cho nên, việc nghiên cứu tư tưởng vua Trần Nhân Tông không phải dễ dàng gì. Tuy nhiên, căn cứ vào những gì hiện còn được lưu lại, ta có thể phác họa sơ qua một số vấn đề mà vua Trần Nhân Tông đã từng quan tâm suy nghĩ.
 
Thứ nhất, từ nhỏ vua Trần Nhân Tông đã quan tâm đến Phật giáo, nhưng khi lên nắm chính quyền, vấn đề đầu tiên là phải bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ và nền độc lập của tổ quốc. Vì thế, có thể dễ dàng thấy rằng vua Trần Nhân Tông phải tập trung suy nghĩ những vấn đề chính trị, kinh tế, ngoại giao và quân sự của đất nước. Phải đưa ra được một sách lược tổng quát để có thể chiến thắng trong cuộc chiến đấu với kẻ thù. Việc chiến đấu với kẻ thù trong hai cuộc chiến tranh giữ nước năm 1285 và 1288 đã hoàn toàn thắng lợi, như đã trình bày ở trên. Thế thì, phương lược tổng quát chỉ đạo cho hai cuộc chiến tranh đó là gì? Câu trả lời tất nhiên là phải huy động mọi tiềm lực dân tộc cho cuộc chiến đấu. Nhưng tiềm lực dân tộc là gì và huy động làm sao?
 
Tư tưởng đoàn kết

Tiềm lực dân tộc trước hết nằm ở lòng yêu nước của mọi người dân không phân biệt thành phần xã hội, tuổi tác, tôn giáo, nguồn gốc dân tộc. Chính xuyên qua chủ trương này, mà ta thấy trong các đội quân tiến đánh quân Nguyên của vua Trần Nhân Tông có những người thuộc dòng dõi thân vương như Trần Quang Khải, Trần Hưng Đạo, Trần Quốc Tung...; có những người xuất phát từ dân thường như Phạm Ngũ Lão, Nguyễn Khoái...; nhưng cũng có những người là nô tỳ như Yết Kiêu, Dã Tượng; có những người còn rất trẻ như Trần Quốc Toản, nhưng cũng có những người rất già như các vị bô lão tham gia hội nghị Diên Hồng với tiếng hô “quyết chiến”; có những người thuộc các dân tộc thiểu số, như Hà Đặc, Hà Chương, có những đạo sĩ ngoại quốc như Hứa Tông Đạo, thậm chí có những người là tướng tá của kẻ thù như Trương Hiển... Có được một sự tập hợp rộng rãi các thành phần dân tộc khác nhau như thế phải xuất phát từ một chính sách đoàn kết rộng lớn.
 
Nhưng chính sách đoàn kết này chỉ có thể thực hiện được, khi người dân và người lãnh đạo đất nước có cùng chung một quyền lợi để bảo vệ và một đối tượng để chiến đấu. Trong lời Hịch gửi tướng lĩnh, sĩ quan và binh sĩ, Trần Hưng Đạo đã thay lời Trần Nhân Tông nói rõ điểm này: “Các ngươi ở lâu dưới trướng, nắm giữ binh quyền, không có áo mặc thì ta cho áo, không có ăn thì ta cho cơm, quan thấp thì ta thăng tước, lộc ít thì ta cấp lương, đi thủy thì ta cho thuyền, đi bộ thì ta cho ngựa, lúc ra quân thì cùng nhau sống chết, lúc ở nhà thì cùng nhau vui cười. So với Công Kiên đãi đám tỳ tướng, Ngột Lang đãi kẻ phụ tá, nào có kém gì? Nay các ngươi ngồi nhìn chúa nhục mà không biết lo, thân chịu quốc sỉ mà không biết thẹn, làm tướng triều đình đứng hầu quân mọi mà không biết tức, nghe nhạc thái thường đãi yến sứ ngụy mà không biết giận.
 
Có kẻ lấy việc chọi gà làm vui. Có kẻ lấy việc đánh bạc làm thú. Có kẻ chăm lo vườn ruộng cung phụng gia đình. Có kẻ quyến luyến vợ con để thỏa lòng vị kỷ. Có kẻ tính đường sản nghiệp mà quên việc nước việc quân. Có kẻ ham trò săn bắn mà nhác tập công tập thủ. Có kẻ thích rượu ngon. Có kẻ mê hát nhảm. Nếu bất chợt giặc Mông thát tràn sang, thì cựa gà trống không đủ đâm thủng giáp giặc, mẹo cờ bạc không đủ làm mưu nhà binh, vườn ruộng giàu không đủ chuộc tấm thân ngàn vàng, vợ con lắm không đủ sung dụng việc nước, của cải nhiều không đủ mua được đầu giặc, chó săn khỏe không đủ đuổi được bọn thù. Rượu ngon không đủ để làm giặc say chết, hát hay không đủ để giặc điếc tai.
 
Lúc bấy giờ, chúa tôi nhà ta đều cùng bị bắt, đau xót biết chừng nào. Không chỉ thái ấp của ta bị mất, mà bổng lộc các ngươi cũng thuộc về kẻ khác; không chỉ gia quyến ta bị đuổi, mà vợ con các ngươi cũng bị kẻ khác bắt đi; không chỉ xã tắc tổ tông ta bị kẻ khác dày xéo, mà phần mộ cha mẹ các ngươi bị kẻ khác bới đào; không chỉ thân ta kiếp này bị nhục dù đến trăm năm sau tiếng nhơ không rửa tên xấu còn lưu, mà gia thanh các ngươi cũng không khỏi mang danh là tướng bại trận. Lúc bấy giờ, dẫu các ngươi muốn vui chơi thỏa thích, phỏng có được chăng”.
 
Trần Hưng Đạo đã vạch ra sự thống nhất quyền lợi giữa những người lãnh đạo đất nước và những người dân bình thường. Đây chính là cơ sở của sự đoàn kết toàn dân. Mọi người đều thấy mình có cùng chung một quyền lợi để chia sẻ và do thế phải được cùng nhau bảo vệ. Sự tồn tại của quyền lợi người này là điều kiện và tiền đề để cho quyền lợi người khác tồn tại. Quan hệ biện chứng với quyền lợi này đã xây dựng nên ý thức về sự cùng chung một đất nước, một cộng đồng để mến yêu. Và thực tế, yêu nước chính là yêu gia đình, cha mẹ, vợ con mình, là yêu phần mộ tổ tiên mình, là yêu không gian sông núi đất trời nơi mình đang sống. Có thể nói, Trần Hưng Đạo, lần đầu tiên bằng minh văn, đã chỉ ra rõ ràng những yếu tố tạo nên lòng yêu nước một cách khách quan và có thể hiểu được.
 
Chính xuất phát từ một nhận thức như thế, trong việc chuẩn bị cho hai cuộc chiến tranh cũng như sau khi hòa bình lập lại, vua Trần Nhân Tông, thông qua chính sách hành chíữnh cũng như qua bản thân cuộc sống của mình, đã thực hiện hàng loạt các biện pháp chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa nhằm xây dựng khối đoàn kết toàn dân ấy. Ta đã thấy vua có biện pháp phát triển đồng bộ nông nghiệp, thương nghiệp và thủ công nghiệp nhằm tạo cái ăn, cái mặc cho người dân. Vua Trần Nhân Tông giải quyết những vấn đề xã hội về tội phạm, về những mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân, để tạo nên một cuộc sống quan hệ xã hội thoải mái. Dưới thời vua Trần Nhân Tông, lần đầu tiên sử sách ta ghi lại việc đọc những chiếu chỉ triều đình không chỉ bằng tiếng Hán mà cả bằng tiếng Việt, tiếng nói hàng ngày của người Đại Việt thời bấy giờ, nhằm cho mọi tầng lớp người dân thuộc nhiều thành phần xã hội khác nhau có thể hiểu được nội dung những chính sách liên hệ đến số phận của họ.
 
Thực hiện tất cả những chính sách ấy, thực tế vua Trần Nhân Tông mới chỉ thể hiện vai trò một người lãnh đạo chính trị lý tưởng, mà nền Phật giáo thời Lý đã đúc kết nên thông qua bài viết của đại sư Giác Tính Hải Chiếu về danh tướng Phật tử Lý Thường Kiệt: “Ông bên trong thì sáng suốt khoan hòa, bên ngoài thì nhân từ giản dị. Cải tiến phong tục không sợ khó nhọc. Làm việc thì tiết kiệm, sai bảo dân thì ôn hòa, cho nên dân được nhờ cậy. Ông khoan hòa giúp đỡ dân chúng, cho nên được nhân dân kính trọng. Ông dùng oai vũ để diệt quân giặc. Ông đem lòng minh chính để giải quyết ngục tụng, cho nên ngục không quá lạm. Ông biết miếng ăn là trời của muôn dân, nghề nông là gốc của nhà nước, cho nên không làm lỡ thời vụ. Ông tài giỏi mà không khoe khoang, nuôi dưỡng đến cả người già ở nơi thôn dã, cho nên người già được yên ổn. Phép tắc của ông như thế, có thể gọi là cái gốc trị dân, cái thuật yên dân, có bao nhiêu điều tốt đều ở đấy cả”.
 
Không chỉ bằng lòng thực hiện các chính sách, mà ngay bản thân vua Trần Nhân Tông, trong cuộc sống hàng ngày của mình, cũng đã có những hành động thể hiện cụ thể một chính sách đoàn kết như thế. Ta đã thấy ĐVSKTT 5 tờ 61a4-8 ghi lại sự kiện “vua từng ngự chơi bên ngoài, giữa đường gặp gia đồng của các vương hầu, tất gọi rõ họ tên mà hỏi: ‘Chủ mày ở đâu?’ Răn bảo các vệ sĩ không được la đuổi. Khi về cung bèn gọi tả hữu bảo: ‘Ngày thường thì có tả hữu chầu hầu, tới khi quốc gia nhiều khó khăn thì chỉ bọn ấy có mặt thôi’. Bởi vì vua cảm tình sự hộ tùng của họ trong lúc loạn ly mà nói thế”.
 
Sự kiện này chứng tỏ vua Trần Nhân Tông không chỉ đánh giá cao những người lãnh đạo tài ba thuộc tầng lớp trên của xã hội, ngay cả những người dân thuộc tầng lớp thấp kém nhất, tầng lớp gia đồng, vua cũng có một đánh giá như thế. Tầng lớp này vào thời điểm ấy có thể không phải thuộc thành phần được học hành nhiều, có của cải khá, nhưng đối với sự tồn vong của quốc gia, họ vẫn có những đóng góp to lớn, thậm chí bằng chính cả xương máu của chính mình.
 
Đánh giá này của vua Trần Nhân Tông hình như có chung một cơ sở như khi Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn nói về người gia nô Yết Kiêu tại trận Nội Bàng, mà ta có dịp đề cập ở trên: “Ơi, chim hồng hộc có thể bay cao được, tất phải nhờ vào sáu trụ xương cánh. Nếu không có thì cũng như chim thường thôi”. Thời đại vua Trần Nhân Tông có lẽ là thời đại duy nhất trong lịch sử nước ta mà sự thủy chung có trước có sau, trong hoạn nạn cũng như trong vui sướng, đã được thể hiện rõ ràng và nhất quán. Nhà vua cần những người nô tỳ trong chiến tranh, thì sau chiến tranh, vua vẫn quan tâm đến cuộc sống của họ. Có thể chính sự quan tâm này, ngoài lý do an ninh, còn có lý do kinh tế làm cho vua Trần Nhân Tông lưu ý đến vùng Ô Mã và Việt Lý của Chiêm Thành.
 
Tuy viết sau thời vua Trần Nhân Tông gần cả trăm năm, An Nam Chí Nguyên đã nói tới tình trạng “xứ Giao Chỉ dân cư đông đúc, đất không đủ cày”. Và trước đó, vào năm 1266, vua Trần Thánh Tông đã cho phép các vương hầu, công chúa, phò mã, cung phi chiêu tập dân nghèo phiêu tán các địa phương làm nô tỳ để đi khai thác những vùng đất ruộng hoang hóa dọc theo các vùng biển, để lập các điền trang như ĐVSKTT 5 tờ 30a4-6 đã ghi:“Mùa đông tháng 10 (năm Bính Dần, 1266) xuống chiếu cho vương hầu, công chúa, phò mã và cung phi chiêu tập những người vô sản trôi dạt làm nô tỳ khai khẩn các ruộng hoang, lập làm điền trang, vương hầu có điền trang thực bắt đầu từ đây”.
 
Sự việc khai thác ruộng hoang như thế vào những năm 1266, đã chứng tỏ áp lực gia tăng dân số của Đại Việt đang trên đà phát triển. Và quá trình gia tăng dân số này có thể nói bắt đầu từ vua Lý Thánh Tông. Khi biết sáp nhập ba châu Địa Lý, Ma Linh và Bố Chính vào bản đồ Đại Việt, đồng thời với việc thành lập thiền phái Thảo Đường. Thiền phái Thảo Đường ra đời là nhằm yểm trợ và thỏa mãn yêu cầu của việc sáp nhập vừa nói. Đây là một vòng phát triển dân số lẩn quẩn. Nước Đại Việt sau 50 năm thanh bình với những chính sách khuyến nông, khuyến thương và phát triển thủ công nghiệp đúng đắn của các vua Lý Thái Tổ (1010-1028) và Lý Thái Tôn (1028 - 1054) đã phát triển dân số nước mình tới một mức mà đất đai khai thác được đã đạt đến giới hạn của nó. Thế là cuộc chinh phạt mở rộng biên cương bắt đầu, mà đỉnh cao là việc sáp nhập ba châu vừa nói.
 
Thế nhưng khi đã sáp nhập được ba châu ấy, thì việc gia tăng dân số phải được khuyến khích hơn nữa cho công cuộc khai thác những vùng đất mới sáp nhập này. Vậy là việc gia tăng dân số phải được khuyến khích nhằm thỏa mãn yêu cầu ấy. Việc gia tăng dân số này ngay vào những năm 1266, vua Trần Thánh Tông đã cảm thấy áp lực của nó. Cho nên ta không ngạc nhiên khi 40 năm sau vua Trần Nhân Tông đã sáp nhập 2 châu Ô Mã và Việt Lý. Một lần nữa, việc sáp nhập này đã làm áp lực dân số giảm đi ở Đại Việt. Song vì yêu cầu của công cuộc khai khẩn vùng đất mới sáp nhập và để tạo cho nó một nền an ninh tương đối vững chãi, thì việc khuyến khích gia tăng dân số lại được đặt ra. Từ đó, giống như sự ra đời của thiền phái Thảo Đường, thiền phái Trúc Lâm ra đời để làm chỗ dựa cho công tác phát triển dân số của nó.
 
 
Tư tưởng Cư trần lạc đạo

Ta sẽ thấy thiền phái này có ảnh hưởng mạnh mẽ song song với công cuộc Nam tiến của dân tộc Việt Nam. Trong lịch sử thi cử Việt Nam, nó là thiền phái duy nhất đã được đưa vào chương trình thi đình của thời Lê sơ. Cụ thể là đầu đề bài thi đình năm Cảnh Thống Nhâm Tuất (1502), đề thi này có cả thảy 47 câu hỏi, câu hỏi thứ 15 đã đặt ra thế này: “Điều Ngự và Huyền Quang truyền đạo gì mà được thành Phật làm tổ?”. Lê Ích Mộc (1459 -?) đã trả lời thế này: “Vả đem đời gần đây mà nói, về Thượng sĩ triều Trần thì có Tiêu Diêu, Tuệ Trung, Điều Ngự, Huyền Quang được pháp vô thượng, cho nên có thể gắn mình vào cảnh giới Di Đà, viết Thiền tông chỉ nam. Đó là cái đạo họ truyền lại vậy. Về sau ai hiểu được lẽ vô sinh, chứng tới thành niết bàn thì thành Phật làm tổ. Điều ấy cố nhiên là phải thôi”. Nhờ trả lời đề thi kiểu ấy, Lê Ích Mộc đã được lấy đỗ trạng nguyên.
 
Tư tưởng thiền phái Trúc Lâm như vậy đã trở thành một môn học chính quy và được các nhà vua thời Lê sơ quan tâm. Điều này nhìn từ phía mở rộng biên cương về phía Nam của dân tộc, ta thấy hoàn toàn dễ hiểu. Thiền phái Trúc Lâm ra đời là nhằm yểm trợ và thỏa mãn yêu cầu của chính sách Nam tiến của vua Trần Nhân Tông. Nhưng đến thời Lê sơ với những cuộc chinh phạt liên tục về phương nam, mà đỉnh cao là cuộc viễn chinh năm 1470, khi vua Lê Thánh Tông cắm cột mốc phía Nam của tổ quốc trên núi Đá Bia ở Phú Yên, thì yêu cầu gia tăng dân số ngày càng mạnh mẽ. Chính quyền Đại Việt cần đủ số dân để khai khẩn những vùng đất mới sáp nhập và tư tưởng thiền phái Trúc Lâm thỏa mãn yêu cầu này của chính quyền Đại Việt.
 
Vậy là sau chủ trương và đường lối đoàn kết dân tộc cho sự nghiệp giữ nước, thì tư tưởng thiền phái Trúc Lâm cho sự nghiệp Nam tiến của dân tộc là một đóng góp khác của vua Trần Nhân Tông cho lịch sử tư tưởng Việt Nam. Như ta đã thấy tư tưởng thiền phái này bắt nguồn từ thiền phái Thảo Đường do vua Lý Thánh Tông thành lập. Nó do thế có thể nói là một nối dài hay đúng hơn là một phát triển cao hơn của thiền phái Thảo Đường, nếu không nói là một hóa thân của thiền phái này. Điều đáng tiếc là toàn bộ tư liệu về thiền phái Thảo Đường ngày nay đã hoàn toàn bị tán thất. Ta chỉ còn một bản tên duy nhất ghi lại thế thứ của dòng thiền này và được chép vào cuối sách Thiền uyển tập anh. Vì vậy, mọi bàn cãi về hệ tư tưởng của dòng thiền này tốt lắm thì cũng chỉ là những suy đoán, từ đó dễ đưa đến những nhận định thiếu cơ sở, đôi khi sai lầm.
 
Dẫu thế, chỉ nhìn vào bản danh sách tên những thiền sư của phái thiền này từ người đầu tiên là vua Lý Thánh Tông cho đến vị thiền sư cuối cùng là phụng ngự Phạm Đẳng, ta thấy trong 5 thế hệ truyền thừa, thế hệ nào cũng có các cư sĩ thiền sư hiện diện và hầu như toàn bộ đều là viên chức nhà nước, tức là vua và quan. Có thế hệ, cư sĩ thiền sư chiếm tuyệt đại đa số. Thí dụ thế thứ 5 có 4 người thì 3 người là vua và quan, đó là hoàng đế Lý Cao Tông, xướng nhi quản giáp Nguyễn Thức và phụng ngự Phạm Đẳng. Vậy nhìn vào bảng danh sách này, điểm đầu tiên đập vào mắt ta chính là sự có mặt nổi trội của các cư sĩ thiền sư. Điều này có nghĩa dòng thiền Thảo Đường là một dòng thiền thế tục, tức dòng thiền chủ yếu phục vụ cho những người có cuộc sống trần gian phải gánh vác.
 
Điểm thứ hai mà bản danh sách đó đập vào mắt ta là thành phần xã hội của những vị thiền sư thuộc dòng thiền thế tục này. Họ chủ yếu là vua và quan. Ngoài vua ra thì không nói như Lý Thánh Tông, Lý Anh Tông, Lý Cao Tông, những người còn lại phần lớn được ghi rõ tên họ thế tục và chức tước trại triều đình, mà cao nhất là chức thái phó, và thấp nhất là chức xướng nhi quản giáp, một chức do Lý Thái Tổ thiết lập vào năm 1025. Và chính cũng thành phần xã hội này của dòng thiền Thảo Đường đã làm cho nó phải hóa thân thành thiền phái Trúc Lâm, bởi vì không lẽ nào một dòng thiền Phật giáo lại chỉ dành riêng cho một giai tầng xã hội. Có lẽ đây là điểm hạn chế đã làm dòng thiền thế tục Thảo Đường mất đi tính hấp dẫn của nó đối với quảng đại quần chúng. Khi tách ra khỏi bộ phận quảng đại quần chúng này, dòng thiền Thảo Đường chắc không thể nào tồn tại, mà phải hóa thân vào một dòng thiền mới. Dòng thiền mới này là Trúc Lâm Yên Tử.
 
Ta đã nói dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử có cội nguồn từ dòng thiền Thảo Đường. Nhưng để hình thành, dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử phải thu nhận không chỉ tinh hoa của quá khứ, mà còn tổng hợp được những cống hiến của thời đại mình. Ở trên, tại buổi giảng vào ngày mồng 9 tháng giêng nhuận năm Bính Ngọ (1306) vua Trần Nhân Tông đã cám ơn Vô Nhị Thượng Nhân và Tuệ Trung đại sĩ, là “ơn mưa pháp đã thấm tới cho cháu con được tắm gội”. Vô Nhị Thượng Nhân không ai khác hơn là vua Trần Thánh Tông như Thánh đăng ngữ lục cho ta biết. Còn Tuệ Trung đại sĩ thì chính là Tuệ Trung Trần Quốc Tung, người đã ấn chứng cho vua Trần Nhân Tông trong sự giác ngộ thiền, như chính vua đã ghi lại trong Thượng sĩ hành trạng.
 
Vua Trần Thánh Tông là người đã sinh thành vua Trần Nhân Tông, như vậy chắc chắn có một ảnh hưởng quyết định đối với sự hình thành và phát triển của tư tưởng Trần Nhân Tông. Thế thì, tư tưởng vua Trần Thánh Tông là gì. Một lần nữa, các tác phẩm của vua Trần Thánh Tông như Văn tập, Thiền tông liễu ngộ ca, Chí giá minh, Phóng ngư và Cừu tập ngày nay đã tán thất hết. Tuy nhiên, căn cứ một số bài thơ và đoạn văn còn lại tới ngày nay trong các tác phẩm như Thánh đăng ngữ lục, Việt âm thi tập, Toàn Việt thi lục..., ta có thể rút ra một số nhận định về tư tưởng Trần Thánh Tông như sau.
 
Thứ nhất, trong thơ văn Trần Thánh Tông thường xuất hiện tư tưởng thiền của Lý Cao. Chẳng hạn bài thơ đầu tiên do Thánh đăng ngữ lục tờ 12a8 - b3 chép lại của vua Trần Thánh Tông đọc thế này:
 
Bốn chục năm hơn một tấm lòng
Muôn trùng cửa ngục vượt ra xong
Động như hang trống gào vang gió
Tĩnh tựa hồ yên trăng sáng trong
Câu nọ năm huyền mình hiểu hết
Đường kia mười chữ mặc xáo xông
Có người hỏi tớ tin gì mới
Mây tại trời xanh nước ở thùng.
 
Câu cuối nguyên văn chữ Hán là:
 
Vân tại thanh thiên, thủy tại bình.
 
Câu này nguyên nằm trong bài tứ tuyệt do Lý Cao (772 - 841) viết để tặng cho thiền sư Dược Sơn Duy Nghiễm (751 - 834):
 
Luyện đắc thân hình tợ hạc hình,
Thiên chu tùng hạ lưỡng hàm kinh.
Ngã lai vấn đạo vô dư thuyết,
Vân tại thanh thiên, thủy tại bình.
 
Điều này chứng tỏ Trần Thánh Tông rất tâm đắc với những gì Lý Cao thể hiện trong thơ văn mình. Với nhân vật Lý Cao này, tuy là một Phật tử, đã có những bài điều trần lên án việc độ tăng và làm chùa to đúc Phật lớn, cho rằng những việc làm đó chẳng có công đức gì mà chỉ là những việc làm hút máu mỡ của dân. Đối với việc độ tăng, Lý Cao cho rằng: “Những môn đồ đạo Phật không chăn tằm mà quần áo đầy đủ, không cày bừa mà ăn uống sung túc, ngồi rỗi mà kẻ phục dịch có đến mấy nghìn trăm vạn người. Suy ra đủ biết tất có bao nhiêu người đói rét”. Đối với việc làm chùa, đúc tượng, ông lý luận những việc làm ấy tốn kém hơn xây dựng cung A phòng và đặt vấn đề: “Đó há chẳng phải đều lấy từ nhân tài vật lực của trăm họ mà ra đó sao?”. Ta sẽ thấy những từ vừa nêu đã xuất hiện trong nhận xét của Lê Văn Hưu (1230 -?) về việc làm chùa và độ tăng của Lý Thái Tổ do Ngô Sĩ Liên ghi lại trong ĐVSKTT 2 tờ 3b5 -4a5.
 
Lê Văn Hưu đã nói thế này: “Lý Thái Tổ lên ngôi vua mới được 2 năm, tông miếu chưa dựng, xã tắc chưa xây, mà trước đã dựng 8 chùa ở phủ Thiên Đức, lại trùng tu chùa quán ở các lộ, độ cho hơn 1000 người ở kinh đô làm sư, thì việc tiêu phí sức lực của cải không thể kể xiết. Của không phải do trời mưa xuống, sức chẳng phải của thần làm cho, há chẳng phải là khơi vét máu mỡ của dân ư? Khơi vét máu mỡ của dân mà có thể gọi là làm phước được ư? Vị chúa sáng nghiệp tự mình cần kiệm, còn sợ con cháu ngày sau xa xỉ lười nhác. Thế mà Thái Tổ để phép lại như vậy, trách gì con cháu đời sau chẳng xây tháp cao ngất trời, dựng cột chùa bằng đá chạm, chùa Phật lộng lẫy hơn cả cung vua. Đám dưới học theo, đến nỗi có kẻ hủy hoại thân thể, thay đổi y phục, bỏ cảử sản nghiệp, trốn cả bà con, trăm họ quá nửa là sư, trong nước đến đâu cũng có chùa, nguồn gốc há chẳng phải từ đó mà ra sao?”.
 
Đọc lời vừa bình luận của Lê Văn Hưu, người ta thường có ấn tượng đây là một lời phê phán Phật giáo và đặc biệt là Phật giáo nhà Lý, đứng trên quan điểm Nho giáo. Và trên thực tế hầu hết sách vở viết về Lê Văn Hưu đều có một nhận định chung như thế. Nhưng đó là một nhận định hoàn toàn sai lầm do không nghiên cứu đầy đủ hệ tư tưởng Phật giáo đời Trần. Nếu ai đã đọc tác phẩm của Lý Cao thì sẽ thấy ngay không chỉ tư tưởng mà ngay cả văn cú Lê Văn Hưu dùng trong lời bình luận vừa nêu, đã rút ra từ tác phẩm của Lý Cao. Vậy trong thời Trần, ít lắm là có hai tác giả ở nước ta đã chịu ảnh hưởng sâu đậm hệ tư tưởng Phật giáo của Lý Cao, đó là vua Trần Thánh Tông và Lê Văn Hưu. Đấy là chưa kể ảnh hưởng của Lý Cao đối với thơ của thiền sư Không Lộ (? - 1119) thường biết dưới bài Ngôn hoài.
 
Ta phải thấy Lê Văn Hưu viết bộ Đại Việt sử ký theo lệnh và dưới sự chỉ đạo của vua Trần Thánh Tông, như ĐVSKTT 5 tờ 33a8-b1 đã ghi: “Mùa xuân tháng giêng năm Nhâm Thân (1272) Hàn lâm viện học sĩ kiêm Quốc sử viện giám tu Lê Văn Hưu vâng lệnh viết xong Đại Việt sử ký từ Triệu Vũ Đế đến Lý Chiêu Hoàng gồm 30 quyển, dâng lên, vua xuống chiếu khen thưởng”.Đại Việt sử ký như thế là một bộ sử chính thức của nhà nước Đại Việt, cụ thể là nhà nước do vua Trần Thánh Tông lãnh đạo, tất nhiên phải phản ảnh quan điểm và lập trường viết sử của nhà nước này. Vì vậy ta không có gì ngạc nhiên khi tư tưởng và văn cú của Lý Cao đã xuất hiện trong thơ văn của Trần Thánh Tông và Lê Văn Hưu.
 
Dĩ nhiên vấn đề làm chùa và độ người cho đi tu không phải đến thời Trần Thánh Tông mới trở thành một vấn đề nổi cộm cần xử lý. Ngay từ cuối thời Lý, vào những năm đầu của thế kỷ thứ 13, Đàm Dĩ Mống đã đề nghị sa thải tăng đồ với lời lẽ hết sức thô bạo, mà Đại Việt sử lược 3 tờ 13a10-b2 đã ghi lại: “Nay Tăng đồ cùng với dịch phu quá nửa, bọn chúng tự kết bè đảng, dựng bậy thầy trò, tụ nhóm, ở bầy, làm nhiều việc dơ, hoặc ở giới trường tinh xá, ngang nhiên rượu thịt, hoặc tại thiền phòng tịnh viện, riêng tự gian dâm, ngày ẩn tối ra, như đàn cáo chuột. Chúng làm nát tục hư đạo, dần dần thành thói. Việc đó nếu không cấm, để lâu càng tệ thêm”.
 
Trong các tác phẩm của mình, Trần Thái Tông cũng đã nói đến tình trạng: “Khi tới chùa chiền, gần Phật gần kinh, mắt không thèm ngó, phòng tăng điện Phật, gặp gỡ gái trai, cuối mắt đầu mày, ham mê sắc dục, không kiêng Hộ Pháp, chẳng sợ Long Thần, trố mắt ham vui, đầu chưa từng cúi”, và “chẳng riêng người tục, cả đến thầy Tăng, kinh luận tranh giành, cùng nhau công kích, chê các sư trưởng, nhiếc đến mẹ cha, cỏ nhẫn lụi vàng, lửa độc rực cháy, buông lời đau vật, cất tiếng hại người, không nghĩ từ bi, không theo luật cấm, bàn thiền tựa thánh, trước cảnh như ngu, dẫu ở cửa không, chưa thành vô ngã”.
 
Tình trạng chùa chiền và tăng lữ Phật giáo thời vua Trần Thái Tông như thế. Cho nên, trong Phổ khuyến phát bồ đề tâm, Trần Thái Tông đã đưa ra chủ trương: “Chẳng hỏi đại ẩn tiểu ẩn, đâu phân tại gia xuất gia, chẳng nề tăng tục, chỉ cốt rõ lòng, vốn không nữ nam, cớ sao trước tướng. Người chưa hiểu chia bừa thành tam giáo, giác ngộ rồi cùng thấu một chữ tâm”. Chính xuất phát từ một chủ trương như vậy, Trần Thánh Tông và Lê Văn Hưu mới cho việc làm chùa xây tháp là “khơi vét máu mỡ của dân” và những kẻ xuất gia chỉ là những người “hủy hoại thân thể, thay đổi y phục, bỏ bê sản nghiệp, trốn tránh bà con”.
 
Lớn lên và được giáo dục trong một môi trường văn hóa như thế của gia đình, tất nhiên vua Trần Nhân Tông cảm thấy tính bức xúc của việc đề ra một giải pháp vừa có lợi cho nước cho dân, vừa có ích cho đạo. Và chính ở đây vai trò của Tuệ Trung Trần Quốc Tung trở nên quan trọng. Trong đoạn văn ghi lại kinh nghiệm ngộ đạo của mình qua cuộc đối thoại vào năm 1287 đã trích ở trên, vấn đề đặt ra hết sức cụ thể và thường gặp, đó là: “Chúng sinh quen với việc uống rượu ăn thịt thì làm sao tránh được tội báo?”. Đây là một thực tế ta có thể gặp ở bất cứ thời nào và ở bất cứ địa phương nào, chứ không phải chỉ là một thực tế của thời đại Trần Nhân Tông và tại quốc gia Đại Việt. Cách giải quyết thực tế này hết sức giản dị theo quan điểm của Tuệ Trung. Đó là đừng đặt nó thành vấn đề. Bản thân của việc uống rượu ăn thịt chẳng có gì là tội phúc trong đó cả. Đúng như Tuệ Trung đã trả lời:
 
Ăn cỏ với ăn thịt
Chúng sinh mỗi có thức
Xuân về trăm cỏ sinh
Chỗ nào thấy tội phúc.
 
Đến sau này, khi viết bản Cư trần lạc đạo phú, Trần Nhân Tông đã diễn tả lại quan điểm ấy một cách dễ hiểu hơn:
 
Ở đời vui đạo hãy tùy duyên
Đói cứ ăn đi mệt ngũ liền
Có báu trong nhà thôi khỏi kiếm
Vô tâm đối cảnh hỏi chi thiền.
 
Thế đã rõ, đối với Trần Nhân Tông, Phật giáo là cuộc sống, không có sự cách ly phân biệt, bởi vì Phật giáo là gì, nếu không phải đó là một quá trình đi tìm chân lý. Mà chân lý thì không nằm trong Phật giáo, mà nằm chính ngay ở giữa lòng cuộc sống. Nói một cách hình ảnh như trong kinh Kim cương, mà Phật giáo đời Trần coi như một bộ kinh cơ bản, thì giáo lý Phật giáo như ngón tay chỉ mặt trăng, như chiếc bè đưa người sang sông. Cho nên, ngay cả giáo lý Phật cũng phải buông bỏ, mới có thể giác ngộ được. Và cũng chính kinh này đã nhấn mạnh đến tư tưởng “tất cả pháp đều là Phật pháp”. Từ đó, ta không ngạc nhiên với chủ trương Cư trần lạc đạo (ở đời mà vui đạo) của vua Trần Nhân Tông.
 
 
Nội dung tư tưởng Cư trần lạc đạo
 
Bài phú viết về tư tưởng ở đời mà vui đạo này có tên chính thức là Cư trần lạc đạo phú, gồm 10 hội. Cho nên, trong bản thư mục của An Thiền viết vào đầu thế kỷ thứ 19 ở Đạo giáo nguyên lưu quyển thượng tờ 5a6, nó được gọi là Trần triều thập hội lục. Ngay câu mở đầu của hội thứ nhất, Trần Nhân Tông đã xác định cho ta biết phạm trù đời và đạo ở đây có nghĩa gì:
 
Mình ngồi thành thị
Nết dụng sơn lâm
 
(Hội thứ nhất)
 
Đời là thành thị, đạo là sơn lâm. Nhưng một con người dù ở thành thị, gánh vác bao nhiêu việc đời, song cách xử lý vấn đề của người ấy vẫn thanh tịnh trong sạch như ở núi rừng. Đây rõ ràng phản ảnh quan điểm “chẳng hỏi đại ẩn tiểu ẩn, không chia tại gia xuất gia”, mà Trần Thái Tông đã đề ra. Xưa nay ai cũng biết đại ẩn là sống ở thị thành mà vẫn giữ lòng mình trong sáng, còn tiểu ẩn là tránh vào núi rừng để trau dồi bản thân. Người Phật tử Việt Nam vào thời Trần, như thế, tùy vào thành phần xã hội, tùy theo khả năng, mà thể hiện đạo sống của mình ở giữa đời. Cho nên để giác ngộ, họ chỉ cần:
 
Dứt trừ nhân ngã,
Thì ra thực tướng kim cương
Dừng hết tham sân,
Mới làu lòng mầu viên giác.
 
(Hội thứ hai)
 
Từ đó, không có vấn đề phải tìm một nơi nào khác, ngoài chỗ mình đang sống, để tìm ra sự giác ngộ được. Nếu vào thời mình vua Trần Thái Tông đã nghe quốc sư Phù Vân nói tới việc “trong núi vốn không có Phật, Phật ở ngay trong lòng, lòng lặng mà hiểu, đó chính là chân Phật” thì khi viết Cư trần lạc đạo phú, vua Trần Nhân Tông cũng đã đồng tình:
 
Áng tư tài, tính sáng chẳng tham,
Há vì ở Cánh Diều Yên Tử
Rần thanh sắc, niệm dừng chẳng chuyển,
Lọ chi ngồi am Sạn non Đông.
 
Đâu phải vì sống ở trên núi Cánh Diều của Yên Tử hay tại am Sạn của Đông Sơn, mà người ta có thể giác ngộ được. Những nơi ấy có thể để cho ta ngắm nhìn vẻ đẹp của non sông, mà di dưỡng tinh thần, như Huyền Quang đã viết trong Vịnh Vân Yên tự phú:
 
Ta nay:
 
Ngồi đỉnh Vân Tiêu
Cưỡi chơi Cánh Diều
Coi Đông Sơn tựa hòn kim lục
Xem Đông Hải tựa miệng con ngao
 
Sự giác ngộ do thế phải tìm ở giữa cuộc đời. Đừng tìm nó trong rừng núi. Tuy nhiên,vua Trần Nhân Tông không phải đi đến chỗ cực đoan phủ nhận lợi ích của rừng núi và cuộc sống ở rùng núi. Bản thân vua Trần Nhân Tông đã nhiều lần vào sống những nơi rừng núi hoang dã như Yên Tử, Vũ Lâm. Trong Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca, vua Trần Nhân Tông đã tả lại cuộc sống rừng núi ấy:
 
Yên bề phận khó
Kiếm chốn dưỡng thân
Khuất tịch non cao
Náu mình sơn dã
Vượn mừng hủ hỷ
Làm bạn cùng ta
Vắng vẻ ngàn kia
Sanh lòng hỷ xả
 
Điểm quan trọng không phải là sống ở rừng núi hay thị thành. Vấn đề là làm sao giác ngộ được sự thật. Đấy là mấu chốt của vấn đề. Ta đã thấy sự giác ngộ có thể tìm thấy ở bất cứ nơi đâu, đặc biệt là chính giữa cuộc đời trần tục đầy những hệ lụy thế sự. Chính trong cuộc đời trần tục ấy mà giác ngộ được thì giá trị còn nâng lên gấp bội. Bởi vì bất cứ một đất nước nào cũng đều là một cộng đồng dân tộc với nhiều nghĩa vụ xã hội và liên đới trách nhiệm. Không ai có thể tồn tại bên ngoài xã hội. Do thế, vua Trần Nhân Tông đã ca ngợi và quý trọng một sự giác ngộ được thực hiện ở giữa cuộc đời đầy phiền lụy và liên đới ấy, mà bản thân vua là một thí dụ điển hình:
 
Trần tục mà nên, phúc ấy càng yêu hết tấc
Sơn lâm chẳng cốc, họa kia thực cả uổng công.
 
(Hội thứ ba)
 
Thực tế bản thân vua Trần Nhân Tông đã tìm thấy sự giác ngộ của mình chính trong những ngày rộn rịp nhất của cuộc đời mình khi đang ráo riết chuẩn bị để đối phó với cuộc chiến tranh do Hốt Tất Liệt tiến hành đối với nước ta vào mùa hè năm 1287. Thời điểm giác ngộ này lại xảy ra ngay sau khi mẹ vua Trần Nhân Tông vừa mất. Giữa bao nhiêu biến động và phiền toái của cuộc đời, con người vẫn tìm ra những giờ phút an nhàn tự tại cho bản thân mình. Đúng như Trần Nhân Tông đã nói:
 
Muôn nghiệp lặng, an nhàn thể tính
Nửa ngày rồi, tự tại thân tâm
 
Từ đó mọi người nếu đạt được “muôn nghiệp lặng” thì thể tính mình an nhàn. Sự giác ngộ đâu cần tách rời con người, và đức Phật ở ngay bên trong mỗi một chúng ta. Vua Trần Nhân Tông nói nếu mỗi một chúng ta sống có đạo đức nhân nghĩa, sống có kỷ luật và rộng lượng thì mỗi một chúng ta đều là những vị Phật Thích Ca, vị Phật Di Lặc
 
Tích nhân nghì, tu đạo đức
Ai hay này chẳng Thích Ca
Cầm giới hạnh, đoạn xan tham,
Chỉn thực ấy là Di Lặc.
 
(Hội thứ tư)
 
Như thế đâu chỉ có một vị Phật Thích Ca lịch sử và một vị Phật Di Lặc của tương lai. Người Phật giáo thời đại Trần Nhân Tông thấy mình có thể sống như những vị Phật này, nếu cùng với nhân nghĩa và đạo đức, họ có một cuộc sống giản dị:
 
Áo miễn chăn đầm ấm qua mùa
hoặc chằm hoặc xể
Cơm cùng cháo đói no đòi bữa
dầu bạc dầu thoa
 
(Hội thứ năm)
 
Đọc hai câu này ta nhớ đến sự kiện vua Trần Nhân Tông, sau khi cứ điểm Nội Bàng thất thủ vào cuối năm Giáp Thân, đã từ kinh thành đi ra Hải Đông gặp Trần Hưng Đạo, suốt ngày không ăn, đến chiều tối có tên tiểu tốt Trần Lai đem dâng cho vua một bát cơm gạo xấu, mà ĐVSKTT đã ghi lại ở trên. Người Phật tử Việt Nam, đến ngay như cả một vị vua, đã sống giản dị như thế, nhưng họ là những người:
 
Sạch giới lòng, dồi giới tướng,
nội ngoại nên Bồ Tát trang nghiêm
Ngay thờ chúa, thảo thờ cha,
đi đỗ mới trượng phu trung hiếu.
 
(Hội thứ sáu)
 
Mẫu người Phật tử Việt Nam thời Trần, như thế, là một mẫu người Bồ Tát trang nghiêm, là một mẫu người trượng phu trung hiếu. Bồ Tát dĩ nhiên là một phạm trù tư tưởng lớn của Phật giáo, còn trượng phu là một phạm trù của tư tưởng Nho giáo. Nhưng cứ đọc các tác phẩm Nho giáo nói về trượng phu, ta mới thấy những đóng góp mới của Trần Nhân Tông. Trong thiên Đằng Văn Công hạ của Mạnh tử ta được bảo rất rõ thế nào là một trượng phu: “Phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất, thử chi vị đại trượng phu” (giàu sang không thể mê hoặc, nghèo hèn không thể lay chuyển, uy vũ không thể khuất phục, đó gọi là đại trượng phu).
 
Trượng phu trong tư tưởng Nho giáo là thế, nhưng so với định nghĩa của Trần Nhân Tông ta thấy nội dung đó hạn hẹp và tủn mủn, bởi vì “ngay thờ chúa, thảo thờ cha”, một con người như thế tất không thể nào bị tác động bởi giàu sang nghèo hèn hay uy vũ. Nội hàm của phạm trù trượng phu trong tư tưởng Trần Nhân Tông do vậy tỏ ra rộng lớn và phong phú hơn nhiều. Đây là một thí dụ điển hình khác của việc tổ tiên ta có thể sử dụng một số từ ngữ Trung Quốc, mà khi đọc lên, thường gây ấn tượng mang sắc thái Nho giáo. Nhưng khi đi sâu vào phân tích, ta thấy những từ ngữ này mang một nội dung khác hẳn. Trước đây, chúng tôi đã thử phân tích tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi mà người ta thường cho là của Nho giáo, và đã đạt đến những kết luận hoàn toàn khác hẳn.
 
Từ đó mẫu người lý tưởng của Phật giáo Việt Nam lần đầu tiên được quy định một nội dung hết sức cụ thể. Họ không chỉ “sạch giới lòng, dồi giới tường”để trở nên “Bồ Tát trang nghiêm”, mà còn “ngay thờ chúa, thảo thờ cha” để thành những “trượng phu trung hiếu”. Đây có thể nói là một đúc kết về hình tượng người Việt Nam lý tưởng, chứ không phải chỉ của Phật giáo. Thực tế những người làm nên sự nghiệp oanh liệt của dân tộc ta vào thời Trần Nhân Tông có thể nói hầu hết đều là Phật tử, từ những vị lãnh đạo tối cao ở trung ương như Trần Hưng Đạo, Trần Quang Khải cho đến những người dân ở xã ấp như Lê Công Mạnh và anh em con cháu. Vì họ là những Bố Tát trang nghiêm nên đối với bản thân họ giữ gìn kỷ luật và sống cuộc sống có lý tưởng. Nhưng đồng thời họ cũng là những trượng phu trung hiếu, nên họ trung thành với tổ quốc, sống hiếu thảo với cha mẹ ông bà:
 
Vâng ơn Thánh, xót mẹ cha,
thờ thầy học đạo.
Mến đức Cồ, kiêng bùi ngọt,
cầm giới ăn chay.
 
(Hội thứ bảy)
 
Để có thể đóng góp cho xã hội qua những công tác cụ thể như bắc cầu, đóng đò với một tấm lòng hỷ xả, từ bi:
 
Dựng cầu đò, dồi chiền tháp,
Ngoại trang nghiêm sự tướng hãy tu.
Săn hỷ xả, nhuyễn từ bi
Nội tự tại kinh Lòng hằng đọc
 
(Hội thứ tám)
 
Sau hai cuộc chiến tranh do quân thù áp đặt vào những năm 1285 và 1288, bao nhiêu cơ sở hạ tầng của đất nước ta, đặc biệt là hệ thống cầu cống và bến đò, do yêu cầu tác chiến về phía ta cũng như sự tàn phá không tiếc thương của kẻ thù, đã bị hủy hoại gần hết. Thế mà trong lần đi sứ vào năm Chí Nguyên Nhâm Thìn (1292), tên phó sứ Trần Phu đã thấy ở kinh đô Thăng Long của Đại Việt những chiếc cầu bắc qua sông hùng vĩ. Y viết: “Từ sứ quán đi 60 dặm thì qua tới cầu An Hóa, lại đi một dặm thì đến phía bắc cầu Thanh Hóa. Trên cầu này là một ngôi nhà 19 gian” như ta đã thấy ở trên. Cả nước Đại Việt là một công trường xây dựng lớn sau chiến tranh. Người dân Đại Việt hăng say lao động để kiến tạo lại đất nước mình sau những năm chiến tranh gian khổ và mất mát.
 
Chính hình ảnh và khí thế của những con người lao động như thế đã đập vào mắt người lãnh đạo đất nước, để lại trong tâm khảm những ấn tượng khó phai mờ. Cho nên khi viết Cư trần lạc đạo phú, vua Trần Nhân Tông đã không quên đưa việc dựng cầu đò, xây chiền tháp để làm cho đất nước đẹp đẽ, trở thành một nhiệm vụ, một nghĩa vụ mà người Phật tử Việt Nam có bổn phận phải hoàn thành đối với tổ quốc. Và tổ quốc Việt Nam sau những năm tháng chiến tranh ấy đã trở thành một cõi đất Phật, mà trạng nguyên Huyền Quang Lý Tải Đạo đã diễn tả trong bài phú Vịnh chùa Vân Yên:
 
Phen những ôi!
Tây Trúc dường nào
Namchâu có mấy
Non Linh Thứu ai đem về đây
Cảnh Phi Lai mặt đà thấy đáy,
Vào chưng cõi Thánh thênh thênh
Thoát rẽ lòng phàm phây phấy
 
Đất nước Việt Nam vào thời ấy được nhìn như thế. Cho nên, người dân đã sẵn sàng hy sinh chiến đấu để bảo vệ, và cũng sẵn sàng hăng say xây dựng để kiến tạo một cõi Phật cho chính mình và con cháu. Người Phật tử Việt Nam vào thời ấy tuy có nhận định việc xây dựng chùa chiền là “khơi vét máu mỡ của dân”, nhưng không phải cực đoan đi đến chỗ phủ nhận việc xây dựng chùa chiền, hay chống lại một sự nghiệp như thế. Có lẽ trong tâm thức tầng lớp lãnh đạo Phật tử Việt Nam thời đó vẫn thấy chùa chiền là nơi để củng cố nền vững bền của đất nước. Phạm Sư Mạnh, người học trò xuất sắc của Chu Văn An (1292 -1371), đã viết về chùa Báo Thiên với những câu:
 
Trấn áp đông tây củng đế kỳ
Khuy nhiên nhất tháp độc nguy nguy
Sơn hà bất động kình thiên trụ
Kim cổ nan ma lập địa chu
 
(Trấn áp đông tây giữ đế đô
Ngang nhiên ngọn tháp vút lên nhô
Non sông vững chãi tay trời chống
Kim cổ dựng xây đất khó mờ)
 
 
Và gần hai trăm năm sau, vua Lê Thánh Tông vẫn viết về chùa Trấn Quốc trong cùng một mạch suy nghĩ như vậy:
 
Trung lập càn khôn vững đế đô
Mãng danh Trấn Quốc ở Tây Hồ
 
Cho nên, vua Trần Nhân Tông vẫn kêu gọi mọi người, không chỉ “dựng cầu đò”, mà còn phải “dồi chiền tháp”, vẫn đánh giá cao vai trò của chùa chiền trong đời sống văn hóa xã hội của người dân, như chính vua Trần Nhân Tông đã nhận xét:
 
Núi hoang rừng quạnh,
ấy là nơi dật sĩ tiêu dao.
Chiền vắng am thanh,
chỉn thực cảnh đạo nhân du hí
 
Quả vậy, dù nói gì thì nói, ngôi chùa trong một buổi chiều thu nào đó có thể đã gợi cho họ những cảm xúc man mác, mà bản thân vua Trần Nhân Tông đã trải qua:
 
Chùa cổ đìu hiu khuất khói thu
Thuyền câu chiều quạnh tiếng chuông đưa
Nước quang núi lặng bay âu trắng
Gió đứng mây đùa cây đỏ thưa
 
(Cổ tự thê lương thu ái ngoại
Ngư thuyền tiêu sắt mộ chung sơ
Thủy minh sơn tịnh bạch âu quá
Phong định vân nhàn hồng thụ sơ)
 
Nhưng dựng cầu đò, xây chiền tháp, người Phật tử Việt Nam thời Trần Nhân Tông vẫn không quên nhiệm vụ chủ yếu của mình là đi tìm sự giác ngộ thông qua chính cuộc sống trần thế của mình:
 
Rèn lòng làm Bụt,
chỉn xá tua một sức dồi mài.
Đãi cát kén vàng,
còn lại phải nhiều phen lựa lọc.
 
Song để “rèn lòng làm Bụt”, người Phật tử có nhiều cách. Có thể họ học theo lối của thiền sư Nam Tuyền Phổ Nguyện chém mèo, hoặc theo cách Tử Hồ Lợi Tung đuổi chó v..v...
 
Vương lão chém mèo,
rạt thảy lòng ngừa thủ tọa
Thầy Hồ khua chó,
trỏ xem trí nhẹ con giàng.

(Hội thứ chín)
 
Và còn nhiều phương pháp giác ngộ khác nhau nữa, mà vua Trần Nhân Tông đã dành cả hội thứ chín này để trình bày từ thời sơ tổ Đạt Ma gặp vua Vũ Đế nhà Lương cho đến thiền sư Linh Vân Chí Cần thấy hoa đào nở mà giác ngộ, đại sư Hương Nghiêm khi cuốc đất, hòn đá văng vào cây trúc, nghe tiếng gõ và hiểu được chuyện trước khi cha mẹ sinh ra ta là ai. Dù có nhiều phương pháp và phương thức giác ngộ khác nhau, nhưng chúng vẫn không khác nhau là mấy, vì chân lý giác ngộ là một:
 
Vậy cho hay:
Cơ quan tổ giáo
Tuy khác nhiều đàng
Chẳng cách mấy gang…
 
Sống đời mà vui đạo theo vua Trần Nhân Tông như thế là một cuộc sống thiền, có thể dùng các phương pháp thiền khác nhau để giác ngộ, chứ không gò bó vào bất cứ một lối thiền nhất định nào. Người hành giả có nhiều lựa chọn, nhưng điểm đến cuối cùng vẫn không thay đổi, đó là tìm sự giác ngộ trong đời sống thường ngày của mình, không phân biệt sơn lâm hay thành thị:
 
Tượng chúng ấy
Cốc một chân không
Dùng đòi căn khí
Nhân lòng ta vướng chấp khôn thông
Há cơ tổ nay còn thửa bí
Chúng tiểu thừa cốc hay chửa đến,
Bụt xá ngăn bảo sở hóa thành
Đấng thượng sĩ chứng thực mà nên
Ai ghẻ có sơn lâm thành thị

(Hội thứ 10)

Phương pháp thiền khác nhau là vì dùng cho những căn cơ khác nhau, nhưng chân lý là một. Nếu chúng ta chưa giác ngộ được thì vì bản thân mình chưa đạt tới chứ không phải vì các phương pháp Phật tổ bày ra mà không thực hiện được. Tất nhiên vua Trần Nhân Tông cũng giống như các thiền sư trước thời mình đều biết rõ thiền không phải dễ giác ngộ gì. Cho nên trong Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca vua đã nói tới tình trạng:
 
Phô người học đạo
Vô số nhiều thay
Trúc hóa nên rồng
Một hai là họa
 
Thực tế này không phải là mới. Một thiền sư Trung Quốc là Vĩnh Minh Diên Thọ (904 -975) cũng từng nói đến việc tu thiền “muôn người tu thì một người được”. Còn bản thân vua Trần Nhân Tông cũng thấy là vô số người tu thiền, nhưng chứng được thiền thì họa may có được một hai. Và chính ngay vua Trần Thái Tông cũng nói đến tình trạng những vị sư tu thiền là “bàn thiền tợ thánh, đối cảnh như ngu”. Lý do cho tình trạng này, vua Trần Nhân Tông đã chỉ ra cũng ở Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca:
 
Bởi lòng vờ vịt
Trỏ bắc làm nam
 
Chỉ ra như thế này ta thấy đâu đây như vang bóng câu trả lời của Pháp Minh cho hoàng đế Lý Miễu cách thời vua Trần Nhân Tông đã gần ngàn năm: “Ôm lấy chuyện bậy để hy vọng điều phải, giữ chặt việc giả để chờ đợi sự chân, chần chờ hai lòng, trù trừ đôi ngả thì Phật dù có phóng quang động địa, ai mà có thể thấy cho ư?”. ([1]) Rõ ràng, lòng vờ vịt của vua Trần Nhân Tông chính là lối “chần chờ hai lòng, trù trừ đôi ngả” của những người muốn thấy Phật vào thời Lý Miễu. Một khi lòng dạ đã vậy, thì chắc chắn chỉ “ôm chuyện bậy mà mong điều phải, giữ việc giả để chờ sự chân”, ([2]) bảo đi về hướng bắc nhưng lại theo phương nam mà rảo bước. Thế thì làm sao mà hy vọng giác ngộ được.
 
Tuy nhiên, khi đã giác ngộ rồi, thì đâu có phân biệt gì sự khác nhau giữa sơn lâm và thành thị, giữa đạo và đời, giữa cuộc sống tĩnh lặng trong rừng núi và công việc xô bồ ở phố phường. Nội dung của tư tưởng Cư trần lạc đạo là thế. Nó được hình thành để thỏa mãn yêu cầu lý luận cho một giai đoạn Phật giáo mới, giai đoạn người Phật tử phải thực hiện nhiệm vụ dân tộc của mình, đồng thời phải tạo cho Phật giáo một sức sống mới bằng cách đưa giáo lý vào trong việc thực hiện nhiệm vụ dân tộc đó, mà bản thân vua Trần Nhân Tông là một điển hình nổi bật.
 
Ta đã thấy sau khi xuất gia “mặc cà sa, nằm trướng giấy” với “cà một vò, tương một hũ” ở tại núi Yên Tử, vua Trần Nhân Tông đã không bao giờ sao nhãng đối với các vấn đề đất nước, đặc biệt là vấn đề Chiêm Thành. Hai châu Ô, Lý đã trở thành đất đai Đại Việt trong thời gian vua đã xuất gia. Đây phải nói là một điểm sáng lạ kỳ trong đời sống của một người xuất gia như vua Trần Nhân Tông. Chưa bao giờ trong lịch sử Phật giáo ở nước ta hay ở bất cứ một nước nào khác, mà một người xuất gia lại có thể mở mang bờ cõi, và mở mang bờ cõi một cách hòa bình. Căn cứ vào giới luật của hàng Phật tử bình thường sống ở các chùa chiền, mà ta hay gặp, thì một người xuất gia không bao giờ được phép đi làm mai mối cho việc dựng vợ gả chồng. Những bộ luật như Tứ phần luật Tỳ kheo giới bổn ĐTK 1429 tờ 1016a15-17, Tứ phần luật ĐTK 1428 tờ 582c15-584a15, Di sa tắc ngũ phần giới bổn ĐTK 1422 tờ 195b3-1421, Di sa tắc bộ hòa ê ngũ phần mộc xoa giới bổn ĐTK 1421 tờ 12a16-13a11, Thập tụng Tỳ kheo Bala đề mộc xoa giới bổn ĐTK 1436 tờ 471b12-14, Thập tụng luật ĐTK 1435 tờ 18a11-20b6… tất cả đều thống nhất cấm việc người xuất gia làm mai mói ấy. Thế mà Hương Vân Đại Đầu Đà đã làm việc đó và đã làm một cách thành công. Tất nhiên, Phật giáo Việt Nam, đặc biệt là Phật giáo thiền tông, có những quy định giới luật của riêng mình, mà họ gọi là “quy ước thiền đường”, như nhan đề một cuốn sách của thiền sư Minh Giác Kỳ Phương (1682-1744) đã có và thường không liên hệ nhiều với loại giới luật bình thường khác.
 
Điểm đặc biệt thứ hai là sau khi đã làm mai mối thành công như thế, vua Trần Nhân Tông trở về Đại Việt gặp sự chống đối của hầu hết triều đình, đặc biệt là tầng lớp trí thức thời bấy giờ. Họ đã viết văn làm thơ để chê cười việc Hương Vân Đại Đầu Đà đem cô con gái cành vàng lá ngọc của mình gả cho vua Chiêm mà họ cho là tên mọi, một giống người hạ cấp. Quan điểm kỳ thị này hơn một trăm năm sau, những trí thức như Ngô Sĩ Liên vẫn tiếp tục bám lấy và lên tiếng bình luận:
 
 “Xưa Hán Cao Hoàng vì Hung Nô nhiều lần làm khổ biên giới, đem con gái nhà dân làm công chúa để gả cho thiền vu. Kết hôn với người không phải giống, tiên nho đã từng chê, song có ý muốn việc binh đao được chấm dứt và dân được yên. Điều đó còn có thể nói được. Nguyên Đế nhà Hán, nhân Hô Hàn đến, chầu xin làm rể nhà Hán, nhà Hán đem Vương Tường gả cho, cũng là có cớ. Còn Nhân Tông đem con gái gả cho chúa Chiêm Thành là nghĩa gì? Nếu nói nhân đi chơi, trót hứa, sợ thất tín, thì sao không đổi mệnh được ư? Vua giữ ngôi trời, còn Thượng hoàng thì đã xuất gia, vua đổi mệnh có khó gì, mà lại đem gả cho người xa không phải giống cho đúng lời hứa trước, rồi lại dùng mưu gian đánh cướp lại về sau, thế thì tín ở đâu?”.
 
Phải là một người thấm nhuần sâu sắc tư tưởng Phật giáo như vua Trần Nhân Tông mới có một cái nhìn bình đẳng về con người. Từ thời Mâu Tử, người Phật giáo đã sử dụng lý luận mọi người đều có tính Phật để bác bỏ tư tưởng kỳ thị của Đại Hán cùng sự hùa theo của đám nhà Nho để coi dân tộc ta là mọi rợ và người Hán là Hoa Hạ. Nghe lời bình luận vừa nêu của Ngô Sĩ Liên, ta vẫn còn thấy phảng phất thứ tư tưởng kỳ thị a dua ấy. May mắn cho dân tộc là vào lúc đó còn có các nhà lãnh đạo đất nước có trách nhiệm đã thấm nhuần sâu sắc giáo lý Phật giáo như Văn Túc Vương Trần Đạo Tải và Trần Khắc Chung đã quyết định việc này, và đưa đến một kết thúc êm đẹp. Công chúa Huyền Trân đã đi về nhà chồng và nhân dân Đại Việt không tốn một mũi tên, một người lính mà có thêm một dải đất trên 200 cây số.
 
Hệ tư tưởng của dòng thiền Trúc Lâm do vua Trần Nhân Tông sáng lập, như thế đã giải quyết một loạt các vấn đề đặt ra cho Phật giáo Việt Nam vào thời đó nhằm cơ bản thỏa mãn được các đòi hỏi của dân tộc, mà trước đó chưa được thỏa mãn. Ta đã thấy không phải vô cớ mà tư tưởng Cư trần lạc đạo đã được đề ra và xác định nội dung. Một lần nữa, hệ tư tưởng này đã được chứng minh là xuất phát từ thực tiễn của Đại Việt và có nhiệm vụ giải quyết những vấn đề do thực tiễn này phát sinh.
 

[1] Lê Mạnh Thát, Lịch sử Phật giáo Việt Nam, I, Tp. Hồ Chí Minh: Nxb. Tp. Hồ Chí Minh, 1999, tr. 428
[2] Lê Mạnh Thát, Lịch sử Phật giáo Việt Nam, I, Tp. Hồ Chí Minh: Nxb. Tp. Hồ Chí Minh, 1999, tr. 428
 
 
Lý thuyết nhà nước

Tư tưởng đoàn kết và Cư trần lạc đạo trước hết xuất phát từ yêu cầu của thực tiễn lịch sử Đại Việt thời vua Trần Nhân Tông. Nhưng đồng thời, chúng là những hệ luận tất yếu của học thuyết Nhà nước do vua Trần Nhân Tông đề ra. Học thuyết này, như sẽ thấy, không chỉ chi phối sự phát triển và xây dựng Nhà nước thời đại Trần Nhân Tông, mà còn đối với những Nhà nước của giai đoạn lịch sử tiếp theo cho tới ngày nay của đất nước ta. Thật vây, muốn sáng lập và xây dựng Nhà nước, chúng ta phải đoàn kết toàn dân. Mà muốn đoàn kết toàn dân, thì ta phải đáp ứng những yêu cầu bức thiết của họ. Những yêu cầu này, Cư trần lạc đạo phú đã nói tới, đó là mâu thuẫn người Đại Việt lý tương:
 
Sạch giới lòng, dồi giới tướng,
nội ngoại nên bồ tát trang nghiêm.
Ngay thờ chúa, thảo thờ cha,
đi đỗ mới trượng phu trung hiếu
 
Đây là những con người trung hiếu, biết xả thân vì nghĩa lớn, vì ddooongf bào, đồng loại của mình. Chính những con người này đã làm nên những chiến công vang dội Bạch Dằng, Hàm Tử, Chương Dương, đã xây dựng thành công một nước Đại Việt giàu mạnh, làm cho sứ giả quân thù phải:
 
Giáo sắt bóng người đau dạ thắm
Trống đồng tiếng dội bạc đầu xanh
 
Tất nhiên, họ là những con người cụ thể, không phải là thần thánh. Cho nên, khi nêu lên mẫu người lý tưởng trong diễn đạt tư tưởng Cư trần lạc đạo, cuối cùng, Trần Nhân Tông đã kết thúc bài phú của mình với bốn câu thơ:
 
Ở đời vui đạo, hãy tùy duyên
Đói cứ ăn đi mệt ngủ liền
Trong nhà có báu thôi tìm kiếm,
Đối cảnh vô tâm, chớ hỏi thiền
 
Đọc bốn câu thơ này, ấn tượng đầu tiên người ta thường có, đó là những câu thơ thiền, mà bất cứ thiền sư nào cũng có thể nói ra được. Thực tế, những sách vở viết về Trần Nhân Tông cũng làm như thế. Điều này không sai, nhưng không đủ. Đúng là Trần Nhân Tông tự nhận mình là thiền sư trong những năm cuối đời. Nhưng ta đừng quên rằng trong những năm làm thiền sư này, vua Trần Nhân Tông vẫn tiếp tục là một nhà kinh bang tế thế, là một nhà lãnh tụ chính trị, quân sự thiên tài củ đất nước. Nhà vua đã từng cầm quân đánh dẹp quan Ai Lao xâm phạm biên giới Tây Bắc của tổ quốc, đã hai lần đứng ra tiếp sứ bộ Bắc triều và đã vân du về phương Nam, biến hai châu Ô Mã, Việt Lý thành vùng đất thuận hóa đầy thơ mộng và sang trọng của đất nước. Cho nên bốn câu thơ trên không nên chỉ nhìn dưới con mắt của thiền sư “cà một vò, tương một một hũ”, mà còn được nhìn dưới nhãn quan của một nhà quân sự chính trị thiên tài.
 
Thực vậy, lý thuyết Nhà nước Đại Việt do ông nội mình là vua Trần Thái Tông nhận từ thiền sư Viên Chứng với câu nói nổi tiếng “phàm làm nhân quân thì phải lấy tấm lòng thiên hạ làm tấm lòng của mình, lấy ý muốn của thiên hạ làm ý muốn củ minh” đã được vận dụng nhuần nhuyễn trong việc xây dựng và bảo vệ thành công Nhà nước Đại Việt trong ba cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại những năm 1258, 1285 và 1287. Qua những tác phẩm của mình, vua Trần Thái Tông trăn trở để cụ thể hóa tấm lòng và ý muốn của thiên hạ là gì và ta cũng thấy nhà vua cứ trở đi trở lại những khía cạnh khác nhau của tấm lòng và ý muốn này. Tất nhiên, để đoàn kết toàn dân tộc cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước, thì đúng là phải lấy ý muốn xủa toàn dân tộc làm ý muốn của người lãnh đạo, đặt quyền lợi của người lãnh đạo thống nhất với quyền lợi của người dân, mà bài thơ Quốc tộ của thiền sư Pháp Thuận đã nói tới với hình ảnh bó mây và Hịch gởi tướng sỹ của Trần Hưng Đạo đã cụ thể hóa ra như đã thấy. Nhưng đấy mới chỉ là hình ảnh. Đến vua Trần Nhân Tông, với bốn câu thơ trên, vấn đề ý muốn, tấm lòng của thiên hạ là gì được giải quyết một cách dứt khoát và rõ ràng. Đó là, đói ăn, mệt ngủ.
 
Đói ăn, mệt ngủ là một sáo ngữ của thiền mà ta rất dễ gặp. Nhưng với tư cách là một nhà lãnh đạo chính trị thì đây là một nỗi trăn trở triền miên. Từ xưa tới nay, những nhà chính trị lớn của đất nước cũng như thế giới, ai cũng biết làm chính trị chính là lo cái ăn, cái mặc cho dân và đây là nỗi lo khôn nguôi của họ. Cho nên, đói phải có cái gì để ăn, mệt phải có nơi để nằm ngủ, điều này không phải dễ có đâu. Khắp cả thế giới cho đến hôm nay từ những nước giàu có nhất, vẫn xảy ra tình trạng thất nghiệp, những người không có nhà ở và mọi người đều nhìn nhận, đây là những mầm mống của bất ổn chính trị, của loạn lạc. Vì vậy, vua Trần Nhân Tông bảo chúng ta đừng hỏi nhà vua thiền là gì. Thiền chính là làm thế nào để ai đói thì có cơm để ăn, mệt thì có nơi để ngủ.
 
Lý thuyết nhà nước đói ăn mệt ngủ này, từ Trần Nhân Tông trở đi, đã trở thành nội dung của học thuyết xây dựng nhà nước Việt Nam cho đến ngày hôm nay. Nhà nước Việt Nam muốn tồn tại, phải biết lo cho cái ăn cái mặc của dân, nghĩa là phải đặt quyền lợi của người dân trên quyền lợi của cá nhân, dòng họ và tập thể mình. Đây phải nói là một đóng góp to lớn về mặt tư tưởng của vua Trần Nhân Tông đối với học thuyết chính trị nhà nước của dân tộc.
 
Trên đây chúng tôi chỉ nêu một số vấn đề cơ bản mà tư liệu hiện nay cho phép. Chúng tôi chưa bàn đến những vấn đề thuần túy chuyên môn liên hệ về thiền. Chẳng hạn vấn đề có không, mà trong buổi giảng cuối đông năm Giáp Thìn (1304) tại chùa Sùng Nghiêm, vua Trần Nhân Tông đã có một bài thơ dài thuyết giảng. Tất nhiên, về vấn đề này cuối cùng Trần Nhân Tông cũng nói nó là “như thế như thế”, nghĩa là, đòi hỏi người đối thoại tham học tự mình giải quyết lấy thông qua những gợi mở của người hướng đạo mình. Thực tế này, như vua Trần Nhân Tông đã trình bày trong Cư trần lạc đạo phú, chỉ để cho những “thượng sĩ thực chứng mà nên”. Những vị thượng sĩ này trong dòng thiền Trúc Lâm có thể thuộc nhiều thành phần xã hội khác nhau, không nhất thiết giới hạn chủ yếu trong các viên chức nhà nước.
 
Sau thời Trần Nhân Tông, Phật giáo đã phát triển theo hướng tư tưởng Cư trần lạc đạo này. Phật giáo không còn dành riêng cho bất cứ một bộ phận nào của xã hội, dù bộ phận đó có ưu tú tới đâu. Nó lan khắp mọi tầng lớp nhân dân, đúng như văn bia do Lê Quát viết cho chùa Thiệu Phúc ở Bái thôn thuộc lộ Bắc Giang vào năm 1270 và Ngô Sĩ Liên đã chép lại trong ĐVSKTT 7 tờ 36a3-b4 như sau: “Nhà Phật lấy họa phúc để cảm động lòng người, sau được người ta tin sâu bền như thế. Trên từ vương công cho đến dân thường, hễ bố thí vào việc Phật thì tuy đổ hết tiền của cũng không sẻn tiếc, ví như ngày nay gửi gắm vào tháp chùa thì trong lòng hớn hở như cầm được khoán ước để hưởng được sự báo ứng này về sau. Cho nên trong từ kinh thành ngoài đến châu phủ, cho đến thôn cùng ngõ hẻm, không bảo mà theo, không thề mà tin. Chỗ nào có nhà người ở, tất chỗ đó có chùa Phật, hỏng rồi lại xây, hư rồi lại sửa. Lâu đài chuông trống so với dân cư chiếm đến nửa phần. Đạo Phật thịnh rất dễ dàng, mà sự tôn sùng lại rất lớn. Ta tuổi trẻ đọc sách, khảo xét xưa nay cũng hiểu sơ được đạo Thánh hiền để giáo hóa dân này, mà rốt cuộc chưa thể làm cho một làng tin theo, từng dạo xem núi sông, dấu chân in đến nửa thiên hạ, mà tìm cái gọi là nhà học văn miếu, thì chưa từng có thấy một nơi. Ta do thế rất lấy làm xấu hổ với tín đồ nhà Phật, bèn viết ra đây để tỏ lòng”.
 
Sự hưng thịnh của Phật giáo cho đến cuối thế kỷ thứ 14, khi nhà Trần đã suy vong, chắc chắn đã xuất phát từ hệ tư tưởng Cư trần lạc đạo vừa nói. Phật giáo không dành riêng cho một bộ phận những người tu hành, cũng chẳng phải riêng một bộ phận quý tộc hay viên chức nhà nước. Phật giáo là của mọi người, khắp hang cùng ngõ hẻm, ở đâu có nhà dân thì ở đó có chùa Phật, như Lê Quát đã nói. Sự hưng thịnh này có sự đóng góp không nhỏ của vua Trần Nhân Tông và hệ tư tưởng của dòng thiền do vua sáng lập. Sự thật như thế, với minh văn như thế. Vậy mà vẫn có những người cứ bảo Phật giáo suy tàn vào cuối thời Trần. Đặc biệt, sau cái chết của thiền sư Huyền Quang (1254-1334) thì Phật giáo “thời hưng thịnh chấm dứt”. ([1])
 
Không những không hết một thời thịnh vượng, Phật giáo thiền phái Trúc Lâm còn phát triển mạnh mẻ, để chuẩn bị gánh vác trước dân tộc và đạo pháp những nhiệm vụ mới mà lịch sử đã giao phó. Lợi dụng lúc đất nước ta có vấn đề, bọn xâm lược Minh đã tràn qua. Thế là cả một dân tộc đứng lên cầm vũ khí, từ nhà sư như Phạm Ngọc, cho đến những Phật tử như Trần Trùng Quang, Lê Lợi, Nguyễn Trãi để đánh đuổi quân thù với kết cục là những chiến thắng Chi Lăng, Xương Giang vang dội đem lại nền độc lập cho tổ quốc và sự ra đời của nhà Lê. Phật giáo thiền Trúc Lâm Yên Tử do thế, đã tiếp tục sự nghiệp vì đạo vì dân của mình vào các triều đại sau với các nhân vật nổi bật như thiền sư Đạo Khiêm (? - 1445?), thiền sư Viên Thái (1400 - 1460?), trạng nguyên Lê Ích Mộc (1459 -?), thiền sư Pháp Tính (1470 - 1550?), thiền sư Thọ Tiên Diễn Khánh (1550 -1620?), thiền sư Chân An Tuệ Tĩnh (?-1711), thiền sư Chân Nguyên Tuệ Đăng (1648 - 1726) và đặc biệt thiền sư Hải Lượng Ngô Thời Nhiệm (1746 - 1803). Nhưng đây sẽ là chủ đề cho một nghiên cứu khác.
 

[1] Nguyễn Lang, Việt Nam Phật giáo sử luận, Sài gòn: Lá bối, 1974, tr. 377.
 
 
SỐ NGƯỜI TRUY CẬP: 0    USER ONLINE: 0