GẶP NHAU GIỮA THIỀN TÔNG VÀ THIỀN CỦA GIÁO LÝ NGUYÊN THỦY
Tất cả chúng ta đều đồng ý là, pháp tu của Đạo Phật, dù phương tiện có thể khác song cứu cánh phải gặp nhau. Nếu hai pháp tu mà phương tiện và cứu cánh đều khác biệt nhau thì, pháp nầy là Đạo Phật, pháp kia hẳn không phải Đạo Phật. Phật giáo Việt Nam đã mang sẵn hai pháp tu Thiền: Thiền Tông và Thiền Nguyên Thủy. Vậy sự gặp gỡ nhau như thế nào? Đây là mục tiêu chúng ta phải nghiên cứu. Theo thiển kiến chúng tôi thấy có những điểm gặp nhau, như dưới đây:
A.- Chủ Đích Ban Đầu Gặp Nhau
Thiền Tông va Thiền Nguyên Thủy đều thừa nhận đức Phật Thích Ca là Giáo Chủ, đồng kính thờ Ngài. Đậm nét nhất là mục đích xuất gia khi Ngài còn làm Thái Tử. Sau khi dạo bốn cửa thành, hình ảnh sanh già bệnh chết đã đập mạnh vào mắt Ngài, đã in sâu vào tâm não Ngài, sự bất lực của con người với luật vô thường, khiến Ngài phải băn khoăn thắc mắc. Ngài cương quyết tìm phương paháp giải thoát sanh già bệnh chết. Đây là vấn đề không tiền khoáng hậu, mà Ngài tự đạt ra cho mình. Từ đây, "phương pháp giải thoát sanh già bệnh chết" là vấn đề bức xúc nhất, thúc bách Ngài phải tìm phương giải quyết. Chính là động cơ chủ yếu thôi thúc Ngài vượt thành xuất gia. Sau khi xuất gia, Ngài gặp các Đạo Sĩ dạy tu Thiềnđịnh, cho đến cái định cuối cùng là Phi tưởng phi phi tưởng, song vẫn chưa giải quyết hoài bão Ngài cưu mang từ buổi ban đầu. Ngài từ giã họ, rồi bao nhiêu năm dò dẫm săn tìm, đến phút giây quyết định là đêm thứ 49, Ngài ngồi dưới cội Bồ Đề được giác ngộ viên mãn. Đến đây, Ngài đã thấy tường tận manh mối trói buộc lôi kéo chúng sanh vào đường sanh tử và biết rành rẽ phương pháp diệt trừ cắt đứt mọi mối dây trói buộc giải thoát sanh tử. Bài pháp Tứ Đế Ngài giảng đầu tiên tại vườn Lộc Uyển đủ minh chứng điều này. Thế là Ngài giải quyết xong vấn đề ôm ấp từ thuở ban sơ, tuyên bố thành Phật.
Thiền Tông nhắm thẳng mục đích ấy, thực hiện theo sở hành của Phật mà không hoàn toàn theo lời dạy của Phật. Lấy phương châm "Giải thoát sanh tử" làm kim chỉ nam. Đặt vấn đề "Làm sao giải thoát sanh tử? " làm công án, trăn trở thao thức nghiền ngẫm mãi vấn đề này, đến bao giờ vỡ tung mới thôi. Phải đạt đếncứu cánh thành Phật là mục tiêu cuối cùng. Vì thế, Tổ Bồ Đề Đạt Ma (Bodhidharma) dõng dạc tuyên bố: "Giáo ngoại biệt truyền bất lập văn tự, trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành Phật ". Lấy "Giải thoát sanh tử" làm chủ đề, đặt nghi vấn làm phương tiện tu, do dùi mài hun đúc mãi vấn đề này, khiến mọi tâm niêm lăng xăng tự phải dừng lại, đến khi thuần thục chín muồi vấn đề nổ tung là giác ngộ "giải thoát sanh tử". Chỗ này rất thích hợp với các nhà khoa học xưa nay, bởi nghi vấn nên tìm tòi nghiên cứu đến lúc chín muồi liền phát minh. Có khi vấn đề đặt ra chìm ngầm trong tiềm thức, như mạch nước chảy ngầm dưới đất, nhờ công phu thiền định đến mức tột cùng, bỗng dưng phát sáng, thấy rõ vấn đề mình ôm ấp từ trước, như nhờ đào sâu xoi thủng trúng mạch thì dòng nước vọt lên. Chính đây là hướng thực hành của Thái Tử Tất Đạt Đa thưở xưa.
Thiền Nguyên Thủy cũng nhằm mục đích giải thoát sanh tử. Phương tiện tiến tu dồn hết tư tưởng vào một đề mục, đi sâu mãi cho đến chứng sơ thiền, nhị thiền, tam thiền, tứ thiền, bước sang tam minh, cuối cùnggiác ngộ "giải thoát sanh tử", cụ thể bằng thấy rõ Tứ Đế. Như đoạn kinh Phật dạy:
"Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình thản như vậy, vị ấy dẫn tâm, hướng tâm đến lậu tận trí. Vị ấy biết như thật: "Đây là khổ", biết như thật: "Đây là nguyên nhân của khổ", biết như thật: "Đây là sự diệt khổ", biết như thật: "Đây là con đường đưa đến diệt khổ", biết như thật: "Đây là những lậu hoặc", biết như thật: "Đây là nguyên nhân của lậu hoặc", biết như thật: "Đây là đoạn trừ các lậu hoặc", biết như thật: "Đây là con đường đưa đến sự diệt trừ các lậu hoặc". Nhờ hiểu biết như vậy, nhận thức như vậy, tâm của vị ấy thoát khỏi dục lậu, thoát khỏi hữu lậu, thoát khỏi vô minh lậu. Đối với tự thân đã giải thoát như vậy, khởi lên sự hiểu biết: "Ta đã giải thoát". Vị ấy biết: "Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, những việc cần làm đã làm; sau đời hiện tại không có đời sốngnào khác nưã" (Trung bộ I., 278-279).
B.- Giới Định Tuệ Gặp Nhau
Thiền Tông đặt giới luật lên trên, cụ thể là Lục Tổ Huệ Năng ngộ đạo rồi vẫn thọ giới, sau mới hoằng hóa.
Thiền Tông ứng dụng theo hai lối tu:
1) Đặt nghi vấn để theo dõi
2) Nhìn lại mình, không theo vọng tưởng.
Đặt nghi vấn để theo dõi là khán Công Án hay Thoại Đầu. Khi theo dõi công án, mọi niệm lự dễ dừng lặng. Như khi ta đang thắc mắc về một vấn đề quan trọng thì mọi suy nghĩ khác đều tan. Dồn hết tâm tư trong một công án thì đối với dục lạc thế gian ta sẽ lơ là, giới luật đã nằm sẵn ở đây. Giống như nhiều nhà khoa học khi mải mê nghiên cứu một đề tài gì có lúc quên cả vợ con, ăn uống. Khi vấn đề đã thành khối thì ý thức chết lịm trong ấy, đấy là Định. Đến lúc chín muồi gặp duyên khối nghi tan vỡ, là thấu suốt được vấn đề mình bao năm theo dõi, gọi là ngộ đạo. Tức là giác ngộ mục đích mình tìm kiếm, đây là Huệ. Hầu hết những vấn đề đặt ra đều tối quan trọng như: Thế nào là Phật? Thế nào là Đại ý Phật Pháp? Thế nào là Kiến tánh thành Phật? Thế nào là ý Tổ Sư từ Tây sang?
Nhìn lại mình "Không theo vọng tưởng" gọi là "Phản quan tự kỷ", cũng gọi "Hồi quan phản chiếu", dùng trí quán sát tâm tư của mình. Mọi người đều nhận ý nghĩ lăng xăng là tâm mình, chạy theo nó tạo nghiệp không cùng. Ở đây hành giả trong mọi oai nghi tỉnh táo quan sát tâm niệm mình, "Thấy nó không theo", hoặc tìm xem nó phát xuất từ chỗ nào? Không theo thì nó lặng, tìm lại thì nó mất. Vận dụng trí tuệ quan sátthường xuyên khiến vọng tưởng không có cơ hội dong chạy, là giữ Giới. Vọng tưởng cùng đường không lối thoát, buộc chúng phải lặng yên là Định. Vọng tưởng đã sạch, trí tuệ hiện tiền là Huệ. Chỗ này Thiền SưHoài Hải (724-814) nói: "Tâm địa nhược không, huệ nhật tự chiếu". Đất tâm nếu không, mặt trời trí tuệ tự sáng. Lối tu này xuất phát từ Tổ Đạt Ma chỉ dạy Ngài Huệ Khả. Huệ Khả hỏi: "Tâm con không an, xin thầy dạy pháp an tâm". Tổ Đạt Ma bảo: "Đem tâm ta an cho". Huệ Khả sửng sốt tìm tâm không được, thưa: "Con tìm tâm không được". Tổ Đạt Ma bảo: "Ta an tâm cho ngươi rồi". Ngay đây Ngài Huệ Khả biết được lối vào. (Sử 33 vị Tổ, tr. 163)
Thiền Sư Đức Sơn (780-865) dạy chúng: "Các ông chớ cuồng, khuyên các ông không gì hơnThôi Hết đi, Vô Sự đi. Tâm vừa khởi một niệm tức là quyến thuộc nhà ma, là kẻ tục phá giới" (Trung Hoa Chư Thiền Đức II, 138). Cụ thể hóa lối tu này bằng hình ảnh "Mười Mục Chăn Trâu Thiền Tông" (Thập Mục Ngưu Đồ Thiền Tông).
Thiền Nguyên Thủy lấy Giới Định Huệ làm căn bản. Thiếu giới thì không định, không định thì chẳng phát huệ. Chúng ta đọc đoạn này trong kinh Sa Môn Quả (Trường Bộ I, 71):
"Vị ấy, với giới uẩn cao quý nầy, với sự hộ trì các căn cao quý nấy, với chánh niệm tự giác cao quý nầy, với hạnh biết đủ cao quý nầy, lựa một chỗ thanh vắng, tịch mịch, như rừng, gốc cây, khe núi, hang đá, bãi tha ma, lùm cây, ngoài trời, đống rơm. Sau khi đi khất thực về và ăn xong, vị ấy ngồi kiết già, lưng thẳng tại chỗ nói trên, và an trú chánh niệm trước mặt"... Với tâm định tỉnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình thản như vậy, vị Tỳ Kheo dẫn tâm, hướng tâm đến lậu tận trí. Vị ấy biết như thật: "Đây là Khổ"; biết như thật: "Đây là nguyên nhân khổ"; biết như thật: "Đây là sự diệt khổ"; biết như thật: "Đây là con đường đưa đến diệt khổ", biết như thật: "Đây là những lậu hoặc"; biết như thật: "Đây là nguyên nhân của lậu hoặc"; biết như thật: "Đây là sự diệt trừ các lậu hoặc". Nhờ hiểu biết như vậy, nhận thức như vậy, tâm của vị ấy thoát khỏi dục lậu, thoát khỏi hữu lậu, thoát khỏi vô minh lậu. Đối với tự thân đã giải thoát như vậy, khởi lên sự hiểu biết: "Ta đã giải thoát". Vị ấy biết: "Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, những việc cần làm đã làm; sau đời hiện tại, không có đời sống nào khác nưã" (Trường Bộ I. 82-83).
Đọc hai đoạn trên, chúng ta thấy từ Giới luật đầy đủ mới tu Thiền Định, từ Thiền Định đầy đủ mới phát Trí huệ sáng suốt thấy đúng như thật cội nguồn sanh tử và xuất ly sanh tử.
Thiền Tông và Thiền Nguyên Thủy đều gặp nhau ở chỗ khai thác Trí Vô Sư. Giáo lý nhà Phật chia hai thứ trí: Trí Hữu Sư và Trí Vô Sư. Trí Hữu Sư do học hỏi mà được, là sản phẩm của người khác truyền sang. Trí Vô Sư sẵn có nơi mình, chỉ khi nào mọi tâm lự đình chỉ thì tự phát hiện. Nếu con người tự mãn với Trí Hữu Sư mai kia chúng ta sẽ không thông minh bằng người máy. Vì khoa học ngày nay đã bắt chước tế bào não con người, chế biến các vi điện tử cũng có khả năng ghi nhớ những dữ kiện như não bộ con người. Nếu người ta phát vào não bộ người máy thật nhiều dữ kiện, nó sẽ biết nhiều, nhớ nhiều hơn chúng ta. Bao nhiêu kiến thức chúng ta thu thập được đều thuộc bên ngoài đưa vào, không phải là sự phát minh của Trí Vô Sư của chúng ta.
Thiền Tông bắt buộc thiền giả phải phát minh Trí Vô Sư, mọi kiến thức tiếp thu được bên ngoài đều thuộc vô thường, thuộc người khác, không phải chính mình. Qua câu chuyện đối đáp của hai Thiền Sư Nham Đầu Toàn Khoát (826-887) và Tuyết Nghĩa Phong Tồn (822-908) thấy rõ điều này.
- Tuyết Phong nói: "Tôi thật còn chưa ổn".
- Nham Đầu bảo: "Nếu ông thật như thế cứ chỗ thấy của ông mỗi mỗi thông qua, chỗ phải tôi sẽ chứng minh cho ông, chỗ không phải tôi sẽ vì ông đuổi dẹp".
- Tuyết Phong: "Khi tôi mới đến Diêm Quan thấy thượng đường nói nghĩa sắc không liền được chỗ vào".
- Nham Đầu: "Từ đây đến ba mươi năm rất kỵ không nên nói đến".
- Tuyết Phong: "Tôi thấy bài kệ của Động Sơn qua sông: Thiết kỵ tùng tha mích, điều điều dữ ngã sơ, cừ kim chánh thị ngã, ngã kim bất thị cừ".
- Nham Đầu: "Nếu cùng ấy tự cứu cũng chưa tột".
- Tuyết Phong, sau, hỏi Đức Sơn: Việc trong tông thừa từ trước con có phần chăng?
- Đức Sơn đánh một gậy hỏi: Nói cái gì? Tôi khi đó giống như thùng lũng đáy.
- Nham Đầu nạt: Ông chẳng nghe nói: "Từ cửa vào chẳng phải của báu trong nhà?"
- Tuyết Phong: Về sau làm thế nào mới phải?
- Nham Đầu: Về sau, nếu muốn xiển dương Đại Giáo, mỗi mỗi từ trong hông ngực mình lưu xuất, sau nầy cùng ta che trời che đất đi!
Tuyết Phong nhơn câu ấy đại ngộ liền đảnh lễ, đứng dậy kêu luôn: Sư huynh! Ngày nay mới là thành đạoở Ngao Sơn (Trung Hoa Chư Thiền Đức II. 203).
Thiền Nguyên Thủy cũng do mọi tâm niệm đều lặng sạch mới phát sanh trí tuệ. Trí tuệ này do định phát sanh nên thuộc Trí Vô Sư. Chúng ta nghe một đoạn Phật kể lại sự tu chứng của Ngài: "... Xả lạc xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng và trú thiền thứ tư, không khổ không lạc, xả niệm thanh tịnh... với tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ xử dụng, vững chắc, bình tĩnhnhư vậy, Ta dẫn tâm, hướng tâm đến Túc Mạng Minh. Ta nhớ đến các đời sống quá khứ, như một đời, hai đời..." (Trung Bộ I. 247).
Sau khi được xả niệm thanh tịnh, hướng tâm về quá khứ thì thấy rõ nhiều đời của quá khứ... Trí tuệ thấy rõ này không phải do suy xét mà được. Chỉ nhờ xả niệm thanh tịnh, nên thuộc Trí vô Sư.
C. Gặp Nhau Trên Lộ Trình Tu Tập
Thiền Tông nghiên cứu công án hay đề khởi thoại đầu cốt phải đến chỗ niêm mật, cho đến cô đọng thành một khối gọi là nghi tình. Khi nghi tình tan vỡ là thành tựu đáp án, cũng có nghĩa là ngộ đạo. Nếu dùng "Thấy vọng không theo" (phản quan tự kỷ) cũng phải hằng tỉnh hằng giác cho đến khi nào vọng niệm lặng hết thì kiến tánh ngộ đạo. Thiền sư Triệu Châu Tùng Thẩm (778-897) nói: "Một tâm chẳng sanh muôn pháp không lỗi. Ông cứ nghiên cứu lý này, ngồi quán sát hai ba mươi năm, nếu chẳng hội, chặt đầu lão tăng đi. Nhọc nhằn nắm bắt mộng huyễn không hoa, tâm nếu chẳng khác thì muôn pháp nhất như". (Trung Hoa Chư Thiền Đức I. 397)
Thiền Nguyên Thủy quán Tứ Niệm Xứ phải chuyên tâm cột niệm trong bốn Pháp sẽ được kết quả. Chúng ta nghe Phật dạy trong bài kinh Tứ Niệm Xứ:
"Nầy các Tỳ Kheo, đây là con đường độc nhất, đưa đến thanh tịnh cho chúng sanh, vượt khỏi sầu não, diệt trừ khổ ưu, thành tựu chánh trí, chứng ngộ Niết Bàn. Đó là Bốn Niệm Xứ".
"Thế nào là bốn? Nầy các Tỳ Kheo, ở đây vị Tỳ Kheo sống quán thân trên thân, tinh cần, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời; sống quán thọ trên các thọ, tinh cần tỉnh giác, chánh niệm để chế ngựtham ưu ở đời; sống quán tâm trên tâm, tinh cần tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời; sống quán pháp trên các pháp, tinh cần tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời ." (Trung Bộ I. 56 -57).
Cũng kinh Tứ Niệm Xứ Phật nói kết quả của Tỳ Kheo nào tinh cần như sau:
"Nầy các Tỳ Kheo, vị nào tu tập Bốn Niệm Xứ này như vậy trong bảy năm, vị ấy có thể chứng một trong hai quả sau đây: Một là chứng chánh trí ngay trong hiện tại, hay nếu còn hữu dư y, chứng quả Bất Hoàn.
Này các Tỳ Kheo không cần gì bảy năm, một vị Tỳ Kheo tu Bốn Niệm Xứ nầy như vậy trong sáu năm, trong năm năm, trong bốn năm, trong ba năm, trong hai năm, trong một năm, vị ấy có thể chứng một trong hai quả sau đây: Một là chứng chánh trí ngay trong hiện tại, hay nếu còn hữu dư y, chứng quả Bất Hoàn.
Này các Tỳ Kheo không cần gì một năm, một vị nào tu tập Bốn Niệm Xứ nầy trong bảy tháng, vị ấy có thể chứng một trong hai quả sau đây: Một là chứng chánh trí ngay trong hiện tại, hay nếu còn hữu dư y, chứng quả Bất Hoàn.
Nầy các Tỷ Kheo, đây là con đường độc nhất, đưa đến thanh tịnh cho chúng sanh, vượt khỏi sầu não, diệt trừ khổ ưu, thành tựu chánh trí, chứng ngộ Niết Bàn. Đó là Bốn Niệm Xứ". (Trung Bộ I. 62A)
Tuy phương pháp ứng dụng tu có khác, song đều phải nhiệt tâm tinh cần, kết quả sẽ đến không nghi. Thiền Tông nhìn thẳng tâm niệm mình, Thiền Nguyên Thủy tựa vào Tứ Niệm Xứ, dụng công tu cũng phải thiết tha thành khẩn như nhau, kết quả tâm niệm lặng hết sẽ ngộ đạo hay chứng Niết Bàn.
D. Thiền Tông Gặp Giáo Lý Nguyên Thủy.
Thiền Tông tu bằng cách xoay sáu căn trở về tự tánh của nó (Hồi quang phản chiếu). Bằng chứng khi Lục Tổ Huệ Năng (638-713 T.L) nghe Ngũ Tổ giảng kinh Kim Cang, đến câu: "Bất ưng trụ sắc sanh tâm, bất ưng trụ thanh hương, vị, xúc, pháp sanh tâm, ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm". Chẳng nên dính sắc sanh tâm, chẳng nên dính thanh, hương, vị, xúc, pháp sanh tâm, nên không chỗ dính mà sanh tâm kia: Tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Lục Tổ phát ngộ la lên: "Đâu ngờ tánh mình xưa nay thanh tịnh ! Đâu ngờ tánh mình vốn tự đầy đủ...". (Kinh Pháp Bảo Đàn, Phẩm Hành Do). Sáu căn không dính mắc với sáu trần là nguyên nhân đưa đến giác ngộ. Chính Trúc Lâm Đầu Đà (Trần Nhân Tông) định nghĩa Thiền Tôngmột cách đơn giản và cụ thể.
Trong bài kệ Hán văn kết thúc bài phú "Cư Trần Lạc Đạo " câu chót "Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền" . Đối cảnh không tâm là sáu căn tiếp đối sáu trần mà không dấy niệm chạy theo, Thiền là ngay nơi đó.
Các kinh Nguyên Thủy, Phật thường dạy sáu căn tiếp xúc sáu trần phải biết như thật tập khởi, sự chấm dứt, vị ngọt, sự nguy hại và sự xuất ly khỏi sáu căn. Nếu biết như thật rồi thì đâu còn chạy theo sáu trần, cũng là nguyên nhân chứng A La Hán hay Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Như bài kinh Phật dạy sau đây:
..." Nầy các Tỳ Kheo, có sáu căn này. Thế nào là sáu? Nhãn căn.... ý căn "
" Cho đến khi nào, nầy các Tỷ kheo, Ta chưa như thật chứng tri sự tập khởi, sự chấm dứt, vị ngọt, sự nguy hại và sự xuất ly khỏi sáu căn nầy, cho đến khi ấy, nầy các Tỳ Kheo. Ta không có biết rõ về sự chứng ngộ Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, đối các thế giới, Ma giới, Phạm Thiên giới, với các chúng Sa môn, Bà La Môn, Chư Thiên và loài người. Cho đến khi nào, nầy các Tỳ Kheo, Ta như thậtchứng tri sự tập khởi, sự chấm dứt, vị ngọt, sự nguy hại và sự xuất ly khỏi sáu căn nầy, cho đến khi ấy nầy các Tỳ Kheo. Ta mới nhận biết rõ ý nghĩa về sự chứng ngộ Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, đối với các thế giới, như Thiên giới, Ma giới, Phạm Thiên giới, với các chúng Sa môn, Bà La Môn, Chư Thiênvà loài người." (Tương Ưng Bộ V. 218-219)
Thiền Tông phản quan nội tâm, không theo vọng tưởng, không có pháp môn để tu. Mã Tổ Đạo Nhất (709-788) dạy chúng: "Các ông mỗi người tin tâm mình là Phật, tâm nầy tức là tâm Phật.
Tổ Đạt Ma từ Nam Ấn sang Trung Hoa truyền pháp thượng thừa nhất tâm, khiến các ông khai ngộ. Tổ lại dẫn kinh Lăng Già để ấn tâm địa chúng sanh. Sợ e các ngươi điên đảo không tự tin pháp tâm nầy mỗi người tự có, nên kinh Lăng Già nói "Phật nói tâm là chủ, cửa không là cửa pháp'' - Phật ngữ: tâm vi tông, vô môn vi pháp môn" (Trung Hoa Chư Thiền Đức I. 90). Thiền Sư Vô Nghiệp (760-821) đáp những câu hỏi của các Thiền khách, sư thường sử dụng câu: "Chớ vọng tưởng". Sư dạy chúng: "Chư Phật chưa từng ra đời, cũng không có một pháp dạy người, chỉ tùy bịnh cho thuốc nên có 12 phần giáo, như lấy chuối ngọt nhét thuốc đắng vào, cốt gột sạch gốc nghiệp cho các ông (Trung Hoa Chư Thiền Đức I. 237)". Đức Sơn Tuyên Giám (780-865) nói: "Tông ta không ngữ cú, thật không một pháp cho người".
Giáo lý Nguyên Thủy cũng có bài kinh "Có pháp môn nào?" tương tự Thiền Tông:
"Có pháp môn nào, do pháp môn ấy, Tỷ Kheo, ngoài lòng tin, ngoài ưa thích, ngoài lắng nghe, ngoài suy tư về phương pháp (akàraparitakka), ngoài kham nhẫn, thích thú biện luận (ditthini khànakhanti), có thể xác chứng chánh trí. Vị ấy biết rõ: "Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành. Những gì nên làm đã làm. Không còn trở lui trạng thái nầy nửa"?
-"Bạch Thế Tôn, đối với chúng con, pháp lấy Thế Tôn làm căn bản... "
"Có một pháp môn, nầy các Tỷ kheo, do pháp môn ấy, Tỷ kheo ngoài lòng tin, ngoài ưa thích, ngoài lắng nghe, ngoài kham nhẫn, thích thú biện luận, có thể xác chứng chánh trí. Vị ấy biết rõ: "Sanh đã tận... trạng thái nầy nữa"?
-"Pháp môn ấy là gì, do pháp môn ấy... không còn trở lui trạng thái nầy nữa".
"Ở đây nầy các Tỳ Kheo. Tỷ kheo mắt thấy sắc, biết rõ rằng: "Nội tâm ta không có tham, sân si". Nội tâmcó tham, sân, si biết rõ rằng: "Nội tâm ta có tham, sân, si"; hoặc biết rõ nội tâm không có tham, sân, si: "Nội tâm ta không có tham, sân, si". Nầy các Tỳ kheo khi mắt thấy sắc, hoặc nội tâm có tham sân si biết rõ: "Nội tâm ta có tham sân si"; nội tâm không có tham sân si biết rõ: "Nội tâm ta không có tham, sân, si". Nầy các Tỷ Kheo biết rõ chúng có mặt hay không có mặt trong tâm vị ấy, có phải chúng là những pháp do lòng tin được hiểu biết, hay do ưa thích được hiểu biết, hay do lắng nghe được hiểu biết, hay do suy tư về phương pháp được hiểu biết, hay do kham nhẫn, thích thú về biện luận được hiểu biết? "
-"Thưa không, bạch Thế Tôn ".
" Có phải pháp nầy, do thấy chúng với trí tuệ, nên được hiểu biết? "
- " Thưa phải, Bạch Thế Tôn.
"Đây là pháp môn, nầy các Tỷ Kheo, do pháp môn nầy, ngoài lòng tin, ngoài ưa thích, ngoài lắng nghe, ngoài suy tư về phương pháp, ngoài kham nhẫn, thích thú biện luận, có thể xác chứng với chánh trí. Vị ấy biết rõ: "Sanh đã tận.....không còn trở lui trạng thái nầy nữa..." (Tương ưng bộ IV. 146-147)
Qua bài kinh nầy, chúng ta thấy cụ thể có lối tu không dựa vào pháp môn. Chỉ phản quan lại tâm mình thấy đúng như thật, có tham sân si hay không tham sân si. Chủ yếu là đến không tham sân si. Tham sân si, Thiền Tông gọi là vọng tưởng, không tham sân si là hết vọng tưởng. Thế là hai bên gặp nhau ở chỗ "Phản quan tự kỷ" và kết cuộc đều đến chỗ giải thoát sanh tử. Chính quán sát nội tâm là trí tuệ, nhờ trí tuệ không bị phiền não dẫn, từ từ chúng lặng sạch.
E.- Chỗ Cứu Cánh Gặp Nhau
Thiền Nguyên Thủy tu qua tứ Thiền đến giác ngộ tứ đế là giải thoát sanh tử. Thiền Tông khi ngộ được Phật Tánh sạch hết mọi tập khí vọng tưởng cũng giải thoát sanh tử. Đây là chỗ cứu cánh hai bên gặp nhau. Chỉ khác nhau chỗ, Thiền Tông nói Phật Tánh, Pháp Thân, Bản Lai Diện Mục... còn Thiền Nguyên Thủy chỉ nói giải thoát không còn tái sanh đời sau. Tuy nhiên vẫn có bài kinh trong hệ Nguyên Thủy nói rõ có cái để giải thoát (Duk. 11.6) (It.37):
"Điều nầy đã được Thế Tôn nói đến, đã được bậc A La Hán nói đến, và tôi đã được nghe.
"Nầy các Tỳ Kheo, có cái không sanh, không hiện hữu, không tác thành, không làm ra (asankhatam). Nầy các Tỷ Kheo, nếu không có cái không sanh, không hiện hữu, không tác thành, không làm ra, thời ở đây không thể trình bày được sự xuất ly khỏi sanh, khỏi hiện hữu, khỏi tác thành, khỏi làm ra. Đó vì, nầy các Tỷ Kheo, có cái không sanh, không hiện hữu, không tác thành, không làm ra, nên có thể trình bày được sự xuất ly khỏi sanh, khỏi hiện hữu, khỏi tác thành, khỏi làm ra. Thế Tôn đã nói ý nghĩa nầy. Ở đây điều nầy được nói đến" (Tiểu Bộ I. 442 - 443).
Bao nhiêu cũng đủ minh chứng hệ Nguyên Thủy có cái để giải thoát khỏi sanh tử, mặc dù không nói tên ra. Như vậy Thiền Tông và Thiền Nguyên Thủy chỗ cứu cánh là gặp nhau. Chỉ có một điều, Thiền Tông đến chỗ giải thoát rồi không chịu an trụ nơi đó mà vẫn lưu nguyện lăn lộn độ sanh. Như trong "Mười mục chăn trâu", mục thứ chín là nhập Phật giới: Lá rụng về cội, mục thứ mười là vào Ma giới: Buông thõng tay vào chợ.
Để kết thúc bài nầy, chúng tôi nhận thấy từ mục đích ban đầu Thiền Tông và Thiền Nguyên Thủy đã gặp nhau, cho đến cứu cánh hai bên cũng gặp nhau. Chỉ có phương tiện hai bên có khác nhau. Trên lộ trình tu hành có gặp nhau cũng có khác nhau. Tuy nhiên trọng tâm hành đạo mục đích và cứu cánh gặp nhau, là chung một mục tiêu, chung một lý tưởng rồi. Phương tiện sai biệt, chỉ vì trình độ khác nhau thôi. Với thời gian ngắn ngủi, chúng tôi không đủ thì giờ nghiên cứu chín chắn, có nhiều điều sai sót không thể tránh được, mong quý vị chỉ bảo cho./.
(Trích: "Thiền Nguyên Thủy và Thiền Phát triển", Thiền Viện Vạn Hạnh, Sài gòn 1994)
__________________
• HT Thích Thanh Từ
Trần Nhân Tông Library
Giáo dục đào tạo
Nghiên cứu chuyên đề
GẶP NHAU GIỮA THIỀN TÔNG VÀ THIỀN CỦA GIÁO LÝ NGUYÊN THỦY
TRẦN NHÂN TÔNG VÀ BÀI HỌC TƯ TƯỞNG GIẢI PHÓNG NỘI LỰC
Quân vương Anh hùng, tu Thiền không thoát tục
Phật Hoàng nước Việt
Những nét siêu thoát của Phật Hoàng Trần Nhân Tông
Vua Trần Nhân Tông và tinh thần "Bụt ở trong nhà"
GẶP NHAU GIỮA THIỀN TÔNG VÀ THIỀN CỦA GIÁO LÝ NGUYÊN THỦY
2) Nhìn lại mình, không theo vọng tưởng.
TRẦN NHÂN TÔNG VÀ BÀI HỌC TƯ TƯỞNG GIẢI PHÓNG NỘI LỰC
Gió mát thổi đến dưới bóng cây thông
Giường thiền ở dưới gốc cây, kinh một quyển
Hai chữ thanh nhàn quý hơn vạn nén vàng
Nết dùng sơn lâm
Sơn lâm chẳng cốc (chẳng biết), họa kia thực cả đồ công.
Đói thì ăn, mệt thì ngủ
Trong nhà sẵn của báu, đừng tìm đâu khác
Đối diện với cảnh mà vô tâm thì không cần phải hỏi Thiền nữa.
Bất tùy xung mật báo thâm ân.
Không theo nghĩa lớn báo ơn dày.
Quân vương Anh hùng, tu Thiền không thoát tục
Hãy xuống núi lo tu hành, đừng coi sinh tử là nhàn!”, thông điệp ẩn Thiền ấy của Trần Nhân Tông trước phút lâm chung “dịch”ra ngôn ngữ thời @ của chúng ta nay, đại thể là: Đời người tấc gang như có như không, chớ sống hoài, sống phí!
Một biểu tượng còn ánh hào quang...
Lên ngôi năm 21 tuổi (1278), làm vua 14 năm, mới 34 tuổi, vua Trần Nhân Tông đã nhường ngôi cho con trưởng Trần Thuyên (Anh Tông) để lui về làm Thượng hoàng, lên non cao Yên Tử tu Thiền 9 năm rồi viên tịch ở tuổi mới ngũ tuần (1308).
Chừng đó thời gian vẫn đủ để Nhân Tông Trần Khâm kịp cùng quân dân Đại Việt 6-7 triệu nhân khẩu hai lần cả phá tổng cộng ngót 1 triệu quân xâm lược của đế quốc Nguyên - Mông, trở thành Anh hùng dân tộc; rồi sau lập ra Thiền phái Trúc Lâm riêng cho xứ sở, trở thành lãnh tụ tinh thần Phật giáo đương thời.
Trần Nhân Tông là thần tượng trong thời đại của Ông, là biểu tượng cao ngất toả hào quang mãi mãi của khí phách, tài trí và tâm hồn Đại Việt -Việt Nam ta.
Được Hoàng hậu Lý Thị sinh hạ vào 11/11 Giáp Ngọ 1258, trong hào quang Đại Việt vừa chiến thắng cuộc xâm lăng lần thứ nhất của quân Nguyên - Mông, hoàng tử Trần Khâm đựợc người đương thời khen là “có tinh anh của Thánh nhân”, nên “nhan sắc như vàng, thể chất hoàn toàn, thần khí tươi sáng, được gọi là Kim tiên đồng tử”.
Khi được vua cha Trần Thánh Tông nhường ngôi (1278), Ông đã được hưởng nền giaó dục đại học Nho học tinh hoa của Thăng Long và nền Phật học uyên thâm của Đại Việt đương thời, thông qua nhà Phật học lỗi lạc, là người bác anh thân mẫu Ông, Thiền sư Tuệ Trung.
Ông lại có cơ duyên lớn hiếm có, là đựợc “đứng trên vai” hai thế hệ cự phách, văn võ kiêm toàn của hoàng tộc Trần và nhân tài Đại Việt, mà cao lớn, để rồi lừng lẫy.
Trước mắt vị vua trẻ tuối, dưới thềm điện buổi đại lễ thiết triều, là Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, bố vợ Vua, tuổi mới ngoài 50, nhà chiến lược chính trị và nhà cầm quân kiệt xuất, lừng lững một cây cột trụ triều đình và xã tắc. Cùng với đó là những bậc tài trí nghiêng ngửa đương thời: Thượng tướng, Thái sư Trần Quang Khải, Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật, Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư, Thượng tướng quân Phạm Ngũ Lão, Tướng quân Nguyễn Chế Nghĩa…
Phía sau Ông, từ hành cung Tức Mặc phủ Thiên Trường (Nam Định), Thượng hoàng Thánh Tông nhường ngôi nhưng vẫn đầy quyền uy, dõi theo và đòi hỏi Ông nghiêm lệ, nước có biến thì lập tức lên kinh cùng con ứng biến. Vận khí nhà Trần đang thịnh. Thế nước đang lên. Lòng dân đang thuận. Thật diễm phúc cho bậc làm vua.
Đại lễ tưởng niệm 700 năm Phật Hoàng Trần Nhân Tông nhập niết bàn do Giáo hội Phật giáo Việt Nam (GHPGVN) phối hợp với Tỉnh hội Phật giáo Quảng Ninh tổ chức, diễn ra trong 3 ngày từ 25 đến 27-11 tại nhiều nơi của Quảng Ninh như: huyện Đông Triều, Yên Hưng, thị xã Uông Bí, Cẩm Phả.
Cùng với Đại lễ tưởng niệm còn có nhiều hoạt động như: dâng hương, tổ chức Đại trai đàn cầu siêu, hội thảo về thân thế sự nghiệp của Phật Hoàng Trần Nhân Tông và các hoạt động văn hoá - nghệ thuật.
Ông Phạm Hùng Sơn - Phó Giám đốc Sở Nội vụ Quảng Ninh, thành viên Thường trực Ban tổ chức cho biết: Đại lễ tưởng niệm sẽ diễn ra sáng 27-11 ở Quảng trường khai hội Yên Tử, thị xã Uông Bí với đoàn rước xe hoa, múa bài bông, Lục cúng hoa đăng và lễ cầu nguyện Thế giới hoà bình - Quốc thái dân an.
Trước đó, ngày 25-11, tổ chức dâng hương tại đền Cửa Ông, thị xã Cẩm Phả, chùa Quỳnh Lâm, huyện Đông Triều; khai mạc triển lãm thư pháp về các bài thơ, phú, kệ của Phật Hoàng Trần Nhân Tông; tổ chức Đại trai đàn cầu siêu liệt sỹ trận vong thời Trần và chư vị anh linh có công dựng nước và giữ nước tại huyện Yên Hưng và trai đàn Cúng Phật, cúng Tổ tại Yên Tử.
Sau Đại lễ tưởng niệm Phật Hoàng Trần Nhân Tông năm nay, GHPGVN và Tỉnh hội Phật giáo Quảng Ninh sẽ tiến tới đề nghị tổ chức ngày mất của ông (1-11-1308) hằng năm như Quốc giỗ của Phật giáo. Đây cũng là cơ sở để các cơ quan chức năng trình lên UNESCO công nhận Trần Nhân Tông là Danh nhân văn hóa thế giới. (Theo VOV)
Và Nhân Tông đã tỏ ra xứng đáng với xã tắc, triều thần và quân dân Đại Việt.
Trong số các vua Trần, Nhân Tông là người ba đào bậc nhất, vì thế có một đời sống phong phú trong gian lao, thân thì trải nhiều kiếp nạn hiểm nghèo, tâm thì trôi nổi nhiều cung bậc, cả bi thương, những lựa chọn đau đớn, lẫn hào sảng, hào hùng và vinh quang bậc nhất.
Ông từng rưng rưng cảm khái trước những điều lớn lao, cao cả của tinh thần Đại Việt. Thiếu niên Trần Quốc Toản không được dự bàn trong Hội nghị tướng soái trên bến Bình Than, tức khí bóp nát trái cam trong tay mà không biết. Sau về chiêu tập gia binh, đề cờ “Phá cường tặc, báo Hoàng ân” (Phá giặc dữ, báo ơn vua), đánh đâu thắng đấy.
Bô lão trăm họ do Thượng hoàng gọi đến, hội nhau trên thềm điện Diên Hồng, đồng thanh hô “Đánh!” vang rền như sấm. Quân sĩ thì thích bằng mực vào cánh tay hai chữ “Sát Thát”, thề quyết chiến đến cùng.
Bảo Nghĩa Vương Trần Bình Trọng bị giặc bắt, dụ hàng trên bãi Mạn Trù ( Hưng Yên), ngửa cổ cho chém mà dõng dạc “Ta thà làm ma nước Nam, không làm vua đất Bắc”!
Trái tim Ông cũng từng hai phen co thắt khi buộc phải lựa chọn phương sách lui binh vào Thiên Trường - Thanh Hoá, để bảo toàn lực lượng, đợi thời cơ phản công thủ thắng. Chiến trận bao giờ mà chẳng cần ở người chủ soái một ý chí lạnh lùng chất thép.
Vua nén nỗi đau, hai lần bỏ lại kinh đô hoa lệ như là biểu tượng của danh dự và văn hiến của vương triều, cho giặc tràn vào cướp phá. Đến nỗi khi thắng trận trở về, cung điện đã tan hoang, vua phải ngự ở hành lang thị vệ mà ban bố ý chỉ thời hậu chiến. Bi phẫn nữa, là phải để cho giặc kéo đến phủ Long Hưng ( Hưng Hà, Thái Bình nay), khai quật cả mồ mả tổ tiên. Đến nỗi khi thắng giặc, trước khi về lại kinh đô, hai Vua lập tức đến bên lăng mộ, cúi đầu làm lễ cáo tạ tổ tiên, và dâng đồ báo tiệp.
Trước hoạ xâm lăng, Vua Nhân Tông chỉ quyết đánh, không màng đến lời hoà, cùng tướng soái bàn mưu tính kế, cắt đặt tướng sĩ, hối thúc hội quân tập trận.
Hai hai lần kháng chiến gối tiếp nhau (1285, 1288), là hai lần Vua thân cầm quân xung trận ở mũi tiên phong. Ông từng phải lui binh chạy giăc khẩn cấp ngày đêm,sống chết gang tấc, ăn gió nằm sương.
Có lần trên bến Bình Than, được tì tướng chỉ có thể dâng cơm gạo hẩm, Vua đã khen, phong cho chức tước. Hết dong thuyền, ruổi ngựa, lại đi bộ lội đồng, leo núi, Vua và Thượng hoàng mới về tơí căn cứ Thiên Trường, ăn ở quân doanh lán trại gian lao như tướng sĩ…
Nhờ thế mà phản công đại phá quân giặc trên các bến Hàm Tử, Chương Dương, Tây Kết, Vạn Kiếp, trên bãi cọc Bạch Đằng…Những chiến công bất hủ của “hào khí Đông A” đã đưa tên đất, tên sông đi vào lịch sử.
Chính là do nước quật khởi, quân dân bất khuất, vua anh hùng, nên võ công đời Trần Nhân Tông hiển hách bậc nhất trong lịch sử nước nhà, Vua mới được ngước lên trời xanh xứ sở để tâm hồn thi sĩ ngân lên lời thơ hào sảng:
“Xã tắc hai phen chồn ngựa đá
Giang san muôn thưở vững âu vàng”
Trần Nhân Tông, Anh hùng của chiến trận, cũng là vị Vua giầu tâm Phật, thương xót trăm họ và sinh linh, nhân hậu, khoan dung. Năm mất mùa đói kém, Ông ra lệnh tha thuế, cho mở kho phát chẩn. Xã tắc vừa bình yên, Ông lập tức xuống chiếu đại xá cho thiên hạ.
Có vị quan dâng hòm sớ xin hàng giặc của những quan triều và người trong hoàng tộc, Vua lệnh đem đốt đi, thôi không hỏi đến, mà chỉ trị tội kẻ hèn ham phú quí đã quay dáo đánh lại quân nhà. Còn hàng vạn tù binh, Vua ra lệnh tha cho về nước. Lại mong về lâu về dài tránh hoạ binh đao, biên giới vừa khai thông, Vua đã sai sứ sang đất Bắc giữ tình hoà hảo…
Hẳn là hai phen xung sát, thây phơi đầy đồng, máu chảy ngầu sông, với vị Vua Phật đã là quá đủ. Ở tuổi 34, trên đỉnh vinh quang của một đấng quân vương, Nhân Tông đã nhường ngôi, lại không lui về hành cung Tức Mặc để giữ quyền uy và trông coi chính sự từ xa, mà để đến cửa Thiền.
Nhưng, lạ là Ông không lánh xa thế sự, không chỉ tu tâm dưỡng tính mong ngộ ra lẽ Chân Như mà giải thoát cho cá nhân Ông. Vua lên Yên Tử (1299), lấy Pháp danh Trúc Lâm đại sĩ, người ta gọi là Điều Ngự, là để làm cho trót sứ mạng một ông vua với xã tắc và trăm họ, theo cách mà tâm Phật và tuệ nhãn Phật học ở Ông, dẫn dắt.
Dấn thân, nhập thế
Ông bước trên đường Thiền như một cách dấn thân, nhập thế, bước vào thế giới của tư tưởng thời đại, mong làm tiếp công việc mà vua Thái Tông (Trần Cảnh) từng làm nhưng còn dang dở. Ấy là tìm ra triết lý để giữ nước và hưng thịnh dài lâu Đại Việt, giữa hai dòng tư tưởng Phật, Nho cùng đang thịnh hành thời ấy.
Nơi vua Trần Nhân Tông cùng với Tôn Tổ lập ra Thiền Phái Trúc Lâm
Vậy nên Ông lập ra, trở thành Tổ đời thứ nhất Thiền phái Trúc Lâm, truyền cho đông đảo học trò giáo lý và đạo pháp mang hơi thở của tinh thần dân tộc, “tuỳ duyên” (lẽ tự nhiên) mà cũng thuận theo tâm ý của chúng sinh. Sau thì trao pháp y cho Tổ đời thứ 2 là thiền sư Pháp Loa (sau đến Huyền Quang làm Tổ đời thứ 3).
Vơí việc lập Thiền phái Trúc Lâm, Nhân Tông - Điều Ngự đã qui các Thiền phái về một dòng riêng của Đại Việt, đã tụ giới sư sãi nước ta vào một mối tu Phật và hành đạo - theo cách nói ngày nay là thống nhất Giáo hội Phật giáo Đại Việt lúc bấy gìờ.
Vị lãnh tụ Phật giáo ấy suy niệm mà viết ra năm cuốn sách Thiền để làm bài giảng. Ông lại khó nhọc vân du khắp các chùa trong nước, mở các lớp giảng Thiền, những mong lấy “thập thiện” (mười điều Phật răn về cái Thiện) làm nền tảng đạo đức trong đời sống trần tục của trăm họ.
Ông còn chu du vào mãi phía nam, gặp chúa Chăm Pa, không để đàm đạo về Thiền, mà để ngỏ lời hứa gả Công chúa Huyền Trân cho chúa Chế Mân, ngõ hầu kết tình hoà hiếu tránh nạn binh đao.
Đường đời thì xa, đời người lại ngắn. Vào một ngày đông sương giá tháng 11năm Mậu Thân (1308), trong am Ngoạ Vân cô tịch, Vua Nhân Tông-đại sĩ Trúc Lâm Điều Ngự, viên tịch.
Phút lâm chung, không có ngự y và quần thần, mà chỉ có hai tỳ kheo là Tử Doanh và Hoàn Trung ở bên Vua. Vua còn kịp dặn: "Hãy xuống nuí lo tu hành, đừng coi sinh tử là nhàn!”.
Thông điệp ẩn Thiền ấy, “dịch”ra ngôn ngữ thời @ của chúng ta nay, đại thể là: Đời người tấc gang như có như không, chớ sống hoài, sống phí! Như bậc quân vương Anh hùng Nhân Tông Trần Khâm, từng sống.
| Thế Văn
Nguồn: http://www.giacngo.vn/chude/700namPHTranNhanTong/2008/11/27/57C212/
Phật Hoàng nước Việt
Như chúng ta biết Sử học Việt Nam đã dành những trang vàng sáng chói nhất để khắc họa lại toàn bộ cuộc đời và sự nghiệp của vua Trần Nhân Tông như một huyền sử có một không hai, về một đức vua mang đậm chất Phật hơn là chất đế vương. Ngoài một hoàng đế anh minh, một lãnh tụ thiên tài, một vị anh hùng dân tộc, Ngài còn là một thiền sư, một hiện thân Bồ tát đi vào cuộc đời thực hành hạnh nguyện độ sinh, trải thân trên con đường Phật đạo. Sống ở cõi trần mà không nhiễm mùi trần, vì lợi lạc quần sinh.
Một ngòi bút chưa thâm đạt công phu tu chứng như các bậc cổ đức thì có gan đâu mà dám lạm bàn về cuộc đời và công hạnh của Tổ sư. Song là tăng sĩ Việt Nam, đặc biệt là con cháu dòng thiền Trúc Lâm, chúng tôi luôn ngưỡng vọng về Tổ sư, nguyện khắc ghi công hạnh và di huấn của Ngài, học tập, hành trì, ngõ hầu thấu đạt những gì Phật Tổ đã một đời tâm huyết truyền trao.
Vì vậy nhân lễ kỷ niệm 700 năm ngày Tổ sư viên tịch, chúng tôi xin được cúi đầu tưởng niệm lại công đức của Ngài đối với dân tộc Việt Nam, tăng sĩ Việt Nam, như những đứa con đứa cháu về lại chốn Tổ dâng nén tâm hương, chân thành và xúc động khi tưởng nhớ về nguồn cội Tổ tiên.
A. Với dân tộc Việt Nam, Trần Nhân Tông là một vị minh quân tài đức vẹn toàn
Vua Trần Nhân Tông sinh ngày 11 tháng 11 năm Mậu Ngọ, niên hiệu Nguyên Phong thứ VIII (1258), là con trưởng của Thượng hoàng Thánh Tông và hoàng thái hậu Nguyên Thánh Thiên Cảm. Nhà vua đạo mạo trang nghiêm, nhan sắc như vàng nên khi mới sinh được vua cha đặt tên là Kim Phật. Vai bên tả có nốt ruồi đen, đó là dấu hiệu có thể gánh vác được việc lớn. Thánh Đăng Lục ghi: Năm 16 tuổi, được lập làm Hoàng Thái tử, Điều Ngự cố từ ba lần, xin cho em là Đức Việp thay mình nhưng đều không được. Vua cha gã trưởng nữ của Nguyên Từ Quốc mẫu cho làm vợ, tức là Thái hậu Khâm Từ. Duyên cầm sắc tuy hài hòa, nhưng lòng vua thì rất lạnh nhạt. Đủ thấy Trần Nhân Tông sinh ra đời không vì nghiệp lực câu thúc dẫn dắt mà do hạnh nguyện tự lợi, lợi tha để thành tựu Phật đạo.
Vua bẩm chất thông minh, học rộng, biết nhiều, rất uyên áo về Phật học nhờ được thụ giáo với Thượng sĩ Tuệ Trung. Năm 21 tuổi được Thượng hoàng Trần Thánh Tông truyền ngôi và chính thức trở thành Hoàng đế nước Việt vào năm 1279, lấy hiệu là Thiệu Bảo Nguyên Niên. Tuy ở ngôi chí tôn, vua vẫn giữ mình thanh tịnh, ban ngày làm việc triều chính, đêm về nghỉ ở chùa Tư Phúc trong nội thành. Ở ngôi 14 năm, Trần Nhân Tông quán triệt và thống lĩnh toàn dân xuất sắc trên mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, quân sự, ngoại giao, văn hóa… đưa nước nhà đi vào thời kỳ vàng son nhất của lịch sử.
1. Về chính trị
Tính đạo đức, nhân bản thể hiện rõ qua chính sách an dân và ổn định xã hội bằng việc “đại xá cho thiên hạ” nhân dịp tết Kỷ Mão năm Thiệu Bảo thứ nhất 1279, sau khi vua mới lên ngôi (ĐVSKTT). Ngoài ra nhà vua đã để lại trong lòng quân dân nước Việt thời ấy cũng như bây giờ một lấm lòng độ lượng bao dung, sẵn sàng tha thứ chớ không ôm ấp thù hận, nghi kỵ đối với các thế lực thù trong giặc ngoài, qua việc cho đốt hết hồ sơ những ai kết cấu với giặc, phản bội dân tộc trong lúc đất nước lâm nguy. Đây có lẽ nhờ nhà vua thấm nhuần tinh thần bi trí dũng trong đạo Phật vậy.
Vua cho giải quyết những oan ức, bất công tồn tại trong quần chúng một cách anh minh, chánh trực và nhanh chóng. ĐVSKTT kể lại có người đã đón xe vua, khiếu nại về kết quả một vụ án. Ngay trên đường, Vua sai chánh trưởng nội thư hỏa là Trần Hùng Thao giải quyết liền tức khắc. Cũng trong giai đoạn đó, Trịnh Giác Mật ở đạo Đà Giang làm phản, Vua sai Trần Nhật Duật đi dụ hàng. Trần Nhật Duật đã thành công và đem Mật cùng vợ con vào ra mắt vua, mà không mất một mũi tên.
2. Về kinh tế
Do khéo khuyến khích và huy động lực lượng nông dân, một năm sau khi lên ngôi, vào tháng 10 thì dân ta “được mùa to, lúa ruộng ở hương Trà Kiều thuộc Khoái Lộ một giò hai bông” như ĐVSKTT đã ghi. Để tạo điều kiện cho sự phát triển một nền thương mại quốc dân, năm Thiệu Bảo thứ hai 1280 vua Trần Nhân Tông đã “ban thước đo gỗ, đo lụa cùng một kiểu”, nhằm thống nhất hệ thống đo lường trong cả nước cho tiện việc buôn bán. Tháng 2 cùng năm, “xét duyệt sổ đinh và các sắc dịch trong nước”, để nắm dân số, tạo thuận lợi cho công ăn việc làm của người dân.
3. Về quân sự
Có thể nói vua Trần Nhân Tông đã trở thành ngôi sao Bắc Đẩu không chỉ đối với dân tộc Việt Nam mà là đối với cả thế giới về tài điều binh khiển tướng, thao lược quân sự, qua hai cuộc chiến thắng vang dội chống đội quân Nguyên Mông hung hãn nhất thời bấy giờ. Nhà vua đã vươn lên đến đỉnh cao của một vị minh quân, biết đặt ý muốn của toàn dân lên trên ý muốn của riêng mình, biết đặt vận mệnh của đất nước và dân tộc lên trên vận mệnh của mình, thoát khỏi chiếc võ quyền lực quân chủ vốn rất cố hữu của các bậc đế vương thời phong kiến.
Là một Phật tử thuần thành trong việc giữ gìn năm giới, nhất định nhà vua biết rõ khi cầm quân dẹp giặc phải mang tội sát sanh, nên Ngài đã không muốn xảy ra điều này. Tính dân tộc, dân chủ của vua Trần Nhân Tông thể hiện rất rõ qua hai cuộc hội nghị Bình Than và Diên Hồng để xin ý kiến toàn quân toàn dân về việc chống giặc ngoại xâm. Khi toàn dân đã quyết chiến, nhà vua thuận theo ý muốn của muôn dân, thân chinh trực tiếp chỉ huy, xông pha trận mạc, quên ăn bỏ ngủ, gối cỏ nằm sương cùng ba quân tướng sĩ, thề nguyền sống chết với đất nước quê hương. Cho đến bây giờ trang Quốc sử nước Việt vẫn còn đỏ thắm màu chiến công oanh liệt một thuở của Trần Nhân Tông và trên hết là màu tâm đan son sắc của một đấng quân vương biết quên mình vì đại nghĩa non sông.
4. Về ngoại giao
Ngoài việc đối phó với nhà Nguyên, chỉ mấy tháng sau khi lên ngôi, vua Trần Nhân Tông còn nghĩ đến vấn đề ngoại giao với Chiêm Thành, nỗ lực xây dựng một quan hệ hữu nghị thân thiết với quốc gia láng giềng nằm ở biên giới phía nam của tổ quốc. Bởi vì Chiêm Thành có một vị trí chiến lược đối với nền an ninh của nước Việt. Vua Trần Nhân Tông kiên quyết phải giữ cho được biên giới phía nam hòa bình và ổn định, không để cho kẻ địch ở phương Bắc có cơ hội khoét sâu, gây chia rẽ tình đoàn kết Việt - Chiêm. Nhà vua đã gã công chúa Huyền Trân cho vua Chiêm là Chế Mân cũng không ngoài mục đích này. Trần Nhân Tông quả thật sắc sảo mà nhân hậu trong đường lối chính trị cũng như ngoại giao.
5. Về văn hóa
Vua Trần Nhân Tông đã khẳng định người nước nam phải dùng tiếng nước nam, dân tộc ta có một nền văn hóa lâu đời cần được giữ gìn và phát huy. Với văn tài đậm đà chất Phật và chất thi, vua đã cho ra đời hai tác phẩm Cư trần lạc đạo phú và Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca bằng tiếng Nôm, như một tuyên ngôn độc lập về nền văn hóa của dân tộc ta. Sau này có thêm Vịnh Vân Yên tự phú của ngài Huyền Quang (1254 -1334) và Giáo tử phú của Mạc Đỉnh Chi (1284 -1361), nền văn học tiếng Việt mới có những tác phẩm đầu tiên hoàn chỉnh của mình còn được bảo tồn đến ngày nay. Do đó vị trí văn học của vua Trần Nhân Tông đối với dân tộc ta thật vô cùng lớn lao, sự đóng góp của nhà vua vào nền văn trị nước nhà mang đậm bản sắc văn hóa Việt Nam là điều không ai có thể phủ nhận.
Giá trị sự nghiệp văn học ấy dù trải qua thời gian dài với nhiều biến động lịch sử vẫn không hề phai mờ trong tâm thức dân ta. Chính người dân đã giữ gìn các tác phẩm của nhà vua và truyền trao lại cho người sau. Trong số hàng trăm hàng ngàn các tác phẩm tiếng Việt khác đã ra đời cùng thời, mà bây giờ ta chỉ biết tên, chứ không biết nội dung cụ thể là gì. Thật ra, hai tác phẩm trên được trân trọng và giữ gìn không chỉ do uy tín và văn tài của nhà vua mà còn vì giá trị tâm linh của nó. Có thể nói Cư trần lạc đạo phú là kim chỉ nam mà Phật giáo Việt Nam đã y cứ và dẫn đạo cho hàng triệu triệu người Phật tử Việt Nam thời vua Trần Nhân Tông cũng như sau này một con đường hướng thượng. Và Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca là bản kinh sống mở lối cho tăng sĩ Việt Nam xưa cũng như nay một đạo lộ đi đến bến bờ giải thoát an vui.
Đọc Trần Nhân Tông, chúng ta thấy ở đó một con người vừa đẹp đời vừa thấu đạo, vừa dũng mãnh kiên quyết vừa thâm trầm dung dị, vừa hòa quang đồng trần vừa an nhiên tĩnh tại. Thật là một vì sao sáng chói trong bầu trời văn học và Phật học Việt Nam.
B. Đối với Phật giáo Việt Nam, Trần Nhân Tông là một thiền sư, một Sơ Tổ Thiền phái Trúc Lâm, người đã khai sáng dòng thiền nước Việt.
1. Tính xuất thế:
Niên hiệu Trùng Hưng thứ IX (năm Quí Tỵ - 1293) Nhân Tông nhường ngôi cho con là Anh Tông. Sau vua xuất gia ở hành cung Vũ Lâm (chỗ này sử liệu ghi năm khác nhau DDVSKTT ghi năm 1294, Khâm định Việt sử thông giám cương mục ghi năm 1295, Thánh Đăng Lục ghi 1299 tại Yên Tử chứ không phải Vũ Lâm) rồi ra tu ở núi Yên Tử. Niên hiệu Hưng Long thứ VII (1299), vua cho dựng thảo am ở ngọn Tử Tiêu, núi Yên Tử, lấy hiệu là Hương Vân Đại Đầu Đà. Tại đây Ngài tu hành đắc đạo, thấu tột bản tâm và trở thành Sơ Tổ thiền phái Trúc Lâm, một dòng thiền hoàn toàn mang trái tim và hơi thở của tăng sĩ Việt Nam. Sau đó ngài kiến lập chùa Long Động để độ tăng và giảng dạy Phật pháp. Số học chúng tới thụ giáo có tới hàng ngàn người.
Con người của Sơ Tổ Trúc Lâm một khi đã làm việc gì quyết phải cho xong việc ấy. Lúc ở ngôi vua ngài làm tròn bổn phận của một vị vua, khi đi tu ngài phải thành tựu cho được bản nguyện của một người xuất gia là giác ngộ giải thoát. Suốt thời gian hạ thủ công phu tu hành, ngài không hề xuống núi. Tu hạnh đầu đà thì nhất định cuộc sống của thiền sư vô cùng đạm bạc. Từ một đấng quân vương ngồi trên ngôi cửu trùng, vậy mà ngài có thể dễ dàng phủi rũ tất cả, chỉ để sống một đời “vận giấy vận sồi” mà “thân lòng hỷ xả”. Xưa nay sơn tăng ở núi quả thật không nhiều, chớ đừng nói là quân vương xuất gia mà lại như thế. Trải qua năm năm miên mật tu trì, cuối cùng việc lớn đã xong, bài Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca là một thành quả vô giá mà Tổ sư dùng cả thân tâm mới có được và để lại làm kim chỉ nam cho tăng sĩ Việt Nam sau này.
Cương lĩnh tu hành duy nhất của Thiền phái Trúc Lâm mà Sơ Tổ thụ giáo từ Thượng Sĩ Tuệ Trung là “phản quan tự kỷ bổn phận sự” tức xoay lại chính mình là việc bổn phận chính yếu. Cương lĩnh này đã dẫn đạo cho Điều Ngự và thiền tăng Việt Nam từ 700 năm qua, cho tới ngày nay vẫn còn nguyên giá trị soi sáng trên con đường thực tu, thực chứng của hành giả tu thiền Việt Nam.
Hình ảnh vua Trần Nhân Tông đi tu có một ý nghĩa và giá trị ưu việt trong Phật pháp mà chúng ta cần biết rõ. Nếu như trong Cư trần lạc đạo phú, dường như Thượng hoàng chỉ khuyến khích người tu tại gia thì ở Đắc thú lâm truyền thành đạo ca, chúng ta thấy rõ với tư cách người xuất gia, đạt đạo, Ngài khuyên dạy hàng tu sĩ với ý chí xuất trần, phải tu hành thế nào mới đạt được kết quả viên mãn. Lại nữa, trong đạo Phật, người cư sĩ tại gia tu hành vẫn có thể ngộ đạo như người xuất gia, nhưng không thể đi truyền bá Phật pháp, phổ độ quần sanh như người xuất gia. Vua Trần Nhân Tông có duyên với Phật pháp từ thuở bé, đến khi làm Thái thượng hoàng, ngài làm việc một buổi, còn một buổi nghiên cứu kinh điển, thấu suốt được lý thiền nên mới viết được bài Phú cư trần lạc đạo. Song nếu giữ tư cách cư sĩ thì chỉ tự lợi cho mình và những người thân chung quanh, mà không truyền bá chánh pháp nơi đời được, nên Ngài quyết định xuất gia.
Hơn nữa, những ai có đi sâu trong đạo mới hiểu, đôi khi chúng ta biết rõ lẽ thật nhưng chưa sống được với lẽ thật. Tại sao? Vì ngoại duyên chung quanh ngăn trở, không cho phép chúng ta thực tập sống với lẽ thật ấy. Ngài Nhân Tông thấy rõ điều này nên quyết tâm vào núi rừng, sống lặng lẽ một mình, mới có cơ hội nhận ra được lẽ thật nơi chính mình. Khi sống được hoàn toàn với lẽ thật ấy rồi, ngài vui mừng tấu lên khúc ca thành đạo. Từ đó con đường truyền bá chánh pháp mới được mở ra. Ý nghĩa siêu thoát nằm ở chỗ này. Vì muốn nối tiếp ngọn đèn Phật Tổ, hướng dẫn mọi người tiến đến giải thoát sanh tử nên ngài xuất gia. Do ngài xuất gia nên những vị Tổ kế thừa ngài đều là người xuất gia cầu đạo giải thoát, có vậy Phật pháp mới không bị thế tục hóa.
Quả thật chân tinh thần Phật giáo Việt Nam đã được vua Trần thắp sáng bằng chính cuộc đời tu hành của ngài, không để cho người tu cầu đạo giải thoát trở thành hoen ố. Đó chính là điểm đặc biệt của Phật giáo đời Trần mà cũng là của Phật giáo Việt Nam. Rõ ràng chư Tổ nước ta không đi lệch với căn bản Phật giáo từ thuở ban đầu. Là tăng sĩ Việt Nam, chúng ta cần phải nắm thật vững ý nghĩa thâm sâu này và lấy đây làm phương châm tu hành cho giới tu sĩ Việt Nam.
2. Tính nhập thế
Một khi đạo quả viên thành, bấy giờ Sơ Tổ Trúc Lâm bước sang con đường hoằng pháp. Có thể nói Phật giáo đời Trần nổi bật nhất với hai con đường trái ngược nhau, mà thật ra là bổ sung cho nhau để thành tựu viên mãn hạnh nguyện tự giác, giác tha của người con Phật. Đó là con đường vừa xuất thế lại vừa nhập thế. Dòng thiền Trúc Lâm vì thế trở thành dòng thiền tinh khiết tuôn chảy vào đời, len lỏi bất cứ nơi đâu, đem ánh sáng Phật pháp đến cho mọi người, giúp chúng sanh hết khổ được vui. Cho nên không thể nói tu sĩ Phật giáo Việt Nam bi quan yếm thế, mà ngược lại rất lạc quan đến với cuộc đời bằng tâm hạnh rộng lớn an vui.
Niên hiệu Hưng Long thứ XII (1304), vua lấy đạo hiệu là Trúc Lâm Đầu Đà Điều Ngự Giác Hoàng, rồi cùng với đệ tử là tôn giả Pháp Loa và mười đồ đệ đi khắp thôn quê giảng pháp, khuyên dân bỏ mê tín, hủy dâm từ, thực hành giáo lý Thập Thiện, với mục đích xây dựng một xã hội đạo đức hoàn thiện, biến nhân gian trở thành cõi tịnh lạc. Vua còn mở Vô Lượng Pháp Hội tại chùa Phổ Minh bố thí tiền của, vải vóc, vật thực và trợ cấp cho những nơi mất mùa nghèo đói… Đây chính là việc làm thiết thực thể hiện lòng từ bi trong đạo Phật. Bởi vì trí tuệ và tình thương là hai yếu tố song hành không thể thiếu đối với một hành giả tu Phật.
Ngày 01/11/ năm Mậu Thân 1308, Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông an nhiên thị tịch, thọ 51 tuổi, sau khi đã hoàn thành tâm nguyện của mình. Tương truyền khi ấy hương thơm tỏa ngào ngạt, nhạc trời vang lừng, mây ngũ sắc tụ lại thành tán lọng che trên hỏa đàn trà tỳ của Tổ sư. Ngài thị hiện vào đời tu tập và lợi ích chúng sanh rồi lại theo luật vô thường từ giã Tăng Ni tứ chúng, thu thần nhập diệt theo Phật, để lại cho dân tộc Việt Nam một sự mất mát không gì có thể bù đắp nổi, cho Phật giáo đồ Việt Nam một hồi chuông thức tỉnh lay động đến tận tâm can mọi người.
Tất cả pháp chẳng sanh,
Tất cả pháp chẳng diệt,
Nếu hay hiểu như thế,
Chư Phật thường hiện tiền.
Đối với Ngài, một thiền sư liễu đạt vạn pháp giai không thì cuộc sanh tử này chỉ là thế thôi, nào có đến đi gì. Chúng ta là hàng môn hạ của Tổ sư phải noi theo tấm gương sáng chói ấy, sống và tu tập sao cho xứng đáng là đệ tử của thiền phái Trúc Lâm nước Việt.
Tóm lại, vua Trần Nhân Tông đã có những đóng góp to lớn cho quê hương và dân tộc Việt Nam. Dòng thiền Trúc Lâm do Ngài sáng lập đã có những ảnh hưởng nhất định đối với lịch sử dân tộc và làm khuôn mẫu cho Phật giáo Việt Nam lập cước tu hành. Cho đến ngày nay dòng thiền này vẫn là niềm tự hào cho tăng sĩ Việt Nam, rất được tôn quý, cần phải giữ gìn và phát huy đến chỗ tinh tủy của nó bằng sự nỗ lực tu tập, hành trì chuyên tâm nhất ý. Có thế Phật giáo Việt Nam mới đáp ứng được nhu cầu phát triển đời sống tâm linh của người dân Việt, thực hiện di huấn và hoài bão của Tổ sư. Chỉ có thế mới đền đáp được thâm ân vô lượng của Ngài – một Phật Hoàng nước Việt.
| HT. THÍCH NHẬT QUANG (Trụ trì Thiền viện Thường Chiếu)
Những nét siêu thoát của Phật Hoàng Trần Nhân Tông
I/ Ông Vua Có Hạt Giống Phật
Ai đã từng nghiên cứu đến Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử đều thấy rõ vua Trần Nhân Tông là ông vua Phật của đất nước Đại Việt, đúng với cái tên gọi: “Phật Hoàng Trần Nhân Tông” vì sao phải gọi như thế? Vì Ngài có chủng duyên sâu đậm với Phật Đà từ lúc mới sanh ra.
Trong quyển Thánh Đăng Lục ghi: “Khi mới sanh ra, thân tướng Ngài vàng tía như sắc Phật nên vua cha mới đặt tên là Kim Phật. Ngài tuy ở địa vị cao sang mà tâm hâm mộ thiền tông từ thuở nhỏ Và có chí hướng thượng như bậc Đại Sĩ xuất trần. Do đó, năm mười sáu tuổi được lập làm Hoàng thái tử, Ngài hai lần cố xin nhường lại cho em là Đức Việp, nhưng vua Thánh Tông không cho, vì thấy Ngài có khả năng gìn giữ giang sơn gánh vác việc lớn, đúng với cái nhìn của vua Thánh Tông sau hai lần chiến thắng quân Nguyên Mông oanh liệt. Trong khi đó lịch sử của các triều đại vua chúa, chỉ vì ngôi vị mà huynh đệ tương tàn, cốt nhục phân ly nếu không có hạt giống Phật ngầm chứa trong con người Ngài từ thuở nhỏ thì đâu biểu lộ ra hành động: “Coi ngai vàng như đôi dép rách”.
Cho nên, một hôm vào lúc giữa đêm không gian còn đang chìm đắm trong niềm cô tịch, Ngài trèo thành trốn đi định vào chốn núi rừng Yên Tử tu hành. Điều này chứng minh cái gì thúc đẩy Ngài sẵn sàng bỏ hết ngôi vị tôn quý vào chốn rừng sâu Yên Tử tham thiền học đạo, nếu không phải hạt giống Phật ngầm chứa trong con người của Ngài thúc đẩy, thì cái gì đưa Ngài đến con đường tầm đạo giải thoát? Với cái nhìn của Phật, đây đều là nhân duyên quá khứ thúc đẩy chớ không phải là việc ngẫu nhiên. Việc này lại rất khế hợp với Đức Phật, lúc còn là thái tử Tất Đạt Đa khi dạo qua bốn cửa thành chứng kiến cảnh già, bệnh, chết... Ngài quyết rủ sạch cung vàng, điện ngọc, vợ đẹp, con thơ... quyết tìm ra con đường giác ngộ giải thoát cho chính mình và nhân loại. Đây đúng là khúc nhạc hòa tấu giữa hai con tim thấy nỗi thống khổ của nhân sinh mà tìm phương thuốc cứu giúp. Song với vua Trần Nhân Tông, lúc ấy vua cha cho người tìm gọi về, Ngài bấc đắc dĩ phải trở về.
Năm 21 tuổi, Ngài lên ngôi Hoàng Đế (1279) tuy ở địa vị cửu trùng mà Ngài vẫn giữ mình thanh tịnh để tu tập, đây để chứng minh bậc Đại Sĩ vào đời có cái tâm siêu thoát trần tục hóa hiện phương tiện thiện xảo để dìu dắt tất cả chúng sanh còn đắm chìm trong sông mê biển khổ.
Thật là:
Bóng trúc quét thềm bụi chẳng động
Vầng trăng xuyên biển nước không chao.
Cho nên, lúc rảnh việc Quốc sự Ngài đến chùa Tư Phước trong đại nội tu tập. Một hôm nghỉ trưa Ngài thấy trong rốn mọc lên một hoa sen vàng lớn bằng bánh xe, trên hoa sen có Đức Phật vàng, có người đứng bên cạnh chỉ Ngài nói: “Biết ông Phật này chăng? Là Đức Phật Biến Chiếu”. Tỉnh giấc, Ngài đem việc đó tâu lên vua cha, vua Thánh Tông khen là việc kỳ đặc.
Như vậy, qua những hành động của Ngài như nhường ngôi cho em, sống trong cảnh cao sang mà tâm hoàn toàn thanh tịnh, đến giấc mộng kiến Phật cũng đủ chứng minh chất Phật đã có sẵn trong Ngài từ thời quá khứ rất sâu đậm, cho nên tuy ở địa vị tột đỉnh Ngài thường ăn chay lạt thân thể gầy ốm Thánh Tông thấy thế lấy làm lạ, nên hỏi nguyên do. Ngài trình thật với cha, Thánh Tông khóc bảo: “Nay ta đã già, chỉ trông cậy một mình con, con lại làm như thế, làm sao gánh vác được sự nghiệp của Tổ tiên? Ngài nghe dạy cũng rơi nước mắt. Đây quả thật là hạt giống từ bi đã ẩn chứa trong con người của Ngài từ vô lượng kiếp. Như trong Kinh Viên Giác Phật dạy: “Này thiện nam tử! Bậc Đại Sĩ biến hoá thị hiện ở thế gian chẳng phải do tâm ái làm gốc, mà chỉ do lòng từ bi khiến nhổ hết gốc ái của tất cả chúng sanh. Các Ngài mượn cảnh tham dục mà vào trong sanh tử.
Như vậy, sự có mặt của Ngài trong thế giới Ta bà khổ đau này, không phải vì nghiệp lực chiêu cảm mà vì bi nguyện, hạnh nguyện, đại nguyện của bậc xuất trần Thượng Sĩ đi vào trong dị loại để hoàn thành Phật đạo nhiếp hoá chúng sanh.
Thật là:
Tóc bạc đầy đầu lìa hang núi
Đêm tối xuyên mây vào xóm làng.
II/ Con Đường Xuất Thế Của Vua Trần Nhân Tông
Sau hai lần lãnh đạo dân quân Đại Việt đánh thắng giặc Mông Nguyên giải phóng đất nước, năm 1293 Ngài nhường ngôi lại cho con là Trần Anh Tông, lên làm Thái Thượng Hoàng để chỉ dạy cho con được sáu năm và chuẩn bị con đường xuất thế cho chính mình bước đầu Ngài ở Vũ Lâm như trong Đại Việt sử ký toàn thư ghi: “Bấy giờ Thượng Hoàng ngự đi Vũ Lâm dạo chơi hang đá, cửa núi đá hẹp Thượng Hoàng đi chiếc thuyền nhỏ, Thái hậu Tuyên Từ ở đằng đuôi thuyền, gọi Văn Túc Vương lên đằng mũi thuyền. Chỉ cho một phu chèo thuyền mà thôi khi Thượng Hoàng sắp ra đi, bèn mời Đạo Tải vào điện Dưỡng Đức, cung Thánh Từ ban cho ngồi ăn đồ biển làm thơ rằng:
Chân rùa bóc đỏ mọng
Yên ngựa nướng vàng thơm
Sơn tăng giữ giới sạch
Cùng ngồi chẳng cùng ăn
Hồng thấp bác quy cước
Hoàng hương chá mã yên
Sơn tăng trì tịnh giới
Đồng toạ bất đồng san.
(Trích toàn tập Trần Nhân Tông)
A / Non thiêng Yên Tử
Dù ai quyết chí tu hành
Có về Yên Tử mới đành lòng tu.
Đến tháng mười năm Kỷ Hợi (1299) Ngài xuất gia vào tu ở núi Yên Tử. Ở đây, Ngài chuyên cần công phu tu tập thiền quán từ khước sự hưởng thụ của thế gian, thực hành 12 hạnh đầu đà, lấy hiệu là Hương Vân Đại Đầu Đà, sau đổi là Trúc Lâm Đầu Đà. Nơi non thiêng Yên Tử Ngài sẵn sàng khước từ công danh phú quý, sống ẩn mình nơi hoang dã, để buông bỏ tình chấp ngã nơi thân tâm mà đoạn đường gay go nhất của các hành giả phải vượt qua, do buông bỏ tình chấp ngã nên Ngài đột phá vào cửa thiền chóng nếm mùi đạo vị, mà trong bài Đắc Thú Lâm Tuyền thành đạo ca Ngài đã bộc lộ chỗ thấu thoát của mình qua câu:
Học đòi chư Phật
Cho được viên thành
Xướng khúc vô sanh
An thiền tiêu sái.
B/ Vô Sư Trí Vi Tôn
Nhờ vào năng lực công phu hành thiền miên mật cộng với núi rừng non thiêng Yên Tử, ngài đã phát minh tâm địa thấu thoát bản lai diện mục của chính mình, khơi lại nguồn sáng tạo sống động “Vô sư trí” trong con người của Ngài, vượt thoát sự đối đãi nhị nguyên thường tình của nhân loại, đã thể hiện trong bài “Xuân vãn” Ngài đã nói lên một niệm mê là chúng sanh, một niệm giác tức Phật.
Niên thiếu hà tằng liễu sắc không
Nhất xuân tâm sự bách hoa trung
Như kim khám phá đông hoàng diện
Thiền bản bồ đoàn khán trụy hồng.
Dịch:
Thuở bé chưa từng rõ sắc không
Xuân về hoa nở rộn trong lòng
Chúa xuân nay bị ta khám phá
Nệm cỏ giường thiền ngắm hồng rơi.
Thật vậy, lúc còn niên thiếu ở trong ngôi vị quyền quý của một ông Hoàng chưa thấm nhuần lý đạo, mỗi độ xuân về hoa khoe sắc thắm. Sắc hương hoa là hình ảnh xao xuyến, quyến rũ tâm hồn trẻ dại của Ngài khi mỗi độ xuân về. Nhưng khi khôn lớn tìm thấy được dấu đạo, Ngài quyết dấn mình vào cửa thiền, qua bao năm tháng gia công tu tập, Ngài đã khám phá ra chân lý của vũ trụ, thấu tột “bản lai diện mục” của chính mình. Đến đây Ngài không bị sắc, hương, hoa quyến rũ nữa, mà tâm hồn luôn lắng đọng trong niềm cô tịch, từ đây đâu còn đuổi bướm hái hoa nữa, ngồi lặng lẽ trên nệm cỏ giường thiền nhìn hoa nở, tàn rơi rụng một cách an nhiên tự tại. Trước mắt Ngài, mỗi sự mỗi vật cứ trôi đi mãi, chuyển dịch đổi dời không phút giây dừng nghỉ, sự sinh diệt nơi các hiện tượng như một dòng sông trôi chảy đến vô tận, mà không thoát ngoài sự định vị của pháp giới. Đó là hình ảnh:
Thị pháp trụ pháp vị
Thế gian tướng thường trụ
Bởi vậy, dưới con mắt của người đã thấu thoát pháp giới vẫn thấy có cái gì luôn luôn hiện hữu, thoát ngoài sự sinh diệt không gian và thời gian muôn thuở.
Thế nên, người tu theo tinh thần thiền tông là không huỷ hoại đến các pháp, mà trả các pháp về bản vị của chúng, hoa vẫn nở, chim vẫn hót, suối vẫn reo, gió vẫn đùa trên tùng thông ngàn cội; hoa và chim, suối và gió, tùng và thông là một sự nhiệm mầu bất biến sinh động. Chúng vốn có mặt từ vô thuỷ đến vô chung, mà vô thuỷ và vô chung chỉ có mặt trong sát na thực tại bất động.
Vì vậy, thiền không thể lìa ngoài ảo ảnh đổi thay của muôn pháp, mà riêng tìm thực tại chân không, nhờ “Không” mà muôn pháp được hiện bày, nhờ “Không” mà muôn pháp được hoạt dụng. Vì sao? Vì “Không” vốn là tự thể của muôn pháp, là mẹ đẻ của muôn loài, là cội nguồn của chủng tánh hàm linh, là sự hiện sinh của tất cả pháp giới, ba đời chư Phật cũng từ “Không” mà lưu xuất. Nhưng “Không” lại không hình, không tướng, không phải quấy, hơn thua, lành dữ, tốt xấu…nên không sờ mó và nắm bắt được.
Nét độc đáo của “Thiền” là phát minh “Vô sư trí”. Vì vậy, người tu thiền khi nào ánh sáng giác ngộ bùng vỡ từ vùng sâu thẳm của tâm thức, khi một nguồn sống tâm linh được tuôn trào, thì lúc ấy chúa xuân liền vén mở cho ta những ẩn mật của kiếp người. Muốn khám phá ra được bộ mặt thật của chúa xuân, muốn trở về nguồn cội của pháp giới, thì mỗi người phải tự thể nhập vào vạn pháp. Chúa xuân ấy chỉ nằm trong sự đổi thay của muôn pháp, trong cái chuyển biến vô thường ảo vọng, hoa nở, hoa tàn của chúa xuân, trong sự vận hành của pháp giới nhân sinh, còn có cái gì ẩn mật thầm kín trường tồn miên viễn. Đó là hình ảnh:
Mây vốn không mây
Gió vốn không gió
Xưa nay không mây gió
Trời xanh! Mãi trời xanh!
Cuối cùng, chỗ dụng công đắc lực của hành giả tham thiền là: “Phản quan tự kỷ bổn phận sự”, việc làm này là việc của chính mình đâu tìm cầu bên ngoài mà vô ích. Nên nói là: “Bổn phận sự bất tùng tha đắc”. Vì thế, người tham thiền luôn luôn lúc nào cũng tỉnh thức và hằng xét soi lại chính mình, đừng để sáu căn đuổi theo sáu trần. Đến khi nào công phu chín muồi, thời tiết nhân duyên đến hoa lòng bỗng nhiên bừng nở, một tiếng nổ vang, mười phương thấu suốt, mới hay ra rằng: “Chúng sanh xưa nay vốn đã là Phật, sanh tử - Niết bàn như giấc mộng đêm qua”.
III/ Tóm Kết
Nhìn chung Sơ Tổ Trúc Lâm - Phật hoàng Trần Nhân Tông, quả là một con người quá là siêu thoát nổi bật trong đạo Phật nói chung và thiền phái Trúc Lâm nói riêng, một nhân cách sáng ngời cho hàng hậu học phải noi theo; nói về mặt lãnh đạo, là một nhà lãnh đạo tài ba xuất cách qua hai lần chống Nguyên Mông, về văn hóa là nhà văn hóa lớn trong lịch sử của dân tộc Đại Việt, về tôn giáo là nhà tôn giáo xuất trần Thượng Sĩ đi vào cuộc đời như một áng mây huyền thoại… Do đó, để nhận định về Ngài, chúng ta không thể lấy thức tâm phàm tình phân biệt được. Và hơn thế nữa, Ngài lại là bậc “Tùng lâm tông tượng” là bậc Đại Sĩ xuất trần, muốn biết về Ngài chúng ta lại phải một phen nhào nặn công phu đến khi nào “hoa lòng bừng nở” thì mới cùng Ngài tay trong tay dạo khắp mười phương chỉ trong một niệm.
Tóm lại, Trúc Lâm Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông là bậc Tổ Sư tôn kính đối với tất cả con cháu của dân tộc Việt Nam, và tinh thần “Vui đạo sống tùy duyên” của Ngài cần được phát huy đúng mức với người tu Phật, chúng ta phải biết trân quý, giữ gìn gia tài vô giá mà bậc Đại Sĩ Phật Hoàng để lại, chính đó là nền tảng để xây dựng một đất nước dân chủ, tự do ngày càng vững mạnh. Ý thức được trách nhiệm đó, chúng ta phải luôn luôn đoàn kết, không phân biệt tôn giáo, đẳng cấp... mà xưa kia Phật Hoàng Nhân Tông đã từng dung hợp “Tam giáo đồng nguyên”.
Hôm nay nhân kỷ niệm 700 năm ngày viên tịch của Sơ Tổ Trúc Lâm Điều Ngự Giác Hoàng chúng con tạm viết vài dòng thành kính tưởng niệm đến Ngài cùng đốt nén tâm hương dâng lên Ngài, một bậc “Tùng lâm tông tượng” hoá hiện đại phương tiện thiện xảo thể nhập nơi chốn “Cung vàng điện ngọc” mà vẫn ung dung tự tại siêu thoát như một áng mây huyền thoại trên bầu trời của dân tộc Đại Việt. Đó là hình ảnh:
Người về
qua cửa
phù vân
Nghiêng vai
trúc gánh
phong trần
đổ đi
Cuối cùng chúng con thành kính hướng về Tổ phát nguyện cố gắng tu tập như Ngài, dẫu đời này không được một bậc “Tùng lâm tông tượng” như Ngài. Song chúng con vẫn cố gắng làm viên thuốc bổ cho đời hòng xoa dịu những nỗi khổ đau của kiếp người trong vòng vô minh tăm tối và để cùng nhau tay trong tay hòa quyện trong cõi vô thường đầy ảo mộng này .
| Đạt Ma Khế Định (TV Thường Chiếu)
Vua Trần Nhân Tông và tinh thần "Bụt ở trong nhà"
Nói đến tinh thần "Hòa quang đồng trần" tức là nói đến tinh thần nhập thế của đạo Phật, lấy ánh sáng của đức Phật để thắp sáng trần gian, “sống trong lòng thế tục, hòa ánh sáng của mình trong cuộc đời bụi bặm”, và biết cách biến sứ mệnh đạo Phật thành lý tưởng phụng sự cho đời, giải thoát khổ đau cho cá nhân và xã hội. Thời đại nhà Trần và đặc biệt vua Trần Nhân Tông (1258-1308) đã làm được điều này thành công rực rỡ, mở ra trang sử huy hoàng cho dân tộc.
Trần Nhân Tông (1258-1308) là vị Hoàng đế thứ 3 triều Trần. Năm 21 tuổi lên ngôi Hoàng đế, hai lần lãnh đạo toàn dân đánh tan quân xâm lược Nguyên Mông. Năm 35 tuổi, lên làm Thái Thượng Hoàng và năm 41 tuổi chính thức xuất gia tu hành tại chùa Hoa Hiên-Yên Tử (Quảng Ninh), lấy Đạo hiệu là Hương Vân Đại Đầu Đà, là người khai sinh ra thiền phái Trúc Lâm – Yên Tử.
Trần Nhân Tông đã để lại cho dân tộc Việt Nam nhiều di sản văn hóa vật thể và phi vật thể giá trị. Một trong những lý tưởng sống nổi tiếng của ông chính là tinh thần "hòa quang đồng trần” (sống trong lòng thế tục, hòa ánh sáng của mình trong cuộc đời bụi bặm).
Nhân kỉ niệm ngày mất của ông, (1/11/1308-1/11/2008) Giáo hội Phật giáo Việt Nam và Ban Tôn giáo Chính phủ phối hợp tổ chức Lễ Tưởng niệm 700 năm ngày Đức vua - Phật hoàng Trần Nhân Tông nhập Niết-bàn, diễn ra từ ngày 25-27/11/2008 tại Quảng Ninh.
Tại lễ Tưởng niệm sẽ diễn ra Hội thảo chuyên đề về Trần Nhân Tông với sự tham dự của nhiều học giả, nhà nghiên cứu ở trong và ngoài nước.
Thực hiện đạo đức Phật giáo vào nếp sống cá nhân và xã hội
Nhìn xuyên suốt đối với quá trình lịch sử phát triển của dân tộc, không ai có thể phủ nhận sự đóng góp to lớn của các thiền sư như Pháp Thuận, Khuông Việt, Vạn Hạnh, Mãn Giác và Không Lộ… trong sự nghiệp cố vấn chính trị cho các triều đại trước thời nhà Trần.
Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, năm 1055, trời đông giá rét, vua Lý Thánh Tông bảo các quan rằng: “Trẫm ở trong cung nào lò sưởi, ngự bào mà còn rét thế này, nghĩ đến người giam trong ngục, khổ sở gông cùm, chưa biết rõ ngay gian, mà ăn không no bụng, áo không kín mình, gió rét khổ thân, hoặc có kẻ chết không nơi nương tựa, trẫm rất thương xót. Vậy hạ lệnh cho hữu ty phát chăn chiếu và mỗi ngày cho ăn hai bữa cơm.” Năm 1065, vua lại truyền lệnh cho quan cai ngục rằng: “Ta yêu dân như con. Dân không biết mà phải tội hình pháp, ta rất thương. Từ nay về sau, tội nặng nhẹ nhất luật đều tha thứ.”
Đến vua Lý Nhân Tông đã ra lệnh không cho giết trâu vì sợ không có trâu cày. Thái hậu Ỷ Lan lấy của kho chuộc những người đàn bà con gái vì nghèo phải đem thân trả thuế nợ, không thể lấy chồng, sợ tình trạng có đất mà không có dân…
Đại Việt Sử Ký Toàn Thư còn cung cấp rất nhiều tư liệu tương tự, chứng tỏ thời Lý là một triều đại hùng cường – bình Chiêm, phạt Tống – làm cho dân giàu, nước mạnh. Trong sách Lý Thường Kiệt, giáo sư Hoàng Xuân Hãn viết: “Đời Lý có thể gọi là đời thuần từ nhất trong lịch sử nước ta. Đó chính là nhờ ảnh hưởng đạo Phật.” Đạo đức xã hội thời Lý đã như vậy, chắc chắn đời sống cá nhân và xã hội lúc bấy giờ đã trở thành nếp sống lành mạnh, tạo được sức mạnh đoàn kết, tương thân tương ái, đùm bọc lẫn nhau để tồn tại và phát triển. Nghĩa là, thời Lý tạo nền tảng luân lý đạo đức xã hội vững chắc, làm cơ sở cho triều đại nhà Trần phát triển sau này.
Đến đời Trần, chúng ta vẫn còn thấy vấn đề an sinh xã hội rất ổn định, không có nhiều sự mâu thuẫn đối kháng trong tầng lớp nhân dân. Thậm chí cuộc cách mạng phế Lý lập Trần cũng diễn ra rất đằm thắm, hợp ý dân và không có sự tạo phản, nổi loạn hay bạo động (trường hợp tự phát của Nguyễn Nộn không thuận theo triều đình là rất hiếm), được kết quả như vậy chắc phải có sự ảnh hưởng của Phật giáo trong đời sống chính trị và dân sự lúc bấy giờ.
Hơn nữa, không phải Trần Thái Tông ưa làm vua mà bị buộc phải làm vua khi mới 8 tuổi, lại được dân chúng và tướng sĩ đồng tình ủng hộ. Bên cạnh ý chí tự học rất chuyên cần, thỉnh thoảng vua học đạo với các thiền sư như: Phù Vân, Ứng Thuận, Đại Đăng, nên cả thế học lẫn Phật học đều tinh thông, sau này có đủ tài đức lãnh đạo đất nước[2] một cách sáng suốt, nhơn từ và rất hiệu quả.
Những sự kiện như vua Trần Thái Tôn 30 tuổi đã viết nhiều sách Phật giáo rất phổ biến: Thiền Tông Chỉ Nam; Lục Thời Sám Hối Khoa Nghi; Khoá Hư Lục; Chú giải kinh Kim Cương… 40 tuổi vua nhường ngôi cho con, làm vua 32 năm, Thái thượng hoàng 20 năm và tu học theo Phật ít nhất 40 năm. Vua đã được nhân dân tôn kính như vị Bồ Tát sống, đã có công phát thảo kế hoạch biến núi Yên Tử thành thánh địa tâm linh Phật giáo đầu tiên, làm nền tảng cho trung tâm Phật giáo Trúc Lâm hình thành sau này. Chắc chắn, vua đã thấy rõ vấn đề sinh hoạt Phật giáo là cần thiết cho nhân dân và xã hội, nếu không như vậy thì đạo Phật Đại Việt vẫn phải lệ thuộc tinh thần vào đạo Phật Trung Hoa. Trong khi đó Nguyên Mông vẫn còn là mối đe dọa xâm lấn nước ta bất cứ lúc nào. Do đó, Yên Tử phải là điểm tựa tinh thần và là trung tâm tín ngưỡng cho toàn dân hướng về.
Kế tiếp, vua Thánh Tông và Tuệ Trung Thượng sĩ là hai vị cư sĩ tu tại gia, kết bạn và chơi thân với nhau như huynh đệ và đều chứng ngộ giải thoát. Tuy tu hành nhưng không rời xa công việc thế tục, vua tu Phật để độ mình và cứu đời, một vị vua sáng suốt, vạch ra đường lối xã hội, chính trị, quân sự và ngoại giao vô cùng ôn hòa nhưng mạnh mẽ và có kết quả.
Còn Tuệ Trung Thượng sĩ mặc dù tu hành rất tinh tấn, giảng đạo khắp nơi, từng làm thầy vua Trần Nhân Tông, nhưng đã từng hai lần chống giặc ngoại xâm thành công và làm quan Tiết độ sứ tỉnh Thái Bình. Điều đáng nói là cả hai đã đóng góp vai trò Bồ Tát cư sĩ của mình cho tiến trình tổ chức xã hội hoá Phật giáo bên cạnh Giáo hội Tăng lữ.
Đến triều đại Trần Nhân Tông, tinh thần "hòa quang đồng trần" của Phật giáo được phát huy một cách toàn diện, cũng có thể nói Phật giáo lúc bấy giờ đã trở thành quốc giáo. Điểm cần lưu ý, từ nhỏ đến 16 tuổi, vua Trần Nhân Tông đã học thông tam giáo và tinh tường giáo lý Phật đà, ngay cả thiên văn, lịch số, binh pháp, y thuật, âm luật, không thứ gì là không biết (Trúc Lâm đại sĩ xuất sơn đồ) và là học trò của Tuệ Trung Thượng sĩ.
Do đó, khi lên ngôi (1278) vua tiến hành một lúc hai việc: 1) Thống nhất các thiền phái Phật giáo, như Tỳ-ni-đa-lưu-chi, Lâm Tế, Vô ngôn Thông và Thảo Đường thành một phái thiền Trúc Lâm Yên Tử, người sáng lập không phải ai khác mà chính là vua Trần Nhân Tông.
Đây là việc làm vô cùng ý nghĩa, tạo được sức mạnh đoàn kết trong hàng ngũ đồng bào Tăng Ni Phật tử, gây dựng được ý thức đạo Phật Việt Nam trong lòng dân tộc. Nói rõ hơn, vua đã khéo léo vận dụng đạo Phật Ấn Độ và đạo Phật Trung Hoa thành đạo Phật Việt Nam. Dĩ nhiên, đạo Phật Việt Nam phải có tư tưởng độc lập phù hợp với văn hoá và truyền thống của người Việt Nam.
Kế thừa được nền tảng đạo đức Phật giáo trong xã hội thời Lý, vua Trần Nhân Tông thực hiện 10 điều thiện và Bồ Tát giới của Phật giáo trong mọi sinh hoạt xã hội, vận dụng tinh thần từ bi, cứu khổ, độ sanh của đạo Phật vào chiến lược chính trị, phát huy được sức mạnh đoàn kết và yêu nước của toàn dân, đánh tan chủ nghĩa xâm lược của Nguyên Mông, xây dựng đất nước Đại Việt độc lập, hùng cường và hưng thịnh.
Chính sách của vua Trần Nhân Tông khéo léo và tài tình ở chỗ thống nhất được các thiền phái Phật giáo thành một để đất nước Đại Việt của vua có được một đạo Phật đủ tiềm lực tôn giáo, phát triển nội lực cá nhân và tập thể, có thể làm lợi ích cho bản thân mình và đồng loại, trong đó có lợi nhiều mặt cho quốc gia và xã hội.
Ví dụ: đạo Phật khuyên con người từ bỏ tham, sân, si được chừng nào thì bớt khổ được chừng ấy, giảng dạy thuyết nhơn quả, nghiệp báo, luân hồi, tái sanh, tu sửa theo 10 thiện nghiệp, nêu cao lý tưởng Bồ-tát cứu khổ độ sanh… Sạch giới lòng, dồi giới tướng, nội ngoại nên Bồ-tát trang nghiêm; Ngay thờ vua, thảo thờ cha, thế mới thật trượng phu trung hiếu. (Cư Trần Lạc Đạo phú)”
Chưa nói thành Phật - Thánh, nhưng nếu có bất kỳ ai làm được những điều khuyên ấy, đều là người có ích cho mình và mọi người, nếu xã hội thực hiện những lời khuyên ấy thì xã hội ổn định và phát triển. Có lẽ nhờ vậy nên nhân dân ta đã đánh thắng quân Nguyên chăng…? Đây là vấn đề đạo đức và luân lý xã hội hết sức nhạy cảm trong xã hội ngày nay.
Dùng đạo Phật trong chính trị để phụng sự dân tộc
Chúng ta thường nghĩ: đạo Phật là đạo xa lánh cuộc đời, ẩn mình nơi sơn lâm cùng cốc, làm gì có can dự vào chính trị. Đó là sự nhầm lẫn đáng tiếc. Cần phải biết rằng, trước khi đức Phật đi tu Ngài cũng là một Thái tử tại vị 29 năm. Sau khi tu hành đắc đạo, Ngài quy y cho hai vị vua của hai nước lớn là Kô-sa-la và Ma-kiệt-đà và các vị vua của 14 nước chư hầu. Một hôm có hai nước đánh nhau vì tranh giành nước tưới ruộng từ dòng sông Rohini.
Khi trận chiến sắp xảy ra, quần chúng Phật tử kéo nhau đến cầu cứu đức Phật, xin Phật giải quyết. Đức Phật bảo dân trở về mời hai vị vua của hai nước tới đây. Hai vị vua tới, đức Phật khuyên họ: Bây giờ hai vua thấy nước sông Rohini quý hay máu của con người quý ? Cả hai vua đều trả lời: máu của con người quý.
Phật dạy: thế thì bỏ cái quý để giành cái không quý là dại dột, điên đảo vô cùng. Do đó, hai bên phải biết chia nước cho thật đồng đều, hoặc mỗi bên ngăn sông một ngày thì cả hai bên đều có nước tưới mà dân không có ai phải chết. Những lời khuyên như vậy quả là rất chính trị và trong kinh điển còn có nhiều lời tương tự như vậy. Chắc chắn vua Trần Nhân Tông đã học được rất nhiều ở trong giáo lý nhà Phật.
Hơn nữa, vào thế kỷ 13-14 nước ta phải đương đầu với sự đe doạ của quân xâm lược, không gì hơn vua Trần Nhân Tông phải củng cố lòng dân bằng niềm tin tôn giáo, vì tôn giáo là sản phẩm của tập thể, là kết tinh tinh thần của xã hội.
Nhưng Đại Việt lúc bấy giờ có 3 tôn giáo, cần phải chọn một. Khổng giáo hay Nho giáo bắt nguồn từ Trung Hoa, nếu vua chọn thì lại sợ ý thức hệ dân tộc sẽ dần dần mất gốc. Phật giáo tuy của Ấn Độ nhưng không chủ trương cố chấp, biến tinh thần vô ngã – vị tha thành hành động Bồ-tát, lấy lý tưởng từ bi để phụng sự cho con người. Một tôn giáo tốt như vậy không dùng không được.
Bên cạnh đó, dùng Phật giáo như để tuyên bố điểm tựa tinh thần cho nhân dân vào lúc này là việc làm rất chính trị. Vì công việc đối ngoại của triều đình đều thuận lợi. Đứng về mặt đối nội, đạo Phật rất phù hợp với truyền thống tín ngưỡng dân gian của mọi dân tộc (thiểu số) trên đất nước ta thời ấy. Ai ai cũng tôn sùng và thờ tự tổ tiên ông bà, thần hoàng, tiền hiền, tiền bối hữu công .v.v… Đạo Phật không những không mâu thuẫn với dân tộc mà còn đồng hành cùng dân tộc giữ gìn và phát huy truyền thống tốt đẹp ấy.
Về mặt đối ngoại, đạo Phật giúp cho triều đình dễ dàng giao hảo với nhân dân phương bắc, quan hệ ngoại giao với triều đình nhà Nguyên, đồng thời cũng rất thuận lợi về mối quan hệ với Chiêm Thành và Ai Lao. Vua Trần Nhân Tông chọn đạo Phật là đã có lập trường chính trị, vừa đủ sức thuyết phục đối phương, vừa có cơ sở tin cậy của quần chúng nhân dân.
Điểm nổi bậc là vào thời Đinh, Lê và Lý thì vua rất cần các vị cao Tăng cố vấn các công việc triều chính, nhiều khi lập chùa ngay trong nội phủ để tiện cho Sư tăng lui tới giúp vua tu học, đàm đạo Phật pháp, bàn luận chính sự… Nhưng đến đời Trần, các vị vua và tướng sĩ đều là những người Phật tử thuần thành, không những tinh thông về Phật học mà còn giỏi thế học; không những tu thân rèn đức để trở thành những bậc lãnh đạo tốt của nhân dân mà còn là những nhà chính trị và quân sự rất tài tình xuất chúng.
Như vua Trần Nhân Tông cũng lo phát huy Khổng giáo và Nho giáo, vẫn tiếp tục giáo dục đào tạo theo hình thức Tam Giáo Đồng Nguyên, tổ chức thi cử tại Quốc Học Viện bằng chữ Hán, chữ Nôm, Nho học, Đạo học và Phật học, chọn được nhiều người tài đức ra giúp dân giúp nước.
Trong Kiến Văn Tiểu Lục, Lê Quý Đôn đã viết: “Bởi vì nhà Trần đãi kẻ sĩ một cách khoang dung, không hẹp hòi, hoà vị mà có lễ phép, cho nên nhân sĩ thời ấy ai cũng biết tự lập, anh hào tuấn vĩ vượt ra ngoài lưu tục, làm cho quang vinh cả sử sách, không thẹn với đất trời, há phải dễ đời sau sánh kịp.”
Đức Phật dạy: “Muốn bảo vệ chân lý, các ngươi chỉ được nói rằng: Đây là sự thật. Và không được nói: chỉ có đây là sự thật, ngoài ra đều là sai lầm (Trung Bộ kinh).” Tinh thần này được các người con Phật áp dụng một cách triệt để, nhờ đó mà tính độ lượng, khoang dung, không cố chấp trở thành nếp sống của Phật giáo Đại Việt, trong đó có vua Trần Nhân Tông.
Hơn nữa, cái nhìn về đạo Phật của vua Trần Nhân Tông rất rõ ràng: Bụt không nên cầu ở ngoài mà chính phải tìm ngay ở chính mình, nếu biết “tích nhân nghì, tu đạo đức, ai hay này chẳng Thích Ca.”, làm theo 10 nghiệp lành, ai bảo đó không là Bồ Tát, không phải là Phật Thích ca. Trong Cư Trần Lạc Đạo phú, vua viết:
“Mình ngồi thành thị, nết dụng sơn lâm,
muôn nghiệp lặng an nhàn thể tính…
Dứt trừ nhân ngã, thì ra tướng thật Kim cương;
dứt hết tham sân, mới lảu lòng màu viên giác.
Tịnh độ là lòng sạch,
Chớ còn ngờ hỏi đến Tây phương… ;
Vậy mới hay! Bụt ở trong nhà; chẳng phải tìm xa.
Nhân khấy bản (quên gốc) nên ta tìm Bụt,
Đến cốc hay chỉn (chính) Bụt là ta…
Đối với vua Trần Nhân Tông, tịnh độ là lòng sạch não phiền, nghiệp chướng thì Tây phương Phật cảnh hiện tiền. Sống ngay nơi trần thế mà tìm ra cái vui của Bụt, tâm thể an nhàn, các nghiệp được thanh tịnh (muôn nghiệp lặng) ngay giữa cuộc đời rối ren này. Đây cũng là tư tưởng chủ chốt để thống nhất Thiền - Tịnh - Mật thành một, lãnh đạo Phật giáo đi cùng với đồng bào Phật tử Việt Nam, trãi qua nhiều biến cố thăng trầm của thời cuộc và vẫn tồn tại cho tới ngày nay.
Ngay cả lúc đang làm vua hoặc sau khi đi tu, vua vẫn thường tinh tấn tu tập nhưng không bao giờ xao lãng công việc triều chính, lo cho dân cho nước tới giờ phút cuối cùng. Cụ thể nhất là vua đã đi khắp nơi để dẹp bỏ quan dâm, quan tham khiến dân đói rách, lầm than cực khổ, đem 10 điều thiện và giới Bồ Tát giảng bày cho dân chúng làm theo, gia đình và xã hội nhờ đó được yên, bằng chứng là vua Anh Tông, con của vua Trần Nhân Tông, được truyền ngôi nhưng chỉ có một hôm lỡ uống rượu quá chén vẫn bị vua trừng phạt.
Một vị vua đang tại vị, chỉ hơi quá chén một chút, ngủ qua đêm và ngày mai thì mọi chuyện bình thường, có gì tội lỗi đâu? Nhưng đối với vua Trần Nhân Tông thì không phải như vậy. Vua là cha của thiên hạ, cha say thì con cũng say, quan say thì dân cũng say, người lớn say thì con nít cũng say, cả nước mọi người đều say là tại vua quan say trước, do đó mất gia đình, mất dân tộc, và cuối cùng mất nước. Nếu điều này là chuyện nhỏ thì sách sử ghi lại để làm gì ?
Ngoài ý nghĩa giáo dục như một bài học chính trị quí giá, chúng ta thấy đạo đức Phật giáo đã ngấm sâu vào lòng dân tộc, nếu bất cứ ai, dù là vua mà đi ngược lại đạo đức dân tộc, đều bị dân tộc lên án.
Càng rõ hơn nữa, nếu triều đình coi thường dân đen thì làm gì có chuyện Hội nghị Diên Hồng, nếu xem thường tuổi trẻ thì làn gì có chuyện Trần Quốc Toản bóp nát quả cam để xin vua can dự vào việc nước. Kết quả cuối cùng, đánh đuổi xâm lăng ra khỏi bờ cõi, xây dựng nước nhà hưng thịnh, nhân dân an lạc, vui hưởng thái bình. Ấy không phải là cảnh tịnh độ tại thế gian này hay sao…!
Đạo đức học dân tộc, thể chế chính trị và đạo Phật triều Trần là ba cạnh của một tam giác. Muốn nghiên cứu Lịch sử tư tưởng về tam giác này phải có một công trình nghiên cứu khoa học độc lập. Những trang sử tốt đẹp và vẻ vang của dân tộc cần phải được truyền dạy thấu đáo cho giới trẻ bởi tương lai của đất nước này nằm trong tay những người như thế!
| Hòa thượng Thích Hải Ấn - Phó Trưởng Ban thường trực Ban Văn hóa, Giáo hội Phật giáo Việt Nam
Ghi chú: [1]. Tuệ Trung Thượng Sĩ Hành Trạng. [2]. Bài tựa Thiền Tông Chỉ Nam ghi lời của thiền sư Phù Vân dạy lúc vua bỏ triều chính đi tu: “Đã làm vua thì không còn có thể theo ý thích riêng mình được nữa. Phải lấy ý muốn của dân làm ý muốn của mình, phải lấy lòng dân làm lòng của mình. Nay dân đã muốn vua về thì vua không về làm sao được?...”
2012 Copyright © Trần Nhân Tông Library. All rights reserved.